THU – GIANG
NGUYỄN DUY CẦN
Một nhân sinh quan thoát thai ở tinh thần Đạo học Đông phương
thuần túy
LOẠI SÁCH
“HỌC LÀM NGƯỜI”
NHÀ SÁCH
KHAI-TRÍ
1960
62, Đại lộ Lê Lợi – SAIGON
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
2
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
LỜI NÓI ĐẦU
Con chiên nhờ ăn cỏ mà được bộ lông mướt đẹp… ta hãy dung lông nó, không cần
phải để ý nó ăn cỏ nơi đâu?
Cây cối sởn-sơ bông trái, ta hãy ăn trái ngắm hoa, đừng để ý hỏi ngọn suối nơi đâu
đã thấm nhuần nuôi nấng nó.
Đọc quyển sách này, các bạn cũng không cần phải để ý đến những lý thuyết tư tưởng
nào đã giúp nó đơm hoa kết quả. Những học thuyết tư tưởng đã giúp nó sanh thành đối
với tác giả nó, cũng như cỏ đối với chiên, nước đối với cây… đã biến hóa khí chất. Tìm
nó, vô ích, vì nó không còn nguyên vẹn bản chất của nó nữa.
Quyển sách này, viết cho riêng từng bạn. Bạn đừng lo nghĩ nó có ích lợi gì cho kẻ
khác chăng ? Bạn hãy tự hỏi : nó có ích lợi cho bạn chút nào không ? Nếu có. Thế là đủ.
Bằng không, bạn hãy dẹp nó lại một bên.
Bạn đừng đứng bên phương diện xã hội mà quan sát sự ích lợi của nó. Hãy đứng
theo phương diện cá nhân, là bạn sẽ ít thấy sự thất vọng hơn.
Đọc quyển sách này, các bạn bớt lo cho đời một chút, để tâm lo cho mình một tí, có
lẽ sẽ không uổng công đọc nó. Và nhứt là, phải hết sức thành thực với mình mới đặng.
*
* *
Tìm cái lẽ Sống, cái sống thật của mình không phải cái song sai lầm của bản ngã, là
phận sự duy nhất của mỗi một người của chúng ta. Sống trong quan niệm lạc lầm của
bản ngã, ta sống trong nô lệ, trong đau khổ. Sống trong Chân – Thể của ta, mới thật là
Sống, sống trong Tự Do …
Đường giải thoát, là con đường dẫn ta đi tìm cái lẽ sống chân thật của ta, là con
đường duy nhất của những I nhận chân đặng cái sống vô cùng đangẩn núp nơi đáy
long…
Sài thành ngày 22 tháng 5 năm 1960
T.G NGUYỄN DUY CẦN
“ Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi di… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan
được bong tối hay không…”
TAGORE
Chân lý
cứng như Kim cương
mà bở như Hoa đào
3
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
I
CHƯƠNG THỨ NHẤT
SỐNG
Người ta là con vật thông minh nhất trên đời : chuyện trên trời dưới đất,
chuyện bên đông bên tây, chuyện xưa chuyện nay, chuyện ông này bà nọ, chuyện
tư chuyện công… không việc nào là không tò mò xem xét đến. Ta khảo cổ luận
kim, suốt đời cặm cụi tìm nghĩa lý từng chữ một của cổ nhân,cãi nhau vanh
vách… Thật không có một việc gì thoát khỏi sự tò mò của ta.
Thế nhưng, cái điều quan trọng nhất của đời ta, cái sống của ta đây, không
được mấy ai để ý đến.
Ôi! Kẻ nói câu: “người là con vật chí ngu”, không phải là không có lý do vậy.
Trang tử nói : “Hạng ta gọi là thông tai, không phải là thông tai nghe rõ cái
ngoài đâu, mà là thông tai nghe rõ nơi mình. Hạng ta gọi là sang mắt không phải
sang mắt thấy cái ngoài mình đâu, mà là sang mắt thấy cái nơi mình. Kẻ chẳng
thấy mình mà thấy cái ngoài mình, chẳng được cái trong mình mà được cái ngoài
mình, ấy là kẻ được cái được của người mà chẳng được cái được của mình, thích
cái thích của người, mà chẳng thích cái thích của mình… ấy đều là hạng ngu si
mê muội cả…”
*
*
*
SỐNG!
Ai là người không sống? Vậy chớ còn thấy, còn nghe, còn ăn còn uống, còn
ham muốn, còn cảm giác… là chết hay sao mà lại bảo… đi tìm cái sống?
Hỏi thế là vì ta chưa để ý phân biệt sự “có – đây” và “có sống” là hai lẽ khác
xa nhau.
“Có đây”, là chỉ có tai, có mắt, có mũi cùng óc suy nghĩ, long cảm giác như ai,
nhưng có tai mà không biết nghe, chỉ nghe theo cái nghe của người khác, nghe
theo thành kiến; có mắt mà không biết xem, chỉ xem theo cái xem của kẻ khác;
có mũi mà không biết thở, chỉ thở theo cái thở của kẻ khác; có óc mà không biết
4
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
suy, chỉ suy theo cái suy của kẻ khác; có tâm mà không biết cảm; chỉ cảm theo
cái cảm của kẻ khác… Thế thì, “có đây” không phải là luôn luôn “có sống”.
Phần đông thiên hạ ngày nay, chỉ biết mình “có đây” là đủ, không quan tâm
đến coi mình “có sống” hay “chưa có sống”.
Sống, có hai nghĩa : Sống cái sống của mình và sống theo cái ống của kẻ khác.
Sống theo mình là “có sống”
Sống theo kẻ khác, chưa phải sống.
*
* *
Nhưng, sống theo mình, người ta lại sống lầm theo cái không phải mình, mà là
sống theo cái “ta” kết tinh của hoàn cảnh xã hội mà mình nhận lầm là Mình. Cái
đó, tôi tạm gọi là cái “phi ngã”, nghĩa là cái Ngã ở ngoài ta, cái không phải Ta.
Đó là chưa nói đến cái Bản Ngã mà nhà Phật thường gọi là Ngã chấp nghĩa là
thấy ta là khác.
“Phi Ngã”, không phải là Ta. Nó chỉ là cái sản phẩm của hoàn cảnh mà ta nhận
lầm là Ta. Những cảm giác, tư tưởng, dục vọng của ta phần nhiều do mối kích
động của giác quan đối với ngoại giới mà có. Thân thế, giác cảm, nhận thức, tư
tưởng đến cả ý thức của mình nữa, hợp lại thành Phi Ngã. Phi Ngã chỉ là phản
ánh trung thành của ngoại cảnh. Hoàn cảnh thế nào, ta như thế ấy, như bóng với
hình. Nó là kết tinh của hoàn cảnh, xã hội, chế độ, luân lý, học thuyết, tôn giáo,
dư luận, phong tục, sách vở… Cái “ta” ấy không phải là Ta mà là cái “ta xã hội”
nơi ta.
Sống theo mình, mà sống theo cái Phi Ngã của ta tức là sống theo kẻ khác,
sống theo ngoại vật, cũng chưa phải là “sống” …
II
CHƯƠNG THỨ HAI
5
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
ĐI TÌM CÁI SỐNG
Những bảng giá trị của ngày nay, bất luận thuộc về giới nào ( tôn giáo, triết
học, luân lý, xã hội, văn hóa…) đều căn cứ trên quan niệm Nhị - nguyên chia
phân cái Sống – Một làm hai phần rất phân biệt : nhĩ và ngã ( ta và người ), tâm
và vật, thánh và phàm, tâm và trí, cá nhân và xã hội, động và tịnh, phúc và họa…
Nhân sự phân chia ấy mới có nảy sanh ra những quan niệm sai lầm về sang hèn,
vinh nhục, thị phi. Thực sự, những cặp đối đích ấy chỉ là một bề mặt bề trái của
một sự Thật mà thôi : Động ở trong Tịnh mà ra, Tịnh nhân Động mà có. Vật nhờ
Tâm mà thông, Tâm nhờ Vật mà hiện. Hai thứ đối địch ấy cũng đồng một gốc mà
ra: Tuy hai mà là Một. Đó là chỗ mà Lão Tử bảo : “thủ lưởng giả đồng xuất nhi
dị danh”. Không có Âm thì Dương không nơi nương tựa, mà không có Dương thì
Âm không làm sao biến chuyển. Cũng như Yêu là điều kiện của Ghét, mà Ghét là
do Yêu mà có.
Người ta ở đời, không một sinh vật nào là không thọ của Trời Đất một cái
Sống. Cái sống ấy cùng với Trời Đất là Một, một cái mầm toàn năng, toàn lực,
toàn thiện, toàn mỹ.
Phận sự của ta là phải trở về với cái Sống – Một ấy, để Sống cái “ Sống Vô
cùng” đồng với Trời Đất đang ẩn núp trong đáy lòng. Một hiền triết Hy lạp nói: “
Nơi ta là một nguồn suối trong bất tuyệt, hãy đào sâu mãi sẽ gặp”. (Epictète).
Phần đông, chỉ vì không biết trở về “nguồn Sống-Một ấy của mình, nên không
thể nhận thấy được chỗ toàn thiện của mình, mà chỉ thấy toàn là sản vật của hoàn
cảnh xã hội mà thôi.
Không nhận thấy được sự toàn thiện của mình mới có sanh cái lòng đèo bong
ham muốn cái toàn thiện ngoài mình, bấy giờ mới có lấy sự Phải Quấy của người
làm cái Phải Quấy củ a mình; lấy cái Vinh Nhục của người làm cái Vinh Nhục
của mình; lấy cái Lớn Nhỏ của người làm cái Lớn Nhỏ của mình. Đâu có biết
rằng cái Phải của người này đâu còn là cái Phải đối với người kia; cái Quấy của
người kia đâu còn là cái Quấy của người nọ. Không có cái Phải nào là cái Phải
chung cho tất cả mọi người, mà cũng không có cái Quấy nào là cái Quấy chung
cho tất cả mọi người được. Vạn vật dưới Trời, không vật nào tự nó là hữu dụng
hay vô dụng cả.
Những danh từ Phải Quấy, Tốt Xấu, Vinh Nhục, Lớn Nhỏ… chỉ có cái giá trị
tương đối mà thôi. Muốn nói cho đúng hơn thì ta nên nói rằng : chỉ có những cái
gì có lợi cho cái Sống của mình là Phải, là Tốt, là Vinh, là Lớn… trái lại đều là
Quấy, là Xấu, là Nhục, là Nhỏ cả.
6
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Người ta sanh ra không phải là một vật Toàn Thiện ngay. Cái “Sống Vô Cùng”
nơi ta, không khác nào cái “S
ống Toàn Mãn” của một cây kia hàm chứa trong
một hột giống. Trong hột giống, đã chứa sẵn cái mầm của tất cả cây sau này : lúc
chỉ là một đọt xanh, rồi đến hồi đơm bong kết quả… phải trải qua không biết bao
nhiêu giai đoạn mới phát huy được tất cả sức sống của mình. Phận sự của ta, nếu
có thể gọi đó là phận sự, là phải thực hiện cái sống ấy đến chỗ chí thiện của nó.
Có một cái gì vô cùng mãnh liệt thúc đẩy ta mà ta không làm gì từ chối hay trốn
tránh được.
Nên nhớ kỹ : tôi nói “đến chỗ chí thiện của mình” chứ không phải “đến chỗ chí
thiện của kẻ khác”. Nếu là cây hường thì phải sống cái sống toàn thiện của cây
hường mà không đèo bong ham muốn cái toàn thiện của cây lan. Và trong đời,
không có cái toàn thiện nào là cao trọng hơn cái toàn thiện nào cả. Đã là toàn
thiện thì đều đồng như nhau cả.
Nhận chân đặng cái lý này rồi, người ta sẽ không còn ai xem ai hơn mình cả và
mình cũng không tự xem là hơn ai cả. Lão tử nói : “ Ta không muốn ai trọng ta
như ngọc ngà mà cũng không muốn ai khinh ta như sỏi đá”. Kẻ tự mình khinh
mình thì làm gì tránhđược kẻ khác khinh mình. Không tự khinh là tự biết chỗ
cao trọng của mình và lo trau dồi phát huy cái sống của mình đến chỗ tận thiện
của nó, không đèo bòng ham muốn cái tận thiện của kẻ khác. Còn trái lại, nếu
mình chỉ thấy cái cao trọng của kẻ khác mà không thấy chỗ cao trọng của mình
đó là tự mình, mình tạo ra người bóc lột mình rồi. Kẻ trên bóc lột người dưới,
người dưới bóc lột người dưới nữa… và cứ cái đà ấy mà đi, chưa biết đến đâu là
cùng. Toàn chỉ vì tất cả chúng ta đều bị tâm cảm tự ti và cái Sợ là đầu mối của
biết bao nhiêu tao loạn. Kẻ bóc lột thì sợ bị bóc lột nên bóc lột thẳng tay; người
bị bóc lột thì nhẫn nại chịu đựng để hy vọng một ngày gần đây bóc lột lại kẻ khác
để trả thù. Vì thế mà đồng lòng cùng nhau lo bảo vệ những bảng giá trị sai lầm.
Cuộc đời, rốt cuộc, chỉ là một trường cạnh tranh không ngớt “cá ăn kiến, kiến ăn
cá”. Vấn đề nhân sinh không còn ý nghĩa gì nữa cả.
Cái Văn minh ấl y sự so đo hơ n kém với cái ngoài mình làm tôn chỉ là “văn
minh tiến bộ” mà loài người đang tranh nhau sùng bái. “ Tiến bộ”, theo phần
đông, có nghĩa là hơn người… Hơn về của cải, tước quyền, mưu mô, thủ đoạn,
chứ không phải hơn về nhân cách. Người mà “tiến bộ” là người có nhiều của cải,
địa vị cao, tôi tớ nhiều… Nước mà “tiến bộ” là nước có nhiều lúa gạo, bạc vàng,
binh gia và thuộc địa… Mục đích của văn minh tiến bộ là “thành công”, là “đắc
thắng”… Rốt lại, chỉ có kẻ nào lòng tham dục mạnh hơn tất cả là tiến bộ cao hơn
hết và được thiên hạ tôn thờ, bất luận đã dùng thủ đoạn gian ngoan nào để đắc
thắng. Trong cái xã hội tôn thờ “văn minh tiến bộ” thì những chữ nhân nghĩa toàn
là giả dối cả. Kẻ mạnh hiếp yếu thì dùng nhân nghĩa bên lêu làm bình phong để
che dấu giả tâm mì nh. Kẻ bị đè đầu cưỡi cổ thì kêu gào nhân nghĩa để được
người ta thương hại mà nới tay… đợi một ngày kia quật khởi sẽ đè đầu cưỡi cổ
7
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
lại. Tựu trung chỉ một trò tuồng trong đó chỉ lấy sự hơn kém nhau về thế lực bên
ngoài làm mục tiêu tranh đấu.
Thấy kẻ “hơn” mình mà quý trọng, đó là mối loạn đã gieo vào lòng người rồi.
Trang Tử cũng có nói : “ Nước dưng lên, cá kéo cả bầy lên bãi… Nước rút
xuống, trở về sông biển không kịp, mắc cạn cả bầy trên vũng nước nhỏ. Bây giờ,
chen lưng đâu cật, chum nhum xúm xít với nhau, kêu gọi sự hỗ trợ yêu thương
nhau và gọi đó là Nhân. Sao không lo trở về vực sâu trước đi, để đến nước bị cạn
mà phải đem Nhân Nghĩa giảng dạy nhau chi có ích gì?”
Xã họi sở dĩ loạn là vì không ai biết trở về với cái sống thật của mình, mãi đèo
bòng ham muốn cái ngoài mình, lấy sự “hơn người” làm tiến bộ để kích thích
nhau, đến tàn sát nhau như bầy lang sói. Chừng ấy, dù có đem Nhân Nghĩa mà
khuyên bảo nhau cũng bất quá là việc làm tạm bợ cho qua buổi thôi.
Cái mầm loạn đã bắt đầu ở chỗ “quên mình” để “chạy theo người” của chúng
ta. Hay nói một cách khác, cái mầm loạn là do mỗi người của chúng ta chưa ai
biết sống cái sống của mình vậy.
*
* *
Muốn tìm lại cái thuật Sống của mình phải làm thế nào ?
Trước hết phải đem những bảng giá trị sai lầm của thời đại mà kiểm soát và
phê bình sửa đổi lại.
Nhưng cũng chưa đủ. Nếu cần phải hủy phá thì cũng phải có đủ cương quyết
mà hủy phá nó, mặc dù làm thế có chạm vào quyền lợi ích kỷ của những kẻ thân
yêu mình.
*
* *
Sống, tức là chiến đấu. Chiến đấu với ngoại cảnh, với những gì có thể làm trở
ngại cho đời sống tự do theo bản tánh của mình. Chiến đấu với nội tâm để tìm lại
cái quân bình của Tâm Trí.
Sống tức là tìm kiếm, suy xét cho ra thế nào là cái lẽ sống chân thật của ta, và
thế nào là cái chân giá trị của sự vật bên mình.
Vậy, bước đầu tiên trên con đường tìm cái sống của mình là phải luôn luôn
hữu tâm, thật hữu tâm trong từng mảnh mún hành vi của mình hằng ngày, nghĩa
là đừng sống vô tâm như bộ máy nữa.
Ôi “thiên hạ đều biết tìm cái mà mình không biết mà chẳng ai biết tìm cái mà
mình đã biết; _ đều biết chê cái điều mà mình cho là không phải, mà chẳng ai biết
tìm cái mình đã cho là phải.”
Đó là cái khôn của thiên hạ ngày nay.
Nhưng đó chỉ là cái khôn vặt, chưa phải là cái thật khôn. Cái khôn ấy là cái
khôn đeo đuổi theo cái ngoài mình, cái mình không biết, mà quên mất Mình, tức
là cái mà mình đã biết… hay muốn nói cho đúng hơn, cái mà mình tưởng đã biết.
8
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
III
CHƯƠNG THỨ BA
CÁI LẼ SỐNG CỦA TA
Nói đến cái Lẽ sống chân thật của ta là nói đến sự tự do phát triển của nó.
Làm sao cho mỗi người đều nhận thức được Bản Tánh – tức cái Sống của
mình, và biết trở về với Đó, sống trong cái sống của Đó mà không đèo bòng ham
muốn sống trong một cái tận thiện nào khác hơn cái tận thiện của mình _ đó là đã
tìm ra được “cái lẽ sống chân thật của mình” rồi vậy.
Mình là cây hường thì sống theo cái sống của cây hường đến chỗ toàn thiện
toàn mỹ của cây hường.
Muốn được vậy, tự mình trước hết phải hết sức nghiêm khắc với dục vọng của
mình. Nói đến Dục vọng ta nên để ý điều n ày : bảo phải tuyệt dục là tuyệt lấy
những dục vọng lăng quằng của Bản ngã, của cái cảm giác sai lầm rằng mình và
đời là cách biệt, của những lòng tham muốn cái ngoài của mình, đeo đuổi theo
ngoại vật mà quên mất cái Chân thể của mình, chứ không phải bảo tuyệt cả tình
dục chân chính của mình, cái lòng ham muốn trở về cái tận thiện tận mỹ của
mình.
Tình dục là sự sống. Tuyệt dục là tuyệt sống hay sao ? Dục vọng sở dĩ có là tại
mình chưa nhận thấy cái sống thật của mình. Thay vì đem tham vọng của mình
đeo đuổi theo ngoại vật, ta xoay chiều đổi hướng đưa nó về con đường tìm cái
người thật của mình, thì làm sao không đi đến chỗ chí thiện và toàn phúc cho
đặng ?
Nếu không nhận thấy được cái Quý nơi trong mà chỉ thấy cái Quý nơi ngoài,
cái loạn đã bắt đầu sanh ra nơi lòng mình rồi. Đã cho vật này là Quý là Đẹp, tất
cũng phải có vật khác Quý hơn và Đẹp hơn. Và cứ nếu như thế mãi mà đi tìm…
thì cái Quý, cáiĐẹp không biết đâu là cùng mà lòng tham muốn của con người
cũng không biết đến đâu là tận.
Người ta thường lấy Vinh làm sướng, lấy Nhục làm khổ, mà chính mình phần
đông cũng chưa ai biết sao là thật sướng, sao là thật khổ cả.
Sướng, theo phần đông, là thấy mình hơn được người ; - nhưng trái lại, khổ vì
mình cũng còn thua kẻ khác. Thế thì có sướng gì đâu mà gọi là sướng. Chẳng qua
sướng hơn kẻ khổ, khổ hơn kẻ sướng mà thôi. Thiên hạ tôn người hiền, trọng kẻ
sĩ… chỉ tự mình xúi dục lòng tham lam tranh đấu của kẻ khác. Lão tử đã biết mà
nói trước : “ bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.”
9
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Người ta, ai ai cũng vì hạnh phúc mà làm. Kẻ đi tìm bằng cách này, người đi
tìm bằng cách kia, - tuy phương pháp có khác nhau, chung quy ũc ng chỉ vì ham
sướng sợ khổ.
Kẻ được học nhiều, tiền nhiều, quyền thế nhiều…sở dĩ tự xem là sướng, không
phải vì tự họ cho đó là sướng mà thực ra, vì kẻ chung quanh thèm thuồng và cho
đó là sướng. Kẻ ngồi xe hơi thấy mình là sướng vì thấy có kẻ đi bộ bê bết cực
nhọc họ thèm thuồng được ngồi xe lộng lẫy như mình… Kẻ đeo châu ngọc cảm
thấy sung sướng hãnh diện là vì có kẻ không có châu ngọc họ them thuồng vật
quý của mình. Giả sử mà thiên hạ đều có xe hơi, cùng đeo châu ngọc thì cái
sướng của mình chắc chắn sẽ không còn sướng nữa. Thật ra cái sướng của mình
là do cái khổ của kẻ khác xấu số hơn mình mà có. Và vì thế mà người ta đâm
chém nhau, tàn sát nhau một cách vô cùng kinh khủng.
Tuy nhiên, có kẻ sẽ nói : Phú quý tuy là cái mồi, nhưng không có nó làm sao
xui người tiến bộ ? Nhưng, nói thế, sao không biết xét : tiến bộ đến đâu ? Mục
đích cuối cùng của con người phải chăng là hạnh phúc? Vậy cái “mồi” ấy có đưa
người ta đến hạnh phúc không ? Chắc chắn là không. Khoa học ngày nay đã cung
phụng và thỏa mãn người người đủ mọi nhu cầu, thế đã đưa lại hạnh phúc cho họ
được chưa, hay chỉ tạo them sự thèm muốn liên miên, dục vọng con người càng
ngày càng thêm ác liệt ?
Vậy, dùng cái “mồi” ấy để đưa người đi đến đâu ? Đến cõi đời hạnh phúc nào
thì chưa biết, chứ đưa đến chỗ tàn sát lẫn nhau như một bầy điên, đó là điều chắc
chắn.
Lợi dụng cái “mồi” ấy để bắt con người đi mãi đến cái hố sâu không đáy của
sự diệt vong, có người đánh xe lừa khôn khéo kia, cho lừa mang bó cỏ tươi trước
mồm để gạt nó bước tới… Bước mãi mà bó cỏ vẫn kề bên miệng không được
liếm láp cọng nào, phải chăng đó là cực hình của Tan-tale trong thần thoại Hy lạp
? Nhưng kết quả thì rất hay : xe l ừa vẫn đi mãi theo ý muốn của người đánh xe,
mà không tốn một cọng rơm nào cả!
*
* *
Tìm hạnh phúc và sống đặng hạnh phúc là hai lẽ khác nhau xa.
Không cần bàn đến kẻ đi tìm hạnh phúc nơi ngoài, _ chỉ bàn đến những kẻ đi
tìm hạnh phúc nơi trong.
Kẻ mà ta gọi là bực hiền, phải chăng chỉ là kẻ đi trước ta trên con đường tìm
cái lẽ sống của mình ?
Nguồn sống không khác nòa một giếng nước, mà chúng ta đây là bọn hành
khách đang khao khát trên bãi sa mạc. Chúng ta cùng đi tìm nước. Trong khi đi,
có kẻ trước người sau… kẻ đi trước thấy mình gần được giếng nước, ngó lại sau
nhìn những kẻ chưa theo kịp với cặp mắt thương hại tự xem mình là vinh và cảm
thấy mình còn sướng hơn kẻ còn lê bước ngoài xa. Như thế có phải lẽ hay không
10
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
? Mà kẻ đi ngoài xa, trông vào người đi đằng trước lại ao ước thèm thuồng cho
người ta được hạnh phúc hơn mình. Nhưng, thật ra, cái “sướng thật” nào ai đã có
nếm qua đâu, vì chưa có ai đi tới giếng và cũng chưa có ai uống được một giọt
nước giếng bao giờ.
Cái sướng khổ của người đời trong khi đi tìm Chân Lý, chỉ cũng như thế :
sướng khổ trong tưởng tượng mà thôi. Kẻ học nhiều tự thấy mình sướng hơn
người dốt, kẻ dốt tự thấy mình khổ hơn người có học… cũng chẳng qua là một
nhận thức sai lầm về vấn đề sướng khổ thôi : căn cứ vào sự hơn kém trên con
đường đi… mà tự cho mình sướng khổ ?
Và, chỉ có những kẻ nào sống, mới có thể giúp cho kẻ khác giải thoát và trở về
với cái sống viên mãn của họ thôi.
Giúp cho kẻ khác giải thoát, không có nghĩa là ép họ giải thoát, vì thực ra
không có ai giải thoát ai được cả, nếu không phải chính mình giải thoát cho mình.
Chỗ cao trọng nhất của con người là trừ mình ra, không có ai giải thoát cho mình
đặng cả. Phải giúp kẻ khác giải thoát , như vầng Thái Dương giúp cho các hoa
được nở, những hoa nào đến thời kỳ nở. Cái “làm” của kẻ đạt đến cái lẽ sống
không bao giờ cưỡng lại với Tự Nhiên không bao giờ dụng tư tâm mà làm hại
đến bản tánh của vật mình muốn giúp. Giúp người phải biết lấy cái tự nhiên mà
giúp cái tự nhiên. Người nông phu kia thấy lúa lâu lớn, bèn nhớm gốc lúa lên một
tấc cả… Qua ngày sau, lúa đều chết hết. Đó là lấy cái không tự nhiên mà giúp cái
tự nhiên, đó là chỉ có Tâm mà không có Tri.
Giúp cho người sống mà lại giết cái nguồn sống của họ đi, thật không có gì vô
ý thức bằng. Làm nghĩa và biết làm nghĩa là hai lẽ khác nhau xa, cũng như yêu và
biết yêu là hai việc khác nhau rất xa vậy. Có Tâm mà không có Tri, nguy hiểm
cho đời không phải nhỏ.
IV
CHƯƠNG THỨ TƯ
CÁI CHÂN GIÁ TRỊ CỦA SỰ VẬT
Tìm cho ra cái lẽ sống chân chính của ta rồi, cũng chưa đủ. Còn phải tìm cho
ra cái lý đương nhiên hay là cái chân giá trị của sự vật.
Gọi là “Vật” những gì không thuộc về cái sống của ta… những cái chi ở ngoài
cái Người chân thật của ta. Cho dẫu là Trời, mà nếu còn xem là một linh vật
ngoài ta thì ũcng thuộc về hang “Vậ t”. Trái ạl i, nếu Trời cùng ta là Một, thì
không được kể là “Vật” nữa.
*
11
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
* *
Vậy thì “Vật” đối với ta phải như thế nào ? “Vật” chỉ để phụng sự ta thôi và
không được quyền làm chủ đời sống của ta. Phận sự nó là phải giúp ta , không
được, vì một lẽ gì, làm trở ngại đời sống tự do của ta.
Bất kỳ là “Vật” nào của ta có mà trở lại biến thành một vật nhu thiết đến không
thể bỏ qua được, nghĩa là trở lại làm chủ ta và ngăn cản không cho ta thấy, hoặc
làm cho ta quên mất cái sống của ta thì “Vật” ấy, ta phải phá hủy nó ngay.
Nói đến “vật nhu thiết” ta đừng lầm lộn với những vật nhu thiết cho cái sống
vật chất của ta như vật ăn chất uống hằng ngày. Gọi là “vật nhu thiết” những vật
giúp ta sống, bất luận là về tinh thần hay vật chất, tức là những vật ta không thể
bỏ qua mà nó và ta, cơ hồ như một, như không khí ta thở hút , món ăn vật uống
hằng ngày của ta. “Vật không nhu thiết” là những vật không cần thiết gì đến đời
sống của ta cả, tức là những cái có thêm cũng không lợi ích gì cho ta, mà không
có cũng không tai hại gì cho ta cả. Như vật ăn… cần thiết là những chất bổ cho
thân thể; - trái lại, những vật ăn không cần thiết là những món như bánh trái, rượu
chè… những món cao lương mỹ vị.
Cho nên “vật nhu thiết” là những vật không gọi được là “vật” nữa, vì nó cùng
với cái sống của ta là cần thiết đến như là một vậy. Chỉ có những “vật không nhu
thiết” mới có thể gọi là vật mà thôi, vì nó hoàn toàn là món xa xỉ phẩm, nghĩa là
những vật ngoài ta, có cũng không thêm gì cho ta, mất cũng không thiếu gì cho ta
cả, như danh, lợi, tốt, xấu, vinh, nhục, dư luận, chế độ, luân lý, tôn giáo…toàn là
những vật mà mình có thể bỏ qua mà không hại gì cái sống tinh thần lẫn vật chất
của ta. Trái lại, nó còn có hại cho đời sống tinh thần của ta là khác, nếu nó trở
thành món vật nhu thiết…có khi người ta mê muội đến đồng hóa mình với những
ngoại vật ấy và được nó thì sướng, mất nó thì khổ và có khi lại quyên sinh vì đã
mất ngôi cao hay vợ đẹp, xe hơi hay nhà lầu…
Người ta sở dĩ hạnh phúc được khi nào biết sống giữa “mọi sự mọi vật” ấy mà
không bị nó làm chủ mình. Ham muốn nó, quyết tâm để làm chủ nó và chiếm
đoạt cho kỳ được là tự mình đã trở thành tôi mọi của nó rồi.
Sống trong sự mà không mắc trong sự, ở trong vật mà không mắc trong vật ,
thì trong đời không vật nào làm chủ mình đặng.
Xã hội, luân lý, tôn giáo, chế độ… đều là những “Vật” giúp ta sống một cái
sống đầy đủ dễ dàng hơn. Cho nên nó phải tùy mình và biến chuyển theo mình để
mà phục vụ cho cái lẽ sống của mình. Nó không được vượt quá cái quyền hạn và
sứ mạng của nó, như xã hội và chế độ, vịn cái lẽ mưu đồ về vấn đề kinh tế, ăn,
mặc, ở cho ta để mà chiếm lấy địa vị chủ nhân cái đời sống tinh thần của ta được.
Đem cái giá trị tạm thời của xã hội để mà phủ nhận vày bừa những giá trị vĩnh
viễn của đời sống thiêng liêng của cá nhân là gây sự đảo lộn trật tự trong xã hội
loài người vậy.
*
12
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
* *
Cứu cánh của đời mình là phải làm cách nào cho Bản Tánh của mình phát triển
được đến chỗ toàn thiện toàn mỹ của nó.
Vì vậy, bất cứ cái gì trở ngại cho sự tự do phát triển Cá Tánh của mình là mình
có quyền tiêu diệt nó ngay. Đó là phận sự đầu tiên của những kẻ nào biết quý
trọng cái Sống của mình.
Vậy, ta cần phải :
1. – một mặt, lo cho mình sang suốt để nhận chân được Bản tánh của
mình, nghĩa là phải hữu tâm những điều mê lầm nhân sự sống lầm nhận trật tự
của ta từ xưa đến nay. Sống lầm theo Bản ngã, sống lầm theo cái sống của người
mà quên mất cái sống của mình; lấy cái việc làm của người làm việc làm của
mình; lấy cái vui thích của người làm cái ưa thích của mình; lấy cái phải quấy
của người làm cái phải quấy của mình.
2. – một mặt, lo tổ chức xã hội theo sứ mạng của nó là hạn định trong
vòng mưu sinh về vấn đề ăn, mặc, ở… mà thôi, nghĩa là, làm cách nào cho cơ
quan xã hội ấy giúp cho đời sống tinh thần của mỗi người trong đó được phát
triển đến cực điểm.
*
* *
Tóm lại, công việc thứ nhất là phải
Cách Mạng Cá Nhân;
Và công việc thứ hai là
Cách Mạng Xã Hội.
Nghĩa là đừng bao giờ quên câu : “Tự giác nhi giác tha”.
V
CHƯƠNG THỨ NĂM
CÁCH MẠNG CÁ – NHÂN
CÁCH MẠNG cá nhân là điều kiện cần thiết nhất trước khi nghĩ qua vấn đề
cách mạng xã hội. Là vì chỉ có những kẻ thật sang suốt, đã giải thoát được mình
rồi mới có thể giúp đời mà không hại đời mà thôi.
Cách mạng cá nhân là cốt làm cho mỗi cá nhân đều nhận chân được cái
Chân tánh của mình và tìm cho ra những giá trị đặc biệt của Chân tánh ấy.
Biết người là người Trí, nhưng biết mình mới là người Sáng : “Tri nhơn giả trí,
tự tri giả minh” _ Phật gia cũng nói : “Tự giác nhi giác tha”. Tự mình mà còn đui,
13
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
không được dẫn đường chỉ nẻo cho ai tất cả. Thực ra, không ai dẫn dắt ai được
cả, và chỉ có mình dẫn dắt được mình thôi. Người tối mới để cho người dẫn dắt,
và bị dẫn dắt thì suốt đời cũng vẫn là người tối. Người sang thì tự mình dẫn dắt
lấy mình thôi. Lục tổ Hueeh năng nói: “Ngu giả nhân độ, trí giả tự độ”.
Biết rõ ta là gì, _ cái Ta thật của ta, và những sở năng của nó như thế nào? Đó
mới thật là một cuộc cách mạng lớn lao và khó khăn nhất trong đời người. Thành
kiến, phong tục, sách vở, lý thuyết, đảng phái, chế độ, luân lý… là những cái đã
tạo ra cái người của ta đây. Và thói quen lâu ngày ại
l biến thành một thiên tính
thứ hai, ta lại tưởng nó cùng ta là một. Thói quen uống rượu hay hút thuốc lâu
ngày quá lại biến thành một thiên tính : bỏ nó là cả một sự đảo điên thể chất.
Phần đông lại nhận lầm thói quen là bản tánh, cho nên mới có kẻ nhận lầm rằng :
tánh tự nhiên của tôi là thích uống rượu. Họ đã đồng hóa thói quen ấy với thiên
tính thật. Có khi xã hội chung quanh tập cho ta những thói quen và được lâu đời
truyền tử lưu tôn nên người ta đã nhận lầm cái “ta xã hội” ấy là ta, và vẫn tưởng
mình đã suy nghĩ như thế _ nào dè mình chỉ suy nghĩ và hành động một cách mù
quáng theo tạp tục chứ không phải theo mình.
Nhân ảnh hưởng của cái “ta xã hội” ấy, - mà nhà duy vật mới bảo rằng “ con
người là con đẻ của hoàn cảnh”, và cho đó là một chân lý tuyệt đối. Bởi vậy họ
chủ trương : hãy sửa đổi xã hội thì sẽ sửa đổi lại được con người ngay. Tin tưởng
như thế, họ mới cố gắng cách mạng xã hội dù với một giá nào. Chung quy người
ta bắt cá nhân phải chịu sự uốn nắn theo chế độ sau cùng bị xã hội giết chết bản
tánh vùi lấp cá tánh của mình đi. Không ! Xã hội không làm gì giết chết bản tánh
cùng cá tánh con người được. Nếu bảo rằng con người chỉ là hoàn cảnh của hoàn
cảnh thì tại sao cũng thời anh em cùng một cha một mẹ, cùng sống chung trong
một gia đình, chịu chung một giáo dục lại có thể không ai giống ai, có khi lại
xung khắc nhau vì lý tưởng mà phải xa nhau. Như thế hoàn cảnh chưa phải là yếu
tố quyết định trong sự đào tạo cá tánh con người.
Kẻ thấy rằng mình sở dĩ có hiểu biết chút ít chi đây là nhờ đọc sách nhiều của
kẻ khác, tư tưởng của mình sở dĩ có là nhờ tư tưởng của kẻ khác đem lại cho
mình, đã quên rằng : nếu người ta có thể truyền dạy được sự hiểu biết cao cho
nhau thì xưa nay thánh nhân đã dậy được cả thiên hạ rồi, mà cha cũng đã dạy
đặng con, chồng đã dạy đặng vợ, anh đã dạy đặng em… đâu còn phải cần đến ta
dạy nữa. Ta quên rằng chỉ có sẵn sự hiểu biết nơi lòng ta rồi, ta mới nghe đặng
lời nói của kẻ khác cùng một hiểu biết như ta. Có đồng mới ứng, không đồng
không ứng. Sách đọc ngàn kinh muôn quyển, thế sao ta lại không chịu ai cả, lại
chịu riêng một nhà thơ nào thôi ? Là vì mình với nhà văn ấy có chỗ đồng nhau,
như hai sợi dây lên đồng một cung bực. “Đồng thinh tương ứng, đồng khí tương
cầu”, đó là hiện tượng mà khoa học vô tuyến gọi là “hiện tượng cộng hưởng”, và
đó cũng là mật nhiệm của Tạo hóa để sự trong “không” mà sanh ra “có”.
14
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Đọc sách mà “ngộ” được điều gì, hoặc đọc một câu sách mà thấy thích chí,
thấy cả một cuộc đời mình thay đổi… đâu phải vì câu sách mới lạ ấy đem lại cho
mình một tư tưởng tân kỳ nào mà chính vì chính mình đã có sẵn nó trong tiềm
thức, nhưng chưa có cơ hội, nay vì có chỗ tương đồng nên mới ứng lên và làm
vang động cả tâm hồn trí não mình như thế. Bởi vậy, có kẻ cho đó như là một sự
gặp gỡ với một người tri kỷ đã lâu ngày cách biệt vậy. Tâm hồn mình như có
nhiều sợi dây đờn đã lên… chỉ đợi chờ có tiếng gọi đồng cung điệu nơi ngoài…
là ứng lên. Nhà khoa học thí nghiệm trong một ống chai đốt cháy và khử sạch vi
trùng, người ta chỉ để một vài con vi trùng thôi. Qua ngày sau, cả triệu vi trùng
sanh ra trong ống chai đó. Nơi đâu mà ra vậy ? Người ta nghiệm lại là tại con vi
trùng kia có một luồng sóng điện, bất cứ vật nào cũng là một luồng sóng điện
thôi, nó làm cho trong không trung rung chuyển và trong bầu không trung những
con vi trùng như th
ế chưa thành hình và có dịp rung động theo mà hiển lộ ra
được.
Và chính mà Lão tử bảo “hữu sanh ư vô” vậy.
Nơi đáy lòng ta có biết bao cái sống đang ẩn tang mà chưa có cơ hội ph át hiện
ra, nên ta cảm thấy như là một cái gì trống rỗng… Kịp khi đọc qua hay nghe qua
một câu nào, liền cảm thấy rung động cả cái người của ta lên, rồi tư tưởng bắt đầu
tuôn ra như ngọn suối thao thao bất tuyệt. Trái lại, có nhiều câu sách mà kẻ khác
cho là hay tuyệt, thế mà đọc đến ta lại thấy tâm hồn ta thản nhiên bất động. Dù
cho có bắt chước kẻ khác mà khen… thì cũng chỉ làm một điều miễn cưỡng đấy
thôi, chứ không chút gì hứng thú cả.
Chỉ vì không để ý đến hiện tượng “đồng thinh tương ứng” ấy nên mới có kẻ tin
tưởng là học được của người là nhờ ân dạy dỗ của người, còn người dạy đời cũng
tưởng mình đã dạy được người… mà cậy công. Thực ra, những bậc “trước thơ
lập ngôn” sở dĩ cảm hóa được người là vì một phần họ có cái tài “khêu gợi” giúp
cho kẻ khác thấ y rõ được lòng mình, nhưng chắc chắn cái “công lao” của họ
chẳng khác gì “công lao” của vâng Thái dương chỉ phóng ánh sáng mình ra cho
muôn hoa, hoa nào trổ được thì trổ. Chỉ có những hoa nào đến thời phải trổ là trổ
được hoa mà thôi, còn những hoa nào chưa đến thời kỳ trổ thì cũng không làm
cách gì trổ được trước thời gian hạn định của nó. Dù có nhiều điều kiện khách
quan thuận tiện cho sự phát huy của nó thì sự “trổ hoa” cũng phải chìu theo một
thời gian nào, nhiều hay ít, chứ không bao giờ chấp nhận thời gian cho được.
Trước sau gì cũng phải có đến một thời kỳ hoa phải trổ. Sự sớm hay muộn không
phải là điều quan trọng : cần là trái cây phải để cho nó “mùi” rồi mới nên hái.
Huống chi về vấn đề giải thoát : đừng bao giờ lo đến “thời gian” và đừng bao giờ
tham muốn. Còn tham muốn giải thoát là không bao giờ giải thoát. Cũng như còn
tìm Hạnh phúc là không bao giờ có Hạnh phúc. Còn ham muốn, còn tham vọng
thì không bao giờ đạt được ý muốn. Tôi sẽ trở lại vấn đề này khi bàn đến cái đạo
Giải thoát : tạo cho mình “nhân cách chân không”.
15
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Đọc sách, có khi trước đây ta đã đọc qua đọc lại nhiều lần, không thấy hiểu, dĩ
nhiên là cũng chẳng thấy hay. Nhưng nay bỗng dưng đọc lại, thấy nó thâm trầm
bát ngát làm sao… Là tại đâu ? Tại trước đây “tam hồn” ta chưa hàm dưỡng đầy
đủ, hoa lòng chưa đủ sức trổ nên đối với quyển sách ta không thấy gì thông cảm.
Những kẻ nay theo chủ nghĩa này, mai theo chủ nghĩa kia là tại họ chạy theo
thời lượng, hay nhất thời hiếu dị mà theo thôi, chứ không phải nghe theo tiếng
dội của than tâm như Malebranche khi đọc quyển Traité de l’Homme của Des
cartes… Hoặc vì họ là kẻ rất nghèo nàn đời sống bên trong vì bị cái “ta xã hội”
của họ rất dày bao bọc che dấu cái ánh sáng thật của Chân tâm, không sao phát
huy ra được. Vì vậy, những sự hiểu biết của họ, họ phải cố nhớ thuộc lòng, toàn
là những cái hiểu biết ngoài da, chứ không phải là cái biết trong xương tủy, trong
múa huyết.
Biết rõ được cái “người thật” của mình là bước đầu vào con đường sáng suốt
và giải thoát.
Làm cách nào để biết rõ “người thậ t” của ta ? Ở đây, không thể dùng đến
phương pháp tích cực. Tức là không cần phải tìm hiểu cái gì không phải là Chân
thể của ta. Đó cũng là phương pháp “vi vô vi” của Lão tử vậy. Hễ vén được mây
mù thì mặt trăng mặt trời bèn sáng tỏ.
Muốn tìm hiểu cái “ta” không phải là Ta, những di truyền mà ta đã thụ lấy của
hoàn cảnh xã hội, tức là cái “ta xã hội” mà nhà phân tâm học gọi là “siêu ngã”
nhà đạo học gọi là “Phi ngã” thì phương pháp hay nhất là phải thật sự hữu tâm
lấy từng hành vi tư tưởng của ta hằng ngày.
Nếu ta hữu tâm lấy từng hành vi tư tưởng của ta hằng ngày, ta sẽ thấy phần
nhiều ta toàn là “mượn cái mũi kẻ khác mà thở, mượn con mắt kẻ khác mà xem,
mượn lỗ tai kẻ khác mà nghe, mượn óc phán đoán của kẻ khác mà phê bình… tức
là ta ưa cái ưa của kẻ khác, ghét cái ghét của kẻ khác, làm cái làm của kẻ khác”.
Nghĩa là sống theo cái sống của kẻ khác.
Có sống một cách hữu tâm như thế, mới thấy rõ được Mình, nghĩa là muốn trở
về với Mình, phải gột sạch tất cả những gì không phải của mình trước hết.
Nietzche nói rất chí lý : “Kẻ nào muốn tìm Chân lý, phải biết yêu kẻ nghịch
mình, lại cũng phải biết ghét bạn chí than của mình… Kẻ nào cứ mãi chịu làm
học trò của Thầy mình là kẻ phi ân bội nghĩa Thầy mình… Bởi các anh chưa tìm
thấy anh, nên các anh mới tìm thấy ta. Ta bảo các anh phải bỏ ta đi, để tìm cho
được cái Người của anh!” (Ainsi parlait Zarathoustra).
*
* *
Tóm lại, cách mạng cá nhân là :
1. – Nhận chân được cái Chân Tánh của mình, gột sạch cái quan niệm nhị
nguyên sai lầm của Bản Ngã để trở về với cái “Sống Một” của mình.
16
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
2. – Phát triển cái “Sống Một” ấy đến chỗ cùng cực của nó, nghĩa là giải phóng
nó ra khỏi cái sống lầm nhận trận của Bản Ngã hay là cái sống trong quan niệm
sai lầm của sự nhận thức nhị nguyên. Tất cả những giá trị sai lầm của giới nhị
nguyên như Thị Phi, Thiện Ác phải được một luồng mắt Nhất Nguyên ôm trùm
và bôi bỏ.
Cách mạng cá nhân là một sự thay đổi “nhãn quang” đối với cuộc đời. Muốn
tìm thấy cái sống thật nơi ta, cái “Sống Một” huyền đồng với tạo vật thì phải từ
bỏ cái thói quen nhìn cuộc đời và sự vật bằng cặp mắt Nhị Nguyên. Phải biết, trái
lại, nhìn đời bằng cặp mắt Tam Nguyên. Với cặp mắt “nhị nguyên” thì phải là
phải mà quấy là quấy, không thể lẫn lộn nhau được. Với cặp mắt “tam nguyên”
thì giữa những sự mâu thuẫn hiển nhiên, vẫn thấy được một cái gì thứ ba, mà ta
gọi là Đạo. Tâm và Vật, Phải và Trái, Tốt và Xấu, Động và Tịnh là hai trạng thái
đối đích của mọi sự mọi vật. “Giữa hai lẽ mâu thuẫn ấy, có một cái gì nắm giềng
mối của hai bên, bắt buộc chúng không thể rời nhau để mà dịch hóa, mà sinh tồn.
Cái nguyên lý thứ ba này mà vắng mặt thì sự vật rời rã, tiêu vong”. Với cặp mắt
“tam nguyên”, thì các thứ mâu thuẫn đều chỉ là mặt trái của một thực thể, cho nên
không gì gọi là Phải, không gì gọi là Quấy một cách tuyệt đối được cả. Đ ó là
những cặp mắt Tề Vật của Trang tử, Huyền Đồng của Lão tử và cũng là cặp mắt
Bác nhã Bình đẳng của Phật gia. Đó là “nhãn quang” của những người giải thoát.
VI
CHƯƠNG THỨ SÁU
CÁCH MẠNG XÃ HỘI
Muốn giúp cho mỗi cá nhân tự do sống được cái sống của mình đến chỗ hoàn
toàn, thời cũng phải nghĩ qua một phương tiện cho nó, tạo cho nó một hoàn cảnh
thuận lợi cho sự phát triển tự nhiên của nó.
Cơ quan xã hội phải là những cơ quan thích hợp với những nhu cầu thiết tha
của cá nhân trước hết. Vậy, tất cả những vấn đề về vật chất phải biết lợi dụng
khoa học mà hợp lý hóa nó, tổ chức nó lại cách nào cho mỗi cá nhân trong đó đều
được hưởng một cách đầy đủ nhưng không đến trụy lạc đến tinh thần.
Những giá trị sai lầm của Văn minh tiến bộ lấy Danh Lợi để true vào lòng
người… đều phải thẳng tay tiêu trừ mới đặng.
Người ta bao giờ chưa tìm ra được cái Sống của mình, cái tận thiện của cái
“Tánh trời” (Thiên tánh) thì đều để ý ngó ra ngoài… Ngó ra ngoài mới có sanh ra
tánh đèo bòng ham muốn những cái hay đẹp ngoài mình. Chỉ tháy cái hay cái đẹp
17
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
của người mà không thấy cái hay cái đẹp của mình, mới có sanh ra cái lòng ham
muốn những vật ngoài mình.
Người xưa có nói : “Muốn cho nước sôi nguội dần mà một người đun, trăm
người khuấy, cũng vô ích…Sao bằng rút củi ra và tắt lửa đi!” Rút củi ra, tức là tắt
những gì khêu gợi lòng tham muốn của con người. Và như thế, câu nói này của
Lão tử là phương pháp diệu nhất : “bất thượng hiền, sử dân bất tranh; bất quý nan
đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo; bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn”. Người
trộm ngọc ít tội hơn người đeo ngọc. Đông Lai nói rất chí lý : “Người câu phụ cá,
cá làm sao phụ người câu ? … Vả, dùng mồi dụ cá là câu; dùng hầm dụ thú là
săn. Không trách người câu mà trách cá nuốt mồi, không trách người săn mà
trách thú sa hầm, trong thiên hạ có ai vậy không ?”
*
* *
Cách mạng xã hội là hủy phá tất cả những bảng giá trị sai lầm của văn minh
tiến bộ, căn cứ trên quan niệm nhị nguyên, lấy việc hơn người là cứu cánh, thành
công làm mục đích, mà xoay về con đường văn minh của sự Toàn thiện.
Theo văn minh của sự tận thiện mỗi cá nhân đều không còn lấy sự hơn người
làm Vinh, thua người làm Nhục nữa… mà chỉ lo thắng mình, lo cho mình hơn
mình kỳ đến chỗ chí thiện mới thôi. Inayat Khan có nói : “ Lo thắng người thì
gây ra chiến tranh; lo thắng mình, thì tạo được hòa bình”. Nếu mỗi người đều biết
và làm như thế, thì xã hội làm gì có loạn. Nếu mỗi người đều biết tự trị như thế,
thì còn ai trị mình được nữa mà phải có kẻ trị đời…
*
* *
Tự nó, không có một xã hội văn minh nào cao hơn một xã hội văn minh nào.
Có thể có nhiều thứ văn minh khác nhau mà giá trị bằng nhau. Nếu văn minh
của một dân tộc thích hợp với trình độ trí thức và tình cảm của dân tộc ấy là một
thứ văn minh hay, dù là văn minh của dân bán khai. Trái lại, nếu văn minh của
một dân tộc mà không hạp với trình độ dân tộc ấy, chỉ làm cho con dân thống khổ
thời là một thứ văn minh dở, dù đó là văn minh Âu Mỹ cũng vậy. Cũng như
không có một lẽ Phải nào là Phải cho tất cả mọi người thì cũng không có một xã
hội văn minh nào là xã hội văn minh toàn mỹ để làm khuôn mẫu cho tất cả mọi
người.
Bởi vậy, đem một thứ văn minh của một dân tộc này để mà văn minh hóa một
dân tộc khác đâu phải là tiến bộ. Trang tử có nói : “ Lấy ngay như khỉ vượn mà
cho mặc bộ áo của ông Châu, ắt nó sẽ cắn rứt, cào xé, vứt bỏ hết, thế mới vừa
lòng cho.” Ông lại cũng nói : “…Xưa kia, có một con chim sa trước cửa thành
nước Lỗ. Vưa Lỗ bắt về nuôi, dạy bày yến đãi nó ăn, trổi nhạc cho nó nghe. Chim
18
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
không dám ăn dám uống, sợ quá mà chết. Đó là dụng cách nuôi mình mà nuôi
chim. Chớ chi vua Lỗ dụng cách nuôi chim mà nuôi chim, để cho nó đậu ở trong
rừng sâu, núi lạnh, hoặc ăn rắng lối bưng, hoặc ăn lúa nơi đồng thì kết quả phải
khác, lợi mà không hại…”
*
* *
Con gà con, lúc chưa ởn, thì cái vỏ bao ngoài là cần thiết, rất có ích cho sự
sinh tồn của nó. Đến khi nó đã tới thời kỳ nở, thì cái vỏ bao ngoài bấy giờ sẽ trở
thành một trở ngại cho sự sống của nó : phải phá tan cái vỏ ấy đi. Lúc nó chưa tới
thời kỳ nở, nếu mình lại vô tình dụng tâm đập phá quá sớm cái vỏ bọc ngoài của
nó tức là làm hại nó, chứ đâu phải là giúp nó. Chế độ chánh trị hay xã hội văn
minh nào cũng vậy : hễ hạp thời thuận cảnh và thích ứng với tâm hồn trí não của
dân tộc là Phải, mà không hạp thời thuận cảnh, không thích ứng với tâm hồn trí
não của dâ n tộc là Quấy. Tìm thấy được chỗ hạp thuận ấy đâu phải là việc dễ
dàng. Đó là phận sự của những cá nhân đã tìm được cái sống của mình họ tìm lấy
những phương pháp tổ chức xã hội văn minh thuận lợi cho xã hội của họ thôi.
Vậy, dù có bàn đến xã hội, cũng phải khởi đầu nơi cá nhân.
Những cá nhân chưa tìm ra cái sống thật của mình, chưa sống cái sống của
mình, nghĩa là những kẻ chưa giải thoát… mà ra trị đời hay giúp người là làm hại
đời hại người vậy.
Vấn đề cá nhân bao giờ cũng phải đi trước vấn đề xã hội, bất kỳ là trong giai
đoạn lịch sử nào.
*
* *
Tóm lại,
Cá nhân là cứu cánh, mà
Xã hội là phương tiện.
Xã hội không được vì lý do gì mà giết chết cá nhân mà trái lại phải có sứ mạng
là phụng sự nó.
VII
CHƯƠNG THỨ BẢY
LẼ TRỜI
“Người thợ tên Khánh làm một cái giá chuông xinh đẹp hoàn toàn đến đỗi thần
kinh quỷ phục. Lỗ hầu đến xem, hỏi Khánh dùng pháp thuật gì mà làm đặng như
thế ? Khánh tâu : Tôi là một tên thợ, nào có thuật pháo nào đâu! Tuy vậy mà có.
Thuật pháp tôi như vầy : khi tôi lãnh làm giá chuông đó, tôi tập chăm chỉ, thu hết
19
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
cả sức tự trị của tôi, tôi không trông khéo, không sợ vụng nữa. Tập được như vậy
trong bảy ngày, tôi quên mất tới bệ hạ, tới triều thần; tất cả quan năng của tôi đều
chăm chú vào cái giá chuông. Bấy giờ, tôi biết rằng đến lúc k hởi công. Tôi vào
rừng xem hình trạng cây cối, hình trạng nào hoàn toàn hơn hết. Khi tôi thấu rành
ý niệm ấy rồi , bấy giờ tôi mới để tay vào việc. Nhờ hiệp lại làm một cái thiên
tánh của tôi với cái thiên tánh của cây mà cái giá chuông này mới có đủ tư chất
làm cho người người đều khen nó”. ( Trang tử )
*
* *
Diệt cả tình dục của tư tâm, (nào là ham khen, sợ chê,ham khéo, sợ vụng…) để
biểu lộ thiên tánh của mình rồi hòa hợp với thiên tánh của Lẽ Trời ở trong mọi sự
vật đó là hành động hoàn toàn viên giác, thuận với thiên lý. Đại ý của bài ngụ
ngôn trên đây là như thế.
Trời là thế nào ? “Lẽ Trời, không phải ngũ quant a thính giác được. Chỉ có
Tâm cảm được và Trí suy được mà thôi. Lẽ Trời, đối với hữu hình Vũ trụ cũng
như cái hồn đối với cái xác thịt, kh ông hiển lộ ra nhưng mà vẫn dịch sữ không
ngừng”.
“…Trời đã là thế, thì hình như cũng không thể suy trắc được. Nhưng ta có thể
lấy cái chỗ hiển hiện của lẽ ấy nơi vạn vật chung quanh ta mà suy, may ra có thấy
đặng một vài bản tính của nó, như thế ta có thể lý hội đặng nó”…
*
* *
Lẽ Trời, ta chỉ thấy đặng trong hai bản tính này : Cảm sinh và Dịch hóa.
Có cảm hợp nhau mới có sanh ra sự vật. Dù là những vật hữu hình hay vô hình
đều do hai lẽ ấy mà sanh ra. Nhờ cái tính ấy mà trong Vũ trụ mọi sự vật mới ràng
buộc lấy nhau mà tồn tại, mà sinh hóa bất tận… Đó là cảm sinh.
Còn “dịch” là không đứng yên một chỗ, không nhất định trong một bản sắc
nào, không câu chấp trong một cách thức nào, là nhờ có “dịch” mới biến đổi luôn
luôn.
Sở dĩ có dịch hóa là nhờ có cảm sinh. Có cảm thì cái nọ mới dan díu với cái
kia, cho nên phải dịch hóa để mà cảm sinh không dừng.
Hai bản tánh ấy, tương đương và không bao giờ rời nhau. Vạn sự vạn vật có
cảm nhau, có thay đổi luôn mới có thể sinh tồn được trong vũ trụ muôn loài, nếu
biết cứ theo hai cái tính ấy mà sinh hoạt sẽ luôn luôn vô sự.
Con người cũng một thế. Nếu biết lấy Tâm mà “cảm”, lấy Trí mà “dịch” thì
không bao giờ đau khổ.
*
* *
20
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Đời người là hình ảnh của Tâm và Trí. Vậy muốn cho hợp lẽ Trời thì phải biết
dưỡng Tâm và dưỡng Trí. Kẻ nào chỉ có Tâm hay cảm mà không có Trí để biết
áp dụng cho hợp thời thuận cảnh, thì hành động sẽ nguy hại cho đời không nhỏ.
Đừng làm như “anh nông phu nhớm gốc lúa” hay “vua nước Lỗ nuôi chim” đã
bàn đến trước đây… Có Tâm mà không Trí, cũng như có Trí mà không Tâm, sẽ
không làm gì nên việc cả . Cái sở đắc do Tâm và Trí hỗn hợp mà đúc nên tạo cho
ta một hành động hoàn toàn tận thiện đồng với hành động của lẽ Trời.
*
* *
Chân tính như nước, Tâm và Trí như dưỡng khí và khinh khí. Kẻ nào đã sống
đặng trong cái sống viên mãn của chân tính rồi, sẽ không còn thấy có Tâm, cũng
không còn thấy có Trí nữa. Hành động đã thi vi ra, trong đã có hàm Tâm và Trí
một cách rất đầy đủ.
*
* *
Sống đặng trong cái Sống Một của ta đồng với cái Sống Một của Lẽ Trời,
chẳng làm cho ta mất cái quan niệm thiên hình vạn trạng của Vũ trụ, trái lại, ta
kiêm được vừa cái quan niệm thiên hình vạn trạng của vạn vật. Kẻ đã giải thoát,
chẳng những thấy vạn vật là Một với mình, mà họ lại thấy đặng cái chỗ yếu lý vì
sao vạn vật khác nhau nghĩa là cái chỗ sai biệt giữa mọi sự vật trong đời một cách
thâm viễn.
Thấy đặng, vừa cái chỗ sai thù vạn biệt, vừa cái lẽ duy nhất, hai cái lẽ cực đoan
của Chân lý mà tinh thần được minh mẫn trung lập giữa hai quan niệm ấy luôn,
đó là triệu chứng rằng sự giải thoát của ta đã cận rồi vậy. Làm được hai cử chỉ ấy
là nhờ hai bản năng riêng của ta là Lý và Tình hòa hợp nhau là Một nơi Trí và
Tâm vậy.
VIII
CHƯƠNG THỨ TÁM
“Muốn có Phải mà không có Quấy, muốn có trị mà không có loạn là chưa rõ
cái Lý của T rời Đất, ấy là mơ tưởng Trời mà không có Đất, âm mà không có
dương, hai phương diện đồng có của mỗi vật”.
Muốn phân biệt hai lẽ tương đối ấy như hai vật khác nhau, thì nếu không phải
là ngu thì là điêu.
Trang tử
THU THỦY.
21
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
VẤN ĐỀ THIỆN ÁC
Ta thường quan niệm sự đời theo Nhị nguyên tức là quan niệm phân chia sự
vật ra làm hai phần biệt lập : tâm và vật, chủ quan và khách quan, phải và quấy,
lành và dữ, tốt và xấu, lợi và hại, tịnh và động.
Dù muốn dù không, nhận thức thông thường của con người là nhận thức nhị
nguyên. Hai lẽ tương đối ấy luôn luôn tranh đấu nhau v à tìm cách tiêu diệt lẫn
nhau. Phải là phải mà quấy là quấy, tịnh là tịnh mà động là động; vật là vật mà
tâm là tâm,… Người ta không thể hiểu rằng phải và quấy, tình và động, tâm và
vật có thể sống chung nhau, có thể dung hòa nhau mà tồn tại. Vì nhận lầm n hư
thế nên người ta mới dám tin tưởng rằng : “đời đục cả, một mình ta trong; đời say
cả, một mình ta tỉnh”. Và cũng vì tin tưởng như thế mới có bày ra những lý
thuyết “nhất nguyên” về duy tâm hay duy vật.
Bởi vậy người ta mới nghĩ đến cách đem cái Phải mà trừ cái Quấy, đem cái
Thiện mà trừ cái Ác. Và mỗi một người của chúng ta không thể tư tưởng được
nếu không chống đối lại với một cái gì : kẻ nào nghĩ như ta là bạn của ta, kẻ nào
nghĩ khác ta là kẻ thù của ta. Tư tưởng theo Nhị Nguyên rốt cục lại đi về Nhất
Nguyên, và chủ nghĩa của họ luôn luôn có chữ “duy” đứng đầu duy tâm hay duy
vật tư tưởng của họ là tư tưởng chỉ có một chiều mà thôi, một thứ tư tưởng độc
đoán và độc tài, rất sai lầm và nguy hiểm.
Sư Tăng Xán nói : “Đem cái ều
đi mình ưa thích để chống l ại cái điều mình
không ưa thích, đấy là căn bịnh trầm trọng nhất của tâm hồn”. Và chính đó cũng
là thông bệnh của phần đông con người hiện thời vậy.
*
* *
Theo Tam nguyên, thì tạo vật có ra và sinh tồn đều do hai lực lượng sau đây:
một lực lượng tích cực, một lực lượng tiêu cực và một lực lượng thứ ba chi phối
hai lực lượng kia, bắt chúng phải điều hòa để mà sinh tồn.
Luật Tam nguyên có thể tượng trưng bằng một hình tam giác như sau đây :
Nguyên lý tối cao dung hòa
và chi phối
A
Nguyên lý
tích cực
(+) B
22
nguyên lý
tiêu cực
C
(–)
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Quan niệm Tam nguyên này cũng thấy xuất hiện trong những đạo học cổ
truyền Á Đông, như bên Ai cập thì Tam nguyên được tượng trưng bằng vị thần
Shou (Khí), vị thần Tefnet (hư không) và vị t hần Atoum tối cao và chỉ huy điều
hòa hai vị thần kia. Trong xứ Sumer thì Tam nguyên được tượng trưng bằng vị
thần Anou, vị vua cõi Trời; Enlil, vua cõi Đất, và Ea, vị chúa tể chi phối cả hai vị
thần kia. Bên Bat ư thì Tam nguyên cũng được tượng trưng bằng Ormuzd vị thần
Thiện; Aribmane, vị thần ác, và Mithra vị thần thứ ba chỉ huy và dung hòa đôi
bên Thiện Ác. Ấn độ cũng có Tam nguyên tượng trưng bằng vị thần Vishnou, vị
thần phù hộ giữ gìn vạn vật; Shiva, vị thần tàn phá và tiêu diệt, và trên hết là
Brahma, vị thần chúa tể chỉ huy hai vị kia.
Nhưng trong tất cả các hệ thống tư tưởng Đông phương không có đâu biểu
diễn rõ rang cái ý niệm về Tam nguyên bằng cái đồ Thái cực.
Đạo
Thái cực đồ
Trong đồ Thái Cực có hai phần bằng nhau : một phần Âm (mầu đen) và một
phần Dương (màu trắng) bao trong một cái vòng tròn gọi là Đạo (nguyên lý điều
hòa và chỉ huy hai lực lượng mâu thuẫn kia).
Trong phần Dương lại có ẩn một điểm Âm, phần Âm có ẩn một điểm Dương,
tức là trong Trời đất không có một yếu tố nào hoàn toàn thuộc Dương hay hoàn
toàn thuộc Âm cả. Cũng chính do nguyên lý “âm trung chi dương, dương trung
chi âm” mà Lão tử mới nói : “Trong Phúc Họa thường mọc sẵn; Trong Họa, Phúc
thường núp sẵn”.
Cặp tương đối mâu thuẫn nguyên thủy là Âm Dương ám chỉ tất cả mọi lẽ
tương đối trên đời : ngày đêm, sáng tối, nóng lạnh, động tịnh, phải quấy, lành dữ,
sanh tử, phúc họa…
Hai nguyên lý mâu thuẫn Âm Dương có giá trị tương đồng, không cái nòa phụ
thuộc cái nào cả, tự nó không có nguyên lý nào cần thiết hơn nguyên lý nào, sự
cộng tác chặt chẽ và điều hòa giữa hai lực lượng nầy rất cần thiết để phát sinh bất
kì là hiện tượng nòa trong Vũ Trụ, dù nhỏ đến đâu. Trên hai lẽ Âm Dương ấy, có
một cái gì gọi là lực lượng thứ ba nắm giềng mối của hai bên, bắt buộc nó không
thể rời nhau. Nguyên lý tối cao hợp nhất, điều hòa và chi phối hai lực lượng kia
gọi nó là Đạo. Nguyên lý thứ ba này mà vắng mặt thì sự vật rời rã, tiêu tan tất cả.
23
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Con người là một “tiểu kiền khôn” cấu tạo như “đại kiền khôn”. Cái thực thể
con người là sản vật của hai nguyên lý Âm Dương mâu thuẫn ấy, thuộc về giới
hữu hình; còn nguyên lý thứ ba thì thiêng liêng vô hình và ở ngoài thời gian.
Muốn thực hiện được cái Đạo nơi ta, thì điều kiện đầu tiên là phải từ bỏ một
cách dứt khoát óc phân biệt Thiện Ác. Người đã đạt đến tâm trạng tự do tuyệt đối
là người đã vượt lên trên quan nệm nhị nguyên, chẳng những không còn bị nô lệ
trong vòng Tội Ác mà cũng đã không còn nô lệ óc phân chia Thiện Ác, nghĩa là
không còn nô lệ bất cứ bảng giá trị nào của cặp mâu thuẫn Thiện Ác nữa.
IX
CHƯƠNG THỨ CHÍN
ĐẠI GIÁC và TIỂU GIÁC
Thường thường người ta hay quan niệm: Hễ mặt là Phàm thì trái là Thánh.
Hiểu thế tức là hiểu biết sai lầm, cái đó gọi là Tiểu giác.
Sống được trong cái Sống Một của mình rồi, tức là đã thực hiện được sự điều
hòa của cặp tương đối nơi lòng mình. Như ta đã thấy, cái mà làm cho cặp tương
đối bao giờ cũng giữ được mực “trung”, cái đó gọi là Đạo.
Phải Quấy cũng như Tốt Xấu, Lành Dữ, Lợi Hại… cặp mâu thuẫn ấy bao giờ
cũng nằm sẵn trong mọi sự mọi vật. Không có sự vật nào thuần Tốt hay thuần
Xấu, thuần Phải hay thuần Quấy, cũng như không có vật nào thuần Âm hay thuần
Dương.
Sở dĩ được gọi là Âm là tại phần Âm lấn phần Dương, được gọi là Dương là
tại phần Dương lấn phần Âm. Thực ra không có một sự vật gì là thuần chất cả.
Nếu sự lấn ép của một đối phương mà lên đến cực độ, liền bị phản biến tức khắc,
tức là Dương cực sinh Âm, Âm cực sinh Dương. Giữa hai lực lượng mâu thuẫn
ấy bao giờ cũng có “Một Cái Gì” chủ trương, không cho hai lẽ ấy ly khai với
nhau và bó buộc nó phải trở về vị trí điều hòa. Cái Đó, tuy không thể thấy đặng ,
nhưng bao giờ ta cũng cảm thấy nó luôn luôn hiển hiện trong các cuộc thiên biến
của sự vật.
Cái Đó, cái nguyên ýl độc nhấ t vô nhị, là cả một cái huyền diệu trong những
huyền diệu trong Vũ Trụ. Bất kỳ ta thấy hiện ra một cặp mâu thuẫn nào, phải để ý
ngay đến cái lẽ huyền diệu ấy, tức là cái chỗ quan hệ giữa cặp mâu thuẫn đó. Cái
gì làm cho lực lượng đối phương trong cặp mâu t huẫn không được vượt quá cái
chừng của nó? Cái gì bắt buộc sự vật không được đi đến chỗ thái quá của nó? Cái
24
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
gì hễ dư thì làm cho bớt đi, thiếu thì bù vào? Cứ bình tĩnh mà quan sát sự vật trên
đời, sẽ thấy rõ cái luật quân bình ấy.
Đối với phần đông, hễ không Thiện là Ác, không Ác là Thiện, thật không gì
thô sơ giản ước bằng! Trong đời không có một sự gì vật gì có thể xem là toàn
Thiện hay toàn Ác. Thiện mà đi quá cái mực Trung của nó cũng thành ra Ác, mà
Ác đi quá cái mực Trung của nó cũng có khi là một sự Thiện. Có người cát nghĩa
chữ Trung nầy bằng chữ Thời. Hễ đúng Thời thì hay, sái Thời thì dở. Bàn về
Thiện Ác, Tốt Xấu, Phải Quấy mà không biết nắm giữ cái cốt của nó ở mực
Trung là đặt sai vấn đề, không làm sao giải quyết được.
Cố chấp trong một cái Thiện, một cái Phải có khi là một việc làm hết sức nguy
hiểm. Nắm cái cốt của Thiện Ác, không phải là “đi hàng hai” như phần đông đã
hiểu và vì vậy mới có người dám gán cho cái đạo Trung dung của Khổng tử là cái
“ổ chứa gian tà”.
Đạo đức cao nhất là đến được cái đạo Trung. Nơi “đó” không còn thấy chi là
Phải Quấy, Thiện Ác nữa. Ở “đó” người ta chỉ còn thấy có cái Đạo, tức là cái cốt
của cái đòn cân Thiện Ác của Lợi Hại, không thái quá, không bất cập.
Phần đông người trong thiên hạ hay lấy cái Thiện trừ cái Ác, lấy cái Phải trừ
cái Quấy… Như thế, người ta chỉ loay quay trong cái vòng Thiện Ác Phải Quấy,
người ta chỉ lo phản động với cái mà mình cho là sai lầm bằng sự phản động thôi.
Phản động với một sự lầm để tìm sự thật, là sai. Lấy cái Phải trừ cái Quấy cũng
không đúng với Chân Lý. Sở dĩ gọi là Quấy vì nó đã bị mất đi cái đạo Trung của
nó, nghĩa là hoặc đã phạm vào sự thái quá, hoặc sa vào lỗi bất cập. Bởi vậy, họ
chỉ lo tìm chỗ thái quá hay bất cập của cái mà ta gọi là Quấy đó, để tìm cách lập
lại cái quân bình, cái điều hòa của nó. Liền khi đó, cái mà ta gọi là Quấy đã hết
Quấy, mà Phải cũng hết Phải lập tức.
Nói cho đúng, không có cái ìg là Thiện, cái gì là Ác, cái gì là Phải, cái gì là
Quấy. Thiện, thực ra, là cái gì đã giữ được đạo Trung; Ác là cái gì đã mất đạo
Trung. Bởi vậy, quyển sách triết học cao nhất của Á Đông là Dịch kinh không
bao giờ bàn đến Phải Quấy Thiện Ác, mà chỉ nói ròng đến hai chữ Lợi Hại mà
thôi.
*
* *
Tóm lại, hiểu biết không phải là phản động. Phản động với một cái lầm vẫn là
lầm. Triệt để theo cái Phải để trừ cái Quấy, theo cái Thiện để trừ cái Ác đều là sai
lầm cả. Trong cái Thiện bao giờ cũng có chữa ngầm cái Ác, trong cái Phải bao
giờ cũng có chứa ngầm cái Quấy. Trang tử cho rằng: “…muốn có Phải mà không
có Quấy, có Nên mà không có Hư …là mơ Trời mà không có Đất, mơ Dương mà
không có Âm… thật là mê loạn thái quá”.
Hành động của bậc Đại giác bao giờ cũng thể theo hành động của Đạo, tức là
hê “cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi”, chứ
25
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
không bao giờ th iên về một bảng giá trị nào, cũng không cho cái lẽ Phải nào là
tuyệt đối cả.
Liệt tử ở trong thiên Trọng Ni có câu chuyện ngụ ngôn này rất tiêu biểu cái ý
nghĩa nói trên:
“Tử Hạ hỏi Khổng tử: Nhan hồi là người thế nào ? Khổng tử nói : cái Nhân
của Hồi hơn ta.
- Còn Tử cống là người thế nào?
- Cái óc phân biệt của Tứ hơn ta.
- Tử Lộ là người thế nào?
- Cái Dũng của Do hơn ta.
- Tử Trương là người thế nào?
- Cái nghiêm của sư hơn ta.
Tử Hạ bèn tránh chiếu thưa rằng:
- Thế sao bốn người ấy còn theo học với Thầy? Thế nghĩa làm sao?
Khổng Tử nói:
- Ở đây ta bảo : Hồi chỉ biết nhân mà không biết lúc bất nhân; Tứ chỉ biết mau
mắn mà không biết lúc chậm chạp; Do chỉ biết hung dũng mà không biết lúc nên
nhút nhát; Sư chỉ biết trang nghiêm mà không biết lúc ung dung để hòa đồng với
mọi người. Nay gồm tất cả cái hay của bốn người ấy có mà đổi với cái ta có, ta
không đổi. Bởi vậy, họ phải thờ ta làm Thầy mà không dám hai lòng”.
Trang tử bảo phải xử với vấn đề Thiện Ác, Phải Quấy như nhà nuôi khỉ:
“…Người ấy nói với khỉ “sớm cho ba củ, chiều bốn củ”. Khỉ đều giận – Người ấy
nói : Thôi “sớm bốn chiều ba”. Khỉ đều mừng. Số cho mỗi ngày không thêm
không bớt, nhưng tại cách cho mà có giận có mừng. Ấy nên thánh nhân vì chỗ
hòa mà nói thị nói phi, rồi đứng yên trong Thiên quân (cái cốt của bánh xe luân
chuyển của tạo hóa). Đó gọi là lưỡng hành”. Ông lại cũng nói: “Tri vong thị phi,
tâm chi thích dã”. (Biết quên thị phi, thì Tâm mới thuận với Đạo vậy).
Aaurobindo Ghose, nhà đạo học trứ danh Ấn độ hiện thời có nói: “Sự tranh đấu
giữa hai lực lượng Ssáng và Tối là cái chân lý (tương đối) của cõi đời hiện thời.
Ta càng lên cao chừng nào, đối với ta, những sự khác biệt nhau ấy càng không
còn nghĩa lý gì nữa cả”.
“…Nếu anh đạp phải gai nhọn thì hãy lấy gai nhọn mà lễ nó ra. Nhưng rồi, cũng
như khi anh bị cái gai nhọn của Vô Minh (cùng một nghĩa với chữ Ác) thì anh
dùng cái gai nhọn của Tri thức (đồng nghĩa với chữ Thiện) mà lể nó ra. Nhưng
rồi anh cũng phải vứt cả hai, cả cái gai Vô Minh cũng như cái gai Tri thức để mà
thực hiện cái Đạo nơi lòng anh, bởi nó ở trên tất cả Vô Minh và Tri thức”.
Còn bàn đến Thị Phi, Thiện Ác, còn dùng đến phương pháp lấy cái Phải trừ cái
Quấy, lấy cái Thiện trị cái Ác… thì có khác gì anh dung y trị bệnh mất ngủ bằng
cách cho uống thuốc ngủ. Họ đâu có dè, mất ngủ cũn g như ngủ ly bỳ đều là
những trạng thái bệnh hoạn, mất điều hòa. Cần yếu là sửa lại Âm Dương khí
26
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
huyết cho điều hòa thì tự nhiên sự thức ngủ sẽ được điều hòa, đâu phải cần lấy
cái ngủ để trị cái mất ngủ. Đó cũng là cái nghĩa của câu: “lấy cái trị mà trị thiên
hạ thì thiên hạ loạn, bằng lấy cái không trị mà trị thiên hạ thì thiên hạ hòa bình”.
Điều mà ta cần nhớ kỹ, là cặp mâu thuẫn ấy không phải nằm ở ngoài ta, mà nó
nằm ở trong ta. Kẻ nào chưa thực hiện được cái sống đầy đủ, cái sống một nơi
mình sẽ luôn luôn sống trong tình trạng nội chiến. Và sự mâu thuẫn nội chiến ấy
sẽ ảnh hưởng tai hại chẳng những cho xã hội chung quanh mà cho cả chính cái
hạnh phúc của mình nữa. Lo mà giải quyết mâu thuẫn của xã hội chung quanh ta
sẽ không lợi gì cả nếu tự mỗi người không ai chịu giải quyết cái mâu thuẫn
khổng lồ đang nằm trong đáy lòng của cái người của mình trước. Cũng không có
một lực lượng gì ngoài ta (như tôn giáo, luân lý, chế độ,…) có thể giải quyết
được cái mâu thuẫn ấy của nội tâm. Con người sở dĩ được xem là cao trọng nhất
trong tất cả mọi vật trong đời, là trừ mình ra không ai giải thoát cho mình được
cả. Một hiền giả Đông phương nói rất chí lý: “Thấy đặng cái Chân trong cái Giả
là đã giải thoát cho ta khỏi cái Giả rồi vậy”.
Chân lý là một cái gì Toàn Mãn, l à cái Sống Một, không phải là một danh từ
đối đích, có cái nghĩa ngịch lại với sự giả dối như ta đã thường hiểu. Ta không
nên hiểu chữ Chân lý như là một danh từ tương quan như hai chữ chân và giả
thường dùng trong giới Nhị nguyên, như một cái Sáng một cái Tối. Cái gì còn có
một đối đích của nó, không còn phải là Chân lý nữa.
*
* *
Có tiêu trừ được cái ác tập nhị nguyên, người ta mới có thể đi đến Chánh giác
được, ta người mới giải quyết được vấn đề hạnh phúc của mình, mới giải thoát
được cõi lòng vô minh đau khổ.
Người Đại giác là người đã giải thoát, không còn nô lệ lấy một bảng giá trị nào
nữa cả, không nô lệ lấy một cái Phải hay một cái Quấy nào… Tốt Xâu, Vinh
Nhục, Sanh Tử… đều được họ nhìn với một cặp mắt lạnh lung điềm tĩnh.
X
CHƯƠNG THỨ MƯỜI
HÀNH ĐỘNG CỦA KẺ GIẢI THOÁT
27
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Như ta đã thấy trước đây thì hành động không viên mãn phải là hành động của
một người viên giác, tức là người đã giải quyết được cái mâu thuẫn không lồ ở
nội tâm. Ít ra phải là con người có được cái nhãn quang “Tề vật” của Trang tử,
“Huyền đồng” của Lão tử, hay “bác nhã bình đẳng” của Phật gia mới có được
những hành động hoàn toàn viên giác.
*
* *
Pháp bửu nghĩa lâm bàn về “Bác nhã bình đẳng” có nói “Một trong những điều
kiện cần thiết để giải thoát là thực hiện được sự Đồng Nhất của các cặp mâu
thuẫn, không còn thấy sự sai biệt nữa như kế thường nhơn nhận thấy.
“Bình đẳng” đối với các giáo Đại thừa thì đồng nghĩa với chữ “Không”
Đứng về phương diện sinh lý và tâm lý mà xem thì “Bình đẳng” tức là trạng
thái Quân bình giữa thể chất và nhận thức chủ quan và khách quan mà nhà tu sĩ
thực hiện được bằng sự Thiền định.
Đứng về phương diện luân lý đạo đức, thì “Bình đẳng” tức là trạng thái thản
nhiên điềm đạm của bực Đại giác trước vấn đề Thiện Ác, Thị Phi, Vinh Nhục,
Khen Chê, Yêu Ghét. Thái đôn bình đẳng ấy gọi là Xả.
Những cặp mâu thuẫn, không có nghĩa lý gì cả, vì giữa Tôi và Anh, thực ra,
đâu có gì khác nhau, vì cùng đồng một Chân tánh.
Phật tổ nói: “Nếu có kẻ chặt ta một cánh tay và một kẻ khác ướp hương và săn
sóc cánh tay ấy của ta, đối với họ, ta vẫn xem đồng với nhau cả, không ai là bạn,
không ai là thù… Các vị Bồ Tát đều có cái tánh chung là vô lượng xả: nếu có ai
tôn quý họ, họ cũng không vui, có ai khinh thường họ, họ cũng không buồn; họ
không quý bực hiền, cũng không xem thường người ngu dốt; được không mừng,
mất không buồn; đối với bạn than cũng như với kẻ thù, tâm hồn vẫn luôn luôn
trung lập bởi vì họ không phân biệt kẻ Thiện người Ác, người than kẻ sơ… Bác
Nhã bình đẳng là một trong bốn cái Đại thức của Bồ Tát, tiếp theo cái hạnh Đại
Từ, Đại Bi của Bồ tát.
Theo Phật giáo đại thừa thì Niết bàn có nghĩa là tuyệt diệt, diệt hẳn cái quan
niệm sai lầm của nhị nguyên, hay muốn nói cho đúng hơn, vượt hẳn lên trên cặp
mâu thuẫn mà đầu óc nông cạn hẹp hòi của ta nhận thấy là hai thế giới riêng biệt.
Tất cả quan năng trong con người của chúng ta, phải biết “thống nhất” lại, thì
hành vi ta mới được gọi là toàn mãn và hoàn toàn nếu ngũ quan lục giác đều
được tổng động viên trong mỗi hành vi hằng ngày của ta, đó là điềm ta đã đắc
Đạo rồi vậy, dù là trong một nghệ thuật nào : vẽ vời, đánh kiếm hay bắn cung…
“Thuật đánh kiếm” đã được E.Herrigel miêu tả rất sâu sắc trong quyển “Le
Zen dans l’art che – valeresque du tir à l’arc” như vầy : “…sự hoàn thiện trong
nghệ thuật đánh kiếm là cái tâm của nhà đánh kiếm phải đừng bị náo động vì ý
niệm phân biệt nhĩ ngã, đừng thấy có Ta có Người, về địch thủ với ngọn kiếm
của nó, đừng nghĩ đến cây kiếm của mình và cách sử dụng nó nữa, cũng đừng
28
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
bận gì đến vấn đề sanh tử…” “Giải thoát được cái ý niệm ham sống và sợ chết,
tức là cặp mâu thuẫn Sanh và Tử, đó là đã đạt được cái nghệ thuật cao nhất của
“thuật dánh kiếm” vậy”
Bàn về cái Đạo bắn cung của Liệt tử cũng nói một thế: “Liệt ngự Khấu cùng
với Bá Hôn Vô Nhân bắn cung. Liệt ngự Khấu tay cầm cung, chỗ cùi chõ để một
chung nước. Bắn lien tiếp mấy phát mà mặt nước không chao động. Bá Hôn Vô
Nhân nói: “Cái cách bắn ấy là cách bắn của người quá lo trong việc bắn, chưa
phải là cách bắn của người thản nhiên đến việc bắn. Anh hãy đi với tôi lên núi
cao kia, kiếm chỗ gần hố sau thăm thẳm mà bắn, chừng ấy, sẽ biết anh còn giữ
đặng cái vẻ điềm tĩnh ấy nữa không?” Hai người cùng đi.
Bá Hôn Vô Nhân đứng tận bên mé hố, chân đứng nửa trên mặt đất, nửa ngoài
không không, nghiêng đầu ra sau và giương cung lên…, Liệt ngự K hấu thấy vậy
mồ hôi toát áo, sợ quá té xỉu trên mặt đất. Bá Hôn Vô Nhân cười: “Bậc Chí nhân,
con mắt trên ngó tận mây xanh, dưới xem tận đáy đất, ngoài xem tận chân trời mà
lòng vẫn không biết nao núng. Cho có như thế thời mới bắn được cái bắn thản
nhiên… Chí như anh, chưa gì cặp mắt đã hoảng hốt, lo sợ… thì có bắn, làm gì
mà bắn cho trúng đặng.” (Liệt tử).
Lòng người mà còn ham sống sợ chết, còn nghĩ đến mình thì hành động chưa
thể hoàn toàn được, vì đã xa Đạo vậy.
Chí như trong cái đạo vẽ cũng vậy, vấn đề chủ quan và khách quan cũng phải
được đồng hóa thì hành động ta mới gọi được là hoàn toàn tuyệt diệu. Một bậc
thầy Đông phương khuyên đệ tử mình như vầy: “Hãy quan sát cây tre trong mười
năm, hãy chính mình đồng hóa với cây tre ấy, rồi hãy quên hết đi, và vẽ nó đi!”
(Observe du bamboo pendant dix ans, deviens bamboo toi-même, puis, oublie
tout et peins!)
*
* *
“Khổng tử đứng xem thác nước Lũ lương. Thác ấy cao độ ba bốn chục lần bề
cao con người. Nước đổ xuống thành ra một dòng sôi bọt, chảy cuồn cuộn t rong
một cái lạch dài hơn bốn mươi dặm. Dòng nước lộn nhào đến đỗi rùa cá cũng
không ở đặng.
Bỗng Khổng tử thấy một người đang vận chuyển trong nước xoáy. Cho là một
người thất chí muốn tự vẫn nên bảo đệ tử đi theo bực hẳm đặng coi có thế nào
cứu vớt nó. Cách chừng ít trăm bước dưới nguồn, người ấy bèn lên khỏi nước, xổ
đầu tóc ra phơi vừa đi vừa ca hát… Khổng tử theo kịp nói: “Tôi hòng cho Ngài là
Thần thánh chi, mà bây giờ tôi thấy rõ ngài là người. Làm sao mà vận chuyển
được trong nước dễ dàng như thế? Xin cho tôi biết cái pháp của Ngài.” Người đó
nói: “Tôi không có pháp gì hết. Ban đầu tôi khởi sự lội theo nề nếp, rồi sự lội ấy
thành ra tự nhiên cho tôi : bây giờ tôi linh đinh như một loài thủy tộc kia, bởi tôi
đã đồng làm một cùng tánh nước , không còn thấy tôi riêng với nước nữa. Tôi
29
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
xuống với nước xoáy, tôi lên với nước vận, tôi luân chuyển theo sự luân chuyển
của nước chứ không luân chuyển theo ý riêng tôi nữa… Tôi ở trong nước như ở
trong chỗ tự nhiên của tôi. Nước gánh lấy tôi vì tôi cùng với nó là Một” (Trang
tử).
*
* *
Người thợ lặn giỏi là người không còn thấy mình khác với nước nữa; người
bắn hay không thấy mình khác với cái đích của mình bắn; người thợ vẽ hay
không nhìn thấy mình khác với vật mình vẽ…nghĩa là không còn để ý đến ngoại
vật, đến việc làm của mình nữa… Đó là đã đến mực Huyền đồng. Người đạt Đạo
là người:
Biết nghĩ bằng con tim
Và
Biết yêu bằng khối óc.
Hai quan năngấy không còn cách biệt nhau nữa. Muốn đi đến một hành vi
toàn mãn không phải tìm cách để dung hòa những điều sai bi ệt, mà là phải biết
quên mất cái ý niệm chia phân. Tâm và Trí, Lý và Tình đã hỗn hợp làm Một rồi,
nơi tâm hồn của người Đại Giác.
Sư Đạo Tín phái Thiền tong có nói:
“Con đường Chân Đạo sẽ không có gì khó khăn cả, nếu lòng ta đừng thiên về
bên nào cả: Thiện hay Ác, Phải hay Quấy, Sanh hay Tử, Vinh hay Nhục… Dù chỉ
thiên có một phần mười của một ly thôi, cũng đủ làm cho Trời Đất chia phân”.
XI
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
TẾ ĐỘ QUẦN SINH VÀ CON ĐƯỜNG GIẢI
THOÁT
Một trong những trở ngại to tát và cuối cùng của sự giải thoát là vấn đề tế độ.
Phần đông tin tưởng rằng tự giác là để mà giác tha. Và “tự giác” cũng như
“giác tha” là một sự bắt buộc, một phận sự cấp bách cho những kẻ bắt đầu vào
con đường Đạo học. Về việc tu học và giải thoát, có kẻ lại cảm thấy cần phải thi
đua với thời gian nữa. Có kẻ quá hăm hở hơn, tìm đủ cách để đi vào con đường
khổ hạnh. Quá trọng vật chất mà khinh miệt tinh thần là sai, thì sự trọng tinh thần
đến quá khinh thường xác thịt đâu còn là lẽ phải, vì phản động lại với một sự lầm
vẫn lầm. Họ đã vô tình làm chinh nghiêng đòn cân Thiện Ác. Đó cũng là cái lầm
lần đầu tiên của Thích Ca khi đi tìm Đạo.
30
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Một phần đông những nhà lo đời độ người tin tưởng rằng người có trí phải có
phận sự dạy kẻ ngu, kẻ khôn ngoan phải có phận sự độ người ngu dại. Đã xem đó
là một phận sự thì mỗi khi mình tin tưởng là đã hiểu biết được một điều gì hay
mà không chịu đem nó ra truyền dạy cho kẻ khác, mình cảm thấy lòng mình như
thắc mắc. Mình cảm thấy sự tế thế độ nhơn là một sự bắt buộc, nên phần đông
thích khuyến dụ và tế độ. Có kẻ lại còn đi quá xa hơn nữa, họ dùng quyền thế và
uy vũ răn he đe dọa bắt buộc kẻ khác để cho mình tế độ, hoặc tệ hơn nữa, họ
dùng mánh khóe của anh đánh xe lừa đã nói trước đây, đem thiên đường tiên
cảnh mà dụ dỗ, đánh vào lòng tham cố hữu của con người để bảo họ làm lành
tránh dữ.
Sự lo độ người dạy đời, cũng như sự hăm hở lo đưa mình đi mau trên con
đường giải thoát là một băn khoăn ám ảnh lòng người tìm Đạo. Nhưng nào ai có
dè nó là một ảo vọng hết sức tai hại làm trở ngại rất lớn cho kẻ thực tâm tìm Đạo.
Thực vậy, còn hăm hở ham muốn giải thoát, tức là còn ở trong tâm trạng của
một sự chọn lựa. Mà đã là còn chọn lựa, tức là còn cho là một cái gì là phải hơn
một cái gì, tức là còn nô lệ một bảng giá trị nào mà ta cho là phải hơn một bảng
giá trị nào khác mà ta không thích. Còn chọn lựa là còn riêng ưa ghét, tức là còn
thiên hẳn về một bên nào của đòn cân Thiện Ác, tức là đã làm chênh lệch cái Đạo
nơi ta rồi vậy. Tăng Xán có nói: “ Đem cái điều ta ưa thích để chống lại với cái
điều ta không ưa thích đó là căn bệnh trầm trọng của tâm hồn” Đạo tín cũng có
nói: “ Con đường Chân Đạo sẽ không có gì là khó khăn nếu lòng ta đừng thiên về
bên nào cả : Thiện hay Ác, Phải hay Quấy, Sanh hay Tử, Phúc hay Họa, Tốt hay
Xấu… Dù chỉ thiên có một hào ly thôi, cũng đủ làm cho Trời Đất chia phân…
Kẻ còn muốn lên Thiên Đàng hay đến cõi Niết bàn là đã làm chênh lệch thế
quân bình của Thiện Ác, tức là đã làm mất cái Đạo nơi mình rồi. Tham sống sợ
chết cũng đều sai với Đạo cả. Pascal có nói một cách rất sâu sắc: “Người ta
không phải là một vị tiên thánh mà cũng không phải là một con vật. Kẻ nào muốn
làm ông thánh lại làm thành con vật”.
*
* *
Huống chi quá hăm hở ham muốn một cái gì, thường lại phải gặt hái những kết
quả trái ngược lại với cái điều mình mong ước. Quá hâm mộ làm việc Thiện, lại
không đạt được mục đích của sự Thiện mà lại gặt lấy những kết quả trái ngược
như trường hợp Gandhi, suốt đời cổ võ sự bất bạo động rồi lại chết vì bạo động.
Quá mong được tự do lại phải sa vào vòng nô lệ. Quá ham mê tự do thì thành ra
hỗn loạn, quá hỗn loạn thì phải cầu cứu đến độc tài và nô lệ. Âm cực thì Dương
sinh, dương cực thì âm sinh, việc đời bao giờ cũng như thế. Kẻ nào phát nguyện
câu “Được tất cả hay là không được gì cả” (Tout ou Rien) lại là người se “không
được cái gì cả”.
31
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Đạo, tức là cái luật Quân Bình của Vũ Trụ, không cho ta có quyền làm một cái
gì thái quá. Đạo giống như cái trọng tâm của quả lắc A :
Nếu ta kéo nó qua bên B, càng xa cái trọng tâm A của nó chừng nào thì luật
quân bình bắt nó phải đánh nó tr ả lại, nhưng khi nó đến trọng tâm A rồi, nó đâu
có chịu dừng lại, nó phải vượt qua đó để đi đến điểm B điểm đối đích bên kia.
Rồi nó cũng biij luật quân bình của trọng tâm A làm cho quả lắc ấy phải trở về vị
trí A nhưng phải qua qua lại lại 5,6 chục lần mới có thể đứng yên lại như cũ.
Lão tử rất am tường “ luật phản động” ấy nên đã ví Đạo như “cây cung” mà
giương ra : “Thiên chi Đạo, kỳ du giương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi:
Hữu dư giả tồn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo: tổn hữu dư, bổ bất túc”.
(Đạo Trời như cây cung mà giương ra: chỗ dư thì bớt đi, chỗ thiếu thì bù vào.
Đạo Trời là bớt cái dư, bù chỗ thiếu).
Ông lại nói: “Thánh nhân khứ thậm, khứ xa, khứ thái” ( bực Thánh bỏ những
cái gì có tánh cách thái quá) là vì “tương dục hấp chi, tất cố trương chi, tương dục
nhược chi, tất cố cường chi; tương dục phế chi, tất cố hưng chi; tương dục đoạt
chi, tất cố dữ chi”. Đạo, là cái lẽ huyền diệu nắm giềng mối tất cả mọi sự vật trên
đời, không cho phép một cái gì “thái quá” đến làm chênh lệch thế quân bình. Tục
ngữ Tây phương cũng có câu: “ Cái gì thái quá đều là sái quấy cả” (I’excès en
tout est un défant), và ởi
b thế kinh nghiệm thiết thực của người đời đã đẻ ra
những câu tục ngữ thông thường, nhưng không kém inh vi sâu sắc, như những
câu: “ Cái quá tốt lại đi nghịch lại với cái tốt” (le mieux est l’ennemi du bien),
“kẻ nào muốn chứng minh nhiều lại không chứng minh được cái gì cả” (qui vent
trop prouver, ne prouver rien), “tấm huy chương nào cũng có cái bề trái của nó”
(chaque médaille a son revers)…
32
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Ngày xưa có một ông lão có một con ngựa, một hôm tự nhiên đi mất. Hàng
xóm đến chia buồn. Ông nói: Mất ngựa, nhưng các ông sao biết đó là họa cho
tôi?”
Cách mấy tháng, con ngựa lại trở về, dẫn theo một con ngựa hay nữa. Hàng
xóm đến chia mừng. Ông nói: “Được ngựa hay nhưng các ông sao biết đó là phúc
cho tôi?”
Từ ngày được ngựa hay,con trai ông lão ngày nào cũng thích cỡi, rủi té, què
chân. Hàng xóm đến chia buồn, ông nói: “Con tôi què, nhưng các ông sao biết đó
là họa cho tôi?”
Năm sau có giặc. Nhà v ua bắt lính…thanh niên đi lính, mười người chết đến
chin. Con trai ông lão vì què, khỏi đi lính, nên cha con còn hủ hỉ với nhau.”(Liệt
tử). Chính đó là chỗ mà Lão tử đã nói: “họa hề phúc chi sở ỷ; phúc hề họa chi sở
phục”.
Kể phần tích cực của sự đời, ai lại không muốn, nhưng thảm thay, càng muốn
được nên thì càng lại dễ thành hư, càng muốn được tốt lại dễ thành ra xấu, càng
muốn được phải lại dễ thành ra quấy, càng muốn được phúc lại dễ thành ra
họa…”, “không có cái lầm lẫn nào to tát bằng sự ham muốn đạt cho kỳ được cái
kết quả tích cực của một việc gì mà mình quá mong ước”.
Vậy, tại sao ở đời, ta không biết “dĩ tiện vi bổn, dĩ hạ vi cơ” mà
“Hậu kỳ thân nhi thân tiện;
Ngoại kỳ thân nhi thân tồn”;
Lấy cái “Nhu thắng Cang;
Nhược thắng Cường…”
Tức là dụng cái thuật “bất tranh nhi thiện thánh” trong con đường tìm Đạo.
Bất cập là dở mà thái quá cũng không hay gì, dù là thái quá trong sự ham làm
việc Thiện, như trong sự Tế độ quần sinh là một vậy.
Tóm lại, tại sao người ta thường hay đạt được những kết quả trái hẳn lại với
lòng nguyện ước của mình” dù những nguyện ước ấy là những điều hợp lý và
phải lẽ?
Là tại có cái Đạo chủ trương và bao trùm vạn vật luôn luôn có mặt trong tất cả
mọi sự vật. Nó có “phận sự” điều chỉnh lại những cái gì “thái quá”, vượt mức
trung, vì hễ “cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả, tổn chi, bất túc giả bổ chi”
đặng mà lập lại cái thế quân bình, không cho thiên hẳn về một bên nào cả các đòn
cân Âm Dương, Thiện Ác…
XII
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI
33
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
KẾT LUẬN
Đọc xong quyển này, ắt có một phần đông kẻ quá thiết tha lo đời sẽ bảo: “về
nguyên tắc thì tạm cho là hợp lý, nhưng về phương diện thực hành, e khó thi
hành được cho mau chóng trong xã hội”.
Bạn đừng thắc mắc về vấn đề xã hội, bạn nên tự hỏi: Mình là người ra gánh
vác việc sửa đời dạy người, mình đã là người thật sáng suốt chưa, mình đã là
người tìm được cái lẽ sống thật của mình chưa, mình đã tìm ra cái chân hạnh
phúc cho mình chưa?
Nếu chưa, thì xin bạn hãy lo cho mình cho hoàn toàn đi. Có sáng được mình
mới mong làm sáng được người.
Một phương pháp, một chánh thể dù hay đến bực nào, công bình và nhân đạo
đến bực nào, nếu phải trao về tay những kẻ chưa giải quyết được sự mâu thuẫn
khổng lồ nơi tâm, còn “vị kỷ, vị công, vị danh” thì chắc chắn họ sẽ lợi dụng
phương pháp ấy, chánh thể ấy để thỏa mãn lòng ích kỷ tham lam của họ. Một tôn
giáo thuần túy và bác ái vị tha như Phật giáo, vậy mà biết bao kẻ đã lợi dụng nó
để bóc lột người một cách vô cùng tàn nhẫn và trắng trợn. Còn chi cao quý hơn
danh hiệu Tự do, thế mà người ta còn “nhân danh nó để làm không biết bao nhiêu
là tội ác”! Với kẻ chưa giải thoát cõi lòng khỏi sự vô minh ích kỷ, thì không có
một cơ hội thuận tiện nào mà họ không lợi dụng để thỏa mãn lòng tham lam bóc
lột.
Kẻ mà lòng vẫn còn nô lệ, không làm sao mưu tự do cho kẻ khác được. Có tự
giác mới có thể bắt đầu lo việc giác tha.
Nếu mỗi một người đều biết lo cho mình, lo cho tới chỗ thật biết, thật hiểu, thì
tưởng không cần phải ai lo cho ai nữa mà thiên hạ sẽ được thái bình, nhân dân
hạnh phúc.
Cần yếu nhất là ta phải hết sức thành thật với mình. Đừng tưởng thành thật với
mình là dễ. Những bậc chí nhân sở dĩ đến được cõi chí thiện đều nhờ có một chữ
“Thành” mà thôi.
Thành thực với mình là con đường duy nhất đưa mình đến tự do và giải thoát.
PHỤ LỤC
Sống là gì?
34
A. – SỐNG LÀ GÌ?
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Có nhiều lý thuyết, nhưng tôi chỉ nhớ có thuyết đơn giản này : sống là tranh
đấu.
Tôi nhận nó là chí Lý là vì nói cho đúng ra, với thực nghiệm của bản thân suốt
đời gian truân tranh đấu không ngừng, làm sao phủ nhận nó cho đặng?
Nhưng, trong khi tranh đấu, tranh đấu bất tận, tranh đấu gắt gao say cuộc, thét
rồi lắm khi lại quên mất cả ý nghĩa của cuộc tranh đấu của mình.
Ban đầu thì sự tranh đấu chỉ ở trong vòng rất chật hẹp là để mưu sống, cái sống
về vật chất trước hết. Rồi cuộc tranh đấu tràn lan sang tinh thần. Trong khi tranh
đấu ấy, rốt cùng lại chỉ thấy có mình, rồi với danh nghĩa là tranh đấu cho chính
nghĩa, cho dân tộc, cho nhân loại mà thực ra ta chỉ lo tranh đấu cho mình. Trong
khi tranh đấu ấy ta chỉ còn nhớ cái khẩu hiệu “sanh tồn cạnh tranh, ưu thắng liệt
bại” mà thôi. Hễ mạnh thì thắng, yếu thì thua, cho nên ta không ngần ngại gì, nếu
có thể được, dùng đủ phương tiện miễn thành công thắng lợi là được.
Ta quên rằng có ta cũng phải có người. Sự tranh đấu của người văn minh phải
có khác với sự tranh đấu của giống sài lang, đi tìm cái thắng lợi cho mình trên sự
tang tóc của đồng loại. “Sanh tồn cạnh tranh, ưu thắng liệt bại”, cái luật này là cái
“luật của rừng rú”, cái luật cảu người bán khai, chưa phải là cái luật của người
văn minh với cái nghĩa thanh cao tốt đẹp của nó.
Thời xưa, lúc con người còn man đã, thì dùng mạnh để thắng yếu. Ngày nay
con người đã lên đến trình độ văn minh, tức là đã đến cái trình độ lấy sức mạnh
mà bênh vực kẻ yếu : lấy cái nghĩa chung để trên cái lợi tư. Lẽ ra câu nói này của
La Fontaine: “Cái lý lẽ của kẻ mạnh bao giờ cũng phải” đã tiêu biểu cho cái luật
tranh đấu của thời man dã, tượng trưng cho cái luật của rừng rú, không còn tồn
tại nữa trong thế hệ văn minh này. Nhưng than ôi, nó vẫn cũng còn chi phối cả
văn minh loài người trên khắp mặt địa cầu.
Ta là người văn minh phải tranh đấu để mà thủ tiêu cái luật man dã ấy. Tức
nhiên, cái ý nghĩa nhân sinh của ta về sự sống phải được thay chiều đổi hướng.
Đành rằng sống là tranh đấu.
Nhưng, tranh đấu để làm gì? Phải chăng để mưu cầu hạnh phúc? Mà mưu cầu
hạnh phúc ngày nay đâu còn có nghĩa là lấy mạnh mà lấn yếu, lấy khôn mà hiếp
dại, lấy sức mạnh oai vũ của mình để bắt buộc kẻ khác phải theo mình, phụng sự
hạnh phúc cá nhân của mình, đem lý tưởng về điều phải lẽ quấy của mình làm
“khuôn vàng thước ngọc” cho tất cả mọi người.
Mỗi người, dù mạnh hay yếu, hễ là người thì đều được quyền sống cả. Phải trả
lại cho con người cái quyền sống ấy.
*
* *
Vậy thì, sống là gì? Sống là tranh đấu, tranh đấu để lập lại Công Bình cho tất
cả mọi người. Hay nói một cách khác, sống là tranh đấu, tranh đấu để tìm hạnh
35
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
phúc, cái hạnh phúc đặt trên một nền tảng Công Bình và Nhân đạo, nghĩa là tìm
lại cái thế quân bình, cái Đạo Trung hoà của Trời Đất.
Người Đông phương ngày xưa cũng đã có bảo: “Trung giả dã, thiên hạ chi đại
bản giả; Hòa giả dã, thiên hạ chi đạt đạo giả. Trí Trung hòa thiên địa vị yên, vạn
vật dục yên.” ( Trung là cái gốc lớn của thiên hạ; Hòa là cái đạt đạo của thiên hạ.
Đi đến chỗ Trung hòa của Trời Đất thì Trời Đất được định vị mà vạn vật được
hóa sinh.) Lại cũng có nói: “Ở đời không có việc gì Phải mà không có Quấy, nên
mà không có hư, lợi mà không có hại”.
Người ta phần đông thường mê muội, tưởng chỉ có mình là trung tâm điểm của
vũ trụ nên bao nhiêu sự gì không có lợi cho ta, liền phán đoán ngay là hại, mà
không hay rằng cái hại cho ta cũng như cái lợi cho ta không thể còn là cái hại hay
cái lợi cho người khác hay vật khác.
Mỗi một việc gì của ta làm, nếu muốn có lợi nhiều, cố nhiên cũng sẽ có hại
nhiều để bù vào sự thái quá. Cái Phải mà quá phải cũng thành ra quấy. Mỗi mỗi
phải tùy lúc tùy buổi và có chừng mực. Thái quá cũng như bất cập đều là mất
quân bình.
Người ta ở đời chỉ nhao nhao lo sợ sự quấy, sự hại mà quên rằng phải quấy,
nên hư, lợi hại đều là cái gốc quân bình của vũ trụ, Sự Sống, sở dĩ tồn tại đặng
cũng nhờ sự quân bình của những lực lượng tự nhiên đối lập ấy.
Tóm lại, ta có thể nói rằng: cái lợi đành là có lợi mà cái hại cũng có lợi nữa, lợi
cho sự sống. Cổ cũng như kim đều có những người quan niệm cuộc đời như thế :
họ đồng nhận rằng Sống là Quân Bình.
*
* *
Giáo sư Georges Lakhowsky trong quyển “Le Secret de la Vie” có câu : Sống
là quân bình giữa những luồng điện Âm Dương, mà chết là sự mất quân bình ấy”.
Thuyết ấy, Đông Phương đã lấy nó làm căn bản y lý đã mấy ngàn năm rồi.
Quân bình là gì? Là hai bênđồng với nhau về lượng cũng như về phẩm. Ta
nên để ý rằng: lắm khi thấy có sự chênh lệch trong tạo hóa nhưng đó chỉ là sự
mất quân bình tạm, kỳ thực thì sự quân bình không bao giờ mất.
Nếu ta quan sát sự vật trong các hiện tượng vật lý hay sinh lý, ta sẽ thấy rõ
rang cái luật quân bình ấy. Nhà vật học gọi nó là quân bình của sự sống. Cái quân
bình ấy không phải là cái quân bình “tịnh” mà nó là cái quân bình “động”, căn cứ
vào sự mãi mãi tuần lưu của vật chất : cây cỏ hút lấy hóa chất dưới đất mà sinh
sôi nảy nở, thú vật ăn cây cỏ đó, các con thú khác ăn lại các con thú ấy, những
chất mục nát của cây cỏ và loài vật sẽ lại trở về dưới đất. Các loại vi trùng dưới
đất tiêu hóa các chất ấy; phẩm của chúng trở thành hóa chất; cây cỏ lại hút lấy nó
mà sống. Thế là xong một cuộc tuần hoàn. Cái quân bình ấy là một lối quân bình
thô sơ nhất. Nhưng , nhân đó nhà khoa học lại tìm thấy them được một thế quân
bình khác huyền bí hơn, tinh tế hơn. Ấy là luật quân bình c ộng sinh tức là sự
36
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
cộng đồng sinh tồn của sự vật thù nghịch nhau. Các loài vật bị vi trùng đục khoét
thường bị hại lúc ban đầu nhưng rồi sau cũng quen lần với loại độc trùng ấy. Sự
quen thuộc ấy một phần lớn cũng nhờ sự di truyền từ đời này sang đời kia thành
ra một thiên tính chịu đựng rất hiệu. Vì thế người ta hay dùng thuốc độc hay tiêm
vi trùng độc vào cơ thể để cho cơ thể họ làm quen với món độc trùng ấy. Sau này
nếu có gặp bệnh truyền nhiễm do các độc trùng ấy gây nên thì thể chất họ đã nhờ
quen lớn trước nên lướt khỏi tai nạn. Những độc trùng sống cái đời “chum gởi”
ấy rốt cùng cũng không hại gì được các loài vật mà chúng đụt khoét để sống đó.
Quen với nhau rồi thì cũng sống thuận hòa với nhau không ai bị thiệt cả: độc
trùng không giết đặng bệnh nhân , mà đó cũng là một sự lợi cho chúng, bởi nếu
bệnh nhân chết thì nó cũng sẽ phải chết không nơi nương tựa. Nói thế, không
phải bảo rồi không có bệnh, không có chết. Nếu có bệnh, có chết, tức nhiên là vì
độc trùng quá mạnh mà sức chịu đựng của bệnh nhân rất kém, mất cả quân bình.
Lối quân bình này giúp cho tạo hóa duy trì cái sống cho các loài vật.
Quân bình cũng có nhiều khi, đột nhiên, bị hoàn cảnh thay đổi, đảo lộn mà tìm
lại không kịp thế quân bình. Ta có thể ví cái quân bình của sự sống ta như cái
quân bình của quả lắc. Cái quả lắc, nếu ta kéo qua một bên sái cái vị trí tự nhiên
của nó thì bao giờ nó cũng cố trở về vị trí cũ của nó. Nhưng chẳng những trở về
tới chỗ cũ, nó vượt qua cái vị trí cũ ấy để bù vào cái thái quá trước kia, nghĩa là
nó phải lắc qua lắc lại 5, 7 hiệp để tìm lại được cái quân bình trước của nó mới
thôi. Trong lúc nó đánh trả lại ngang với bên kia, mới thấy ta tưởng lầm rằng nó
mất quân bình, nhưng kỳ thật đó là quân bình hay là nói một cách khác đó là nó
tìm cách để lập lại một cái thế quân bình của nó đã mất.
Trước kia tôi đã có nói, lắm khi ta thấy có sự thiên lệch trong tạo hóa, nhưng
đó chỉ là một sự mất quân bình tạm, kỳ thật không bao giờ có sự mất quân bình.
Sự sống chẳng qua là một cuộc liên tiếp các sự động và phản động để sửa lại cái
động thái quá cốt để gìn giữ lại sự quân bình của sự sống. Mà hễ động mạnh bao
nhiêu thì phản động cũng mạnh bấy nhiêu để bù vào cái thái quá trước kia.
Nhưng ở đời ta phải nhớ cho kỹ : không có một cái động nào mà khỏi phải mất
quân bình. Nghĩa là hễ động là mất quân bình. Nếu cơ thể nào mà không có sức
phản động lại, tức là cơ thể ấy phải chịu tiêu diệt. Điều này rất quan trọng.
Như ta đã thấy, cái luật quân bình là cái luật của tạo hóa để duy trì sự sống mà
cho rằng Quân bình là cái luật giúp cho sự sống phát triển vô cùng vô tận về một
mặt, trái lại, nó cũng dùng để mà hạn chế sự phát triển quá sức của một loài về
một chiều có thể tai hại cho sự quân bình chung cho các loài sinh vật khác. Ta
thử lấy một vài thí dụ cho dễ hiểu.
Bác sĩ Charles Nicole, người đã được giải Nobel về Y học, có nói: “ Bệnh dịch
mà truyền lây cho người này đến người kia là tại các con bò chét. Những xã hội
tổ chức có vệ sinh không bao giờ có bị bệnh ấy. Phải chờ cho có giặc giã, những
điều kiện vệ sinh mất đi, chừng ấy bệnh nguy hiểm mới phát lên một cách mãnh
37
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
liệt tàn sát con người một cách đáng ghê sợ. Thật vậy, các giống dân sinh hoạt
bẩn thỉu, nhờ sống quen với các vi trùng học, nên chứng bệnh ấy đối với họ
không mấy gì là tai hại. Trái lại, các dân tộc văn minh sinh họat sạch sẽ lại là cái
mồi thơm cho các vi trùng này, hễ khi họ vương lấy chứng bệnh ấy thì nguy trăm
phần trăm, hỏi cơ thể họ đối với giống độc trùng này không từng quen nhau, nên
họ càng bị truyền nhiễm và bị sát hại dễ dàng hơn. Lời nói của Charles Nicole
ngẫm lại có lý.
Ta thường thấy các anh chị ở đồng bái thường sống ngoài trời, thở hút không
khí thanh sạch, chính họ lại là cái mồi thơm cho vi trùng lao, nếu các anh chị em
ấy bỏ đồng bái để sống cái đời sống chật hẹp thiếu không khí ở thành thị. Trái lại,
các anh chị ở thành thị đông đúc từ nhỏ đến lớn đối với cái không khí nhơ bẩn ấy,
đã quen nên cũng không tai hại gì cho lắm. Như ta thấy cái quy luật quân bình
cho phối cả văn minh sự vật vì văn minh nó cũng có cái tánh cách của một sinh
vật, nghĩa là cũng có cái sống, cái đau, cái chết của nó. Hễ đặng bề này thì phải
mất bề kia: lợi hại thăng bằng để duy trì sự sống điều hòa của vạn vật. Những
phát minh mới mẻ về khoa học của nhân loại là một thắng lợi to tát của chúng ta,
nhưng liền đó nó cũng đã bị bù vào bằng những tai hại cũng tày trời hết sức rõ
rang. Như sự phát minh mới mẻ của thế giới cận đại về máy móc làm cho sự
sinh họat của dân tộc thay đổi rất nhiều: xe lửa, tàu bè, xe hơi, máy bay… thật là
những cái kỳ quan rất tiện lợi cho con người ở thế kỷ thứ 20 này. Các thứ ấy đã
giúp các dân tộc được tiếp xúc nhau rất mau lẹ. Ranh giới tự nhiên hay nhân tạo
giữa các nước cùng các dân tộc đủ mọi màu sắc nhờ đó mà hòa hợp lẫn nhau,
không còn cô lập như xưa nữa. Văn minh tư tưởng của con người nhờ s ự chung
đụng không ngừng ấy đã biến đổi và trở nên cao hơn xưa nhiều. Nhưng nếu
người da trắng đem những cái hay của họ cho người da đen, da vàng thì họ cũng
mang theo cái dở rất tai hại không kém.
Trước đây, trước thời đại văn minh máy móc mà sự lưu thông không được quá
mau lẹ như ngày nay, có nhiều cái hải đảo xa xăm suốt đời không thấy một dấu
chân người nào lạ mặt, họ bị đau khổ vì một số chứng bệnh có hạn, nhưng với
những chứng ấy nhờ cái luật cộng sinh quân bình nói trước đây họ quen thuộc và
chịu đựng nên không mấy gì tai hại. Ngày nay thì những dân tộc thiểu số ấy bị
những bệnh chứng Âu châu hoành hành mặc dù người da trắng cũng đem theo
nhiều thuốc men để trị. Người ta chỉ thấy người Âu đem nhiều thứ thuốc hay cho
mình, mà không dè họ cũng mang đến cho mình nhiều thứ bệnh hoạn mà người
bản xứ trước kia không có. Họ chỉ thấy cái số thuốc, số nhà thương tăng lên nên
vội vàng cho đó là một sự tiến bộ.
Tóm lại, nếu các văn minh Tây phương cứ tiếp tục chế ngự thế giới như ngày
nay thì có lẽ nhờ những các h thức vệ sinh sẽ làm giảm bớt số bệnh nhân, nhưng
đồng thời những sự hòa lẫn các mầu sắc dân tộc cũng sẽ tạo thêm nhiều chứng
bệnh mới lạ nữa. Trái lại nếu cái văn minh này mà thối lui hay bị tiêu hủy thì các
38
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
dân tộc bắt đầu sống cô lập, lẻ tẻ như xưa, bấy giờ họ sẽ có nhiều người bệnh vì
thiếu vệ sinh và phương pháp cứu chữa, nhưng họ cũng sẽ bớt nhiều bệnh chứng
của văn minh kia đem lại. Ở đây, chúng ta thấy một lần nữa, cái luật cộng sinh
quân bình lại được toàn thắng.
Thử lấy thêm một thí dụ nữa về chiến tranh. Chiến tranh tàn sát đàn ông nhiều,
cố nhiên dân số đàn bà dư. Theo sự quan sát của các nhà bác học thì những nơi
nào thiếu thốn đàn ông nhiều, số sinh sản lại tăng về phía con trai. Chúng ta thấy
đó cũng là một thứ luật quân bình để đừng có sự chênh lệch trong tạo hóa. Ở đây
tôi xin đánh một cái dấu ngoặc: sự nhận xét này có lẽ sẽ sai bởi vì cuộc chiến
tranh nguyên ử
t sau này sẽ tàn khốc và không dung tha đàn bà con trẻ gì cả.
Nhưng không sao. Chừng đó tạo hóa sẽ có những phản động khác để lập lạ i cái
thế quân bình.
Ta lại cũng thấy các dân tộc văn minh tiến bộ chừng nào lại là những dân tộc
đã mất nhiều về ý nghĩa gia đình chừng nấy. Họ không ưa có con đông và tìm đủ
cách để hạn chế sự sinh sản. Trái lại, những dân tộc dã man là những dân tộc
sanh sản vô độ, gia đình họ đông như kiến, lúc nhúc trong những chòi tranh eo
hẹp bảy, tám đứa trẻ là ít. Số sanh sản của hạng hạ lưu thường thắng cái số sinh
sản của hạng thượng lưu. Và nhờ đó mà cuộc tiến hóa của nhân loại chậm lại, cái
quân bình của tạo hóa khỏi bị hủy phá.
Quân bình, tức là sự không thái quá không bất cập. Bởi thế bậc siêu nhân là
những kẻ đã vượt quá mức trung và luật quân bình, họ sẽ bị tiêu diệt dưới lực
lượng của phần hạ đẳng thắng số. Những bậc vĩ nhân phần nhiều là những kẻ ít
sanh sản. Cây quý khó trồng. Cái lượng thường hay thắng cái phẩm để giữ quân
bình.
Trong trời đất không có cái gì thái quá mà trường cửu được.
Về pháp luật cũng thế. Nó là một sự cần thiết và rất có ích, nhưng khi nó trở
nên phiền phức quá lại sẽ biến thành một trở lực ghê gớm cho sự phát triển tự do
tinh thần của con người. Ở đây, trước kia có lẽ mỗi một người của chúng ta đã
nếm qua cái mùi lai của chế độ độc tài, sống trong một cái lưới dầy dặt pháp luật.
Dường như tạo hóa vì muốn duy trì sự sống nên thu bớt lại những sự vật nào
tiến hóa rất mau lẹ. Đạo Trời là, như Lão tử đã nói “tổn hữu dư, bổ bất túc”. Thảo
nào thi sĩ Nguyễn Du cũng đã phải than:
“ Lạ gì “bỉ sắc tư phong”,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Cái quan niệm về Quân bình này là nguyên nhân của cái quan niệm về công
bình lạnh lùng của tạo hóa mà Lão tử đã bảo “thiên địa bất nhân”, cái công bình
mà khi ta càng quan sát nghiên cứu sâu chừng nào không khỏi làm cho lòng ta ê
chề chán nản chừng nấy.
Thật vậy, luật quân bình, nếu là một cái luật của tạo hóa để hạn chế lại cái thái
quá của những sự mà ta gọi là hư hèn, thì cái quân bình ấy sẽ vừa lòng ta lắm. Nó
39
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
sẽ làm cho lòng ta phấn khởi trên con đường tiến thủ tinh thần. Nhưng nếu nó lại
cũng là một cái luật của tạo hóa để hạn chế lại những gì thái quá của những công
trình cao thượng thì cái luật ấy khiến cho ta khi nghĩ đến không khỏi phải đau
lòng.
Ích gì ta phải lo phấn đấu, đau khổ vì điều thiện, lẽ phải trong lúc mà tạo hóa
âm thầm mưu cuộc phản động để hạn chế: càng tìm cách làm cho lợi bao nhiêu
thì sẽ phải bị một sự phản động ghê gớm, hại thêm cũng bấy nhiêu. Một nhà xã
hội học, nhân sự quan sát về sự tiến bộ về nghệ thuật, đã kết luận rằng: “Bao giờ
nghệ thuật tịnh tiến đến một trình độ khá cao rồi, tất phải khởi đầu suy thối lại.
Ấy là một cái luật chung cho tất cả các nghệ thuật từ cổ chí kim, từ Đông chí
Tây.
Giáo sư Charles Nicole kết luận về quyển sách “La Nature” của ông, cũng có
nói: “Ôi! tiến hóa! Cái mà ta gọi là tiến hóa, có k hác nào một con sông lôi cuốn
bãi bờ theo nó. Ta đây có khác nào anh đóng kịch nằm trong khoan ghe mà thấy
cảnh vật chung quanh thay đổi lại tưởng mình tiến tới trên con đường hạnh phúc.
Kỳ thật, chúng ta không có tiến hóa gì cả? Nếu bảo tiến hóa là những điều gì làm
cho con người nhân đạo hơn, thì xưa kia con người sánh với bây giờ có lẽ còn
nhân đạo hơn, hạnh phúc hơn nhiều.” Thử hỏi một cuộc chiến tranh bằng cung
tên đao kiếm ngày xưa đối với một cuộc chiến tranh hóa học nguyên tử ngày nay,
cái nào khốc hại hơn, cái nào tàn nhẫn hơn?
Mỗi một việc gì, hễ có lợi cho người nhiều bao nhiêu, vì luật quân bình, tất
cũng sẽ có hại cho người nhiều bấy nhiêu. Khoa học ngày nay đã phát minh biết
bao điều hay cho nhân loại như vô tuyến điện, xe hơi, tàu bay…giúp người biết
bao điều lợi ích… Nhưng ích gì những sự phát minh của y học, lý học và hóa
học đã cứu người được bao nhiêu, so sánh với lối giết người nhanh chóng của
chiến tranh ngày nay, thì còn chỗ nào gọi đó là tiến bộ. Cứu một người mà giết
muôn người, cái lợi khí ấy chưa thể gọi nó là thần thánh được.
Nhà bác học Branly, người đã phát minh khoa vô tuyến điện đã nói: “tôi càng
nghĩ đến sự tiến bộ rất mau chóng của khoa học chừng nào, tấm lòng không khỏi
ngẩn ngơ sợ hãi chừng nấy! Bởi tôi thấy rất rõ rằng sự tiến hóa về tinh thần và
vật chất của con người đã mất thăng bằng (quân bình) và còn cách xa nhau nhiều
lắm”. Trí của ta tiến quá xa cái tâm của ta…Sự mất thăng bằng ấy là mối nguy
cho nhân loại không biết chừng nào. Những cuộc chiến tran khốc liệt vừa qua ,
cũng như đang chờ đợi chúng ta sau đây còn ai là người có lòng biết thương xót
đến cái nổi khổ của nhân loại sắp chịu mà tấm lòng không phải bâng khuâng lo
nghĩ.
*
* *
40
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Lấy ngay thêm một vấn đề Văn minh ra mà bàn, ta sẽ thấy, trong đời không có
một cái Lợi gì mà không có cái bề trái của nó. Cái Văn minh đang làm bá chủ
trên khắp thế giới văn minh ngày nay phải chăng là văn minh Cơ Giới?
“Nhờ Văn Minh Cơ Giới mà kẻ làm công ngày nay thoát được cái ách lầm
than của một công nhân ngày xưa, đã vừa được lương cao, vừa được ít thời giờ
làm việc, đỡ được công việc nặng nhọc của một con thú cày. Nhờ văn minh cơ
giới ngừi bình dân ngày nay được nhiều thời giờ nhàn rỗi hơn ông cha lúc trước
nhiều cách sinh hoạt bản thân và của gia đình phong lưu hơn lúc trước nhiều. Sự
nhàn hạ, sự phong lưu ấy về phần sung sướng vật chất đã là hay mà về phần tinh
thần lại càng hay hơn nữa. Nhờ đó người ta có thể tăng cao cái trình độ học thức,
cả cái trình độ nhân sinh lên nữa.”
Cái hay của nó tưởng không còn ai là không biết. Như ng còn cái dở của nó
như thế nào? Như trước đây toi đã nói: không có một cái hay gì mà không có một
cái dở kèm theo. “Nhờ văn minh cơ giới người ta được nhàn hạ hơn xưa, nhưng
cái thời giờ nhàn hạ ấy dùng để làm gì? Người đời nay nhãn giới rộng vì nhờ
cảm giác nhiều, nhưng sự đó có ích lợi gì cho tri thức chung không? Người nay
được muôn điều tiện lợi, có cái cơ hội, có thể sinh hoạt một cách cao thượng
được, nhưng họ có biết lợi dụng để mà tăng cao trình độ của mình không? Ta
hãy có gan nhìn nhận rằng: quả chưa được như thế, có khi trái hẳn lại là khác”.
Cái lòng hiếu dục, “chỉ cầu thỏa mãn những cái khoái lạc và nhục thể mà thôi,
chỉ hì hụp trong những cuộc tiêu khiển hèn hạ thô tục, không biết khao khát
những chuyện siêu việt thanh cao”. Đó là cái bản tánh của loài người phần đông.
Phần đông người đàn bà cũng như đàn ông không thiết gì đến sự đào luyện trí
thức, không thiết gì đến văn hóa, cũng không thích sinh hoạt một cách cao
thượng làm gì. “Ở chỗ yên ổn tĩnh mịch thì họ không thể chịu được, dụng đến cái
trí khôn để mà suy nghĩ, thì họ lại cho đó là khó nhọc”. Bởi vậy “họ xô nhau ra ở
thành thị, công việc hằng ngày chỉ có nhảy đầm, xem hát, chớp bóng, đánh
“banh” với lại đọc những tờ nhật báo nhảm nhí. Càng nhàn hạ, càng giàu có, thì
lại càng nhảy múa, càng chơi bời phóng túng bấy nhiêu. Cái tâm lý thông thường
của loài người là làm biếng, coi như bất kỳ công việc gì cũng tìm cách làm cho
đỡ nhọc và rất ghét sự gắng công, mà, nhưng chúng ta đã biết, không có gắng
công thì tinh thần ta không bao giờ cao lên được.
“Bởi thế, văn minh cơ giới làm cho người ta được nhàn hạ chừng nào chỉ lại để
nuôi cái tâm tính lười biếng xấu xa ấy mà thôi. Đã nhàn hạ và không thích công
việc gì khác khó nhọc, như học thêm là một, thì cũng phải suy nghĩ cách để mà
lãng phí cái thời gian nhàn hạ ấy một cách khoa học mới được nghĩa là chẳng lẽ
lại ngồi khoanh tay hay sao? Cho nên văn minh cơ giới vừa làm cho người được
nhàn hạ, lại vừa đặt thêm ra cái cách để mà lãng phí cái thời giờ nhà hạ ấy.
Dường như đã mở cho người ta được con đường rộng rãi thênh thang, rồi cũng tự
ngăn lại không cho đi lên được nữa.
41
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
“Ngay như “cái lối chế tạo theo cỡ” hễ phát minh được cái máy gì thì liền chế
ra được ngàn muôn cái như thế ngay. Như thế đâu phải là không có ích lợi,
nhưng cái lối chế tạo quá máy móc ấy mà đem dùng về đường trí thức, tinh thần
thì nguy”…
…”Cái máy, nó làm việc thế cho mình tất cả, luôn về nghệ thuật nữa. Trướ kia
lúc chưa có máy móc người ta phải tự nghĩ lấy cách mà tiêu khiển: kẻ nào thích
âm nhạc thì tự mình đờn ca lấy, như muốn lưu lại hình ảnh của ai thì phải tự cầm
bút mà vẽ lấy. Ở xa thành thị nếu muốn nếm cái thú xem hát, thì hiệp hội an hem
nghĩ ra cách bày trò để mà diễn kịch. Nhờ vậy, nhờ sự bắt buộc mà đầu óc thẩm
mỹ của ta có cơ hội dùng đến và nhờ đó mà phát triển thêm lên. Ngày nay có
khác. Muốn gì được nấy, nhanh chóng dễ dàng. Muốn nghe đờn, nghe hát thì cứ
vặn ngay cái máy hát là có ngay những giọng véo von, tiếng đờn thánh thót nó
làm hộ cho mình. Muốn lưu lại hình ảnh của một người nào hay một cảnh vật nào
thì cứ mở ngay cái máy chớp ảnh là xong. Muốn đi xem hát thì cứ đi ngay vào
rạp hát. Cái máy làm việc thế cho mình tất cả, vừa tiện lợi vừa mau lẹ, thì cái
thần trí của mình cũng không cần tác dụng đến làm chi. Thần trí mà không tác
dụng, không hoạt động, không dùng đến tất nó phải ngu lờ đi, cái óc sáng tạo mỹ
thuật của ta ắt rồi cũng theo đó mà tiêu lần đi vậy”.
Kể cái hại của văn minh cơ giới về mặt đạo đức, giáo dục, chánh trị,… còn rất
nhiều không sao kể hết được trong một bài tiểu luận ngăn ngắn thế này. Bấy
nhiêu thôi thưởng cũng đủ chứng minh rằng: thấy lợi và tưởng là lợi thật, lợi một
cách tuyệt đối; thấy phải mà tưởng là phải thật, phải một cách tuyệt đối đến tranh
giành nhau vì ợl i, hại, phải, quấy, nên, hư, vinh, nhục đến tương tàn tương sát
nhau thì thật đau đớn vô cùng.
Kẻ chỉ thấy có cái lợi mà không để ý đến cái hại của cái lợi ấy, cũng như kẻ
chỉ thấy có cái hại mà không để ý đến cái lợi của cái hại ấy là người chưa thông
đạt sự lý.
Người Tây phương với ý thức thông thường cũng nhận thấy như thế, nên mới
có những câu tục ngữ như sau: “à quelque chose malheur est bon” (họa trung hữu
phúc), hoặc “chaque mé daille a son revers” (tấm huy chương nào cũng có bề trái
của nó). Á Đông cũng có câu chuyện “ Tái ông thất mã” của Liệt tử rất ngộ
nghĩnh mà trước đây tôi đã có lần thuật qua.
Như thế thì cái triết ly quân bình đâu phải là một việc mới lạ gì! Cũng đâu phải
đó là một thứ triết lý bi quan như có nhiều người đã bảo, người ta thường khuyên
ta phải lạc quan để mà sống, nhưng lạc quan của họ bảo đây, phải chăng là một
sự bịt mắt bít tai, dối mình dối người để đừng nhìn thấy những gì mình không
vừa lòng hạp ý. Không! Nó là một nhận thức khách quan về sự đời với một cặp
mắt lạnh lùng kia của tạo hóa vậy.
42
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Vậy ta phải có gan bôi bỏ những ý kiến chủ quan yêu ghét của mình đi, để
nhìn nhận sự đời y như nó xảy ra, chứ đừng có nhìn nó với cặp mắt của kẻ chỉ
mong mỏi cho sự vật trong đời phải xảy ra y như lòng sở nguyện của mình…
THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN
Sài thành ngày 22 tháng 5 năm 1960
B. CÁCH – NGÔN
◙
Cữu mạc đại ư dục đắc;
Họa mạc đại ư bất tri túc.
*
* *
Không có lỗi nào to bằng lòng muốn được;
Không có họa nào to bằng lòng không biết đủ.
LÃO TỬ
*
◙
◙
* *
Tri túc thường túc, đãi túc hà thời túc!
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn!
*
* *
Biết đủ thời đủ, đợi cho đủ thời biết chừng nào mới đủ;
Biết nhàn thời nhàn, đợi cho nhàn biết chừng nào mới nhàn.
*
* *
Hậu kỳ thân nhi thân tiên;
Ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
*
* *
Để mình ra sau mà mình lại đứng trước.
Bỏ mình ra ngoài mà mình được còn.
LÃO TỬ
43
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
*
◙
* *
Họa hề phúc chi sở ý;
Phúc hề họa hi sở phục.
Trong họa phúc thường mọc sẵn;
Trong phúc họa thường núp sẵn.
LÃO TỬ
*
◙
* *
Cứng quá thì gẫy;
Mềm quá thì oặt.
TUÂN BẤT NGHI
Ai có cái Phúc lạ thường,
Tất cũng có cái Họa lạ thường.
LIỆT NỮ TRUYỆN
*
◙
* *
Nhã quá, thì dễ bị lờn,
Nghiêm quá, thì không ai thân.
GIA NGỮ
*
◙
◙
* *
Khôn mà làm như ngu mới thật là khôn kín.
*
* *
“khát dị vi ẩm”.
Người khát dễ cho uống nước (đời loạn dễ làm nhân nghĩa).
TỤC NGỮ
*
◙
Chân thật giả quả ngôn;
Hư ngụy giả đa biện.
Chân thật thì ít lời;
Hư ngụy thì nhiều lời.
* *
*
◙
44
* *
thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu;
Dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp.
Mình là bực thông minh trí thức
Hơn người, hãy làm như kẻ ngu;
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Mình là kẻ sức mạnh kinh người,
Hãy làm như kẻ nhút nhát.
LÃO TỬ
*
◙
* *
À quelque chose, Malheur est bon.
(PROVERBE)
*
◙
* *
(họa trung hữu phúc)
Trong cái rủi có cái may.
TỤC NGỮ
*
* *
◙ Chân lý là sự tổng hợp hai đối cực, chứ không phải sự đề cao cái này để phủ
nhân cái kia.
Đông phương Đạo học cũng như Tây phương Khoa học cũng đều, riêng ra, cùng
sống trong ảo tưởng như nhau.
CARLO SUARÈSF
*
* *
◙ chỉ biết có cái hại mà chẳng biết đến cái lợi của cái hại ấy, cũng như chỉ biết
có cái lợi mà chẳng biết đến cái hại của cái lợi ấy, đó là chưa biết đến chỗ thật
biết vậy.
T.G
*
* *
◙ Thảy đều có hai cực đoan; giống nhau và khác nhau đồng có một ý nghĩa như
nhau; những cực đoan ngịch nhau, đồng có một bản thể như nhau, nhưng khác
độ; những cực đoan lại gặp nhau; tất cả những chân lý chỉ là những bán chân lý
mà thôi; tất cả những ngịch thuyết đều có thể dung hòa.
KYBALION
*
* *
◙ Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi; đều biết lành là lành, thì đã có cái
chẳng lành rồi.
LÃO TỬ
*
◙
* *
“Thái quá” như “bất cập” đều là dở cả.
TRUNG DUNG
45
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
*
◙
* *
Tấm huy chương nào cũng có bề trái của nó.
TỤC NGỮ TÂY PHƯƠNG
*
◙
* *
lửa bốc lên cao,
Nước chảy xuống thấp,
Thế mà lửa bao giờ cũng thua nước.
VĂN TRUNG TỬ
◙
* *
*
Phản động với một cái lầm vẫn lầm.
KRISNAMURTI
*
* *
◙
“Summum jus, summa injuria”
Quá công bình, quá bất công.
*
* *
◙
Ne quid nimis
Đừng có gì thái quá.
*
* *
◙
In vitium ducit culpae fuga
Sợ lầm lỗi làm sa vào lỗi khác.
Festina lente
Hãy mau lên mà chầm chậm.
*
* *
◙
Est modus in rebus
Việc gì cũng có mực thước.
*
* *
◙
Sở dĩ người ta đã biến một quốc gia thành một cõi Địa ngục là vì người
ta đã quá cố gắng biến nó thành một cõi thiên đàng.
F.HCELDERLIN
*
* *
46
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
◙ người không phải là một vị tiên thánh, cũng không phải là một con vật. Và, kẻ
nào muốn làm tiên thánh lại làm con vật.
PASCAL
*
* *
◙ Yêu và ghét, Thiện và Ác,… đều cần thiết cho đời người cả.
WILLIAM BLAKE
*
◙ Kẻ nói nghịch ta là thầy ta.
* *
B
◙ Chỗ toàn mãn của con người, không phải ở nơi quyền lực mà là do nơi sự hoàn
thiện của mình.
TAGORE
*
◙
◙
* *
Lo thắng người thì là loạn;
Lo thắng mình thì hòa bình.
*
* *
Tri nhơn giả Trí;
Tự tri giả Minh.
LÃO TỬ
Biết người là Trí
Biết mình là Sáng.
*
* *
◙
Hoa nở, không phải vì người mà nở.
Mà vì nó không thể không nở đặng.
*
* *
◙ Thiên hạ đều biết tìm cái mà mình không biết, mà chẳng ai biết tìm cái mà
mình đã biết; đều biết chê cái mà mình cho là không phải, mà chẳng ai biết tìm
cái mình cho là phải.
TRANG TỬ
*
* *
47
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
◙
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Tri vong thị phi, tâm chi thích dã.
Biết quên thị phi, tâm mình thông suốt vậy.
TRANG TỬ
*
* *
◙ Người hoàn toàn là người biết suy nghĩ bằng Tâm và yêu thương bằng Trí.
*
* *
◙ Những kẻ nào nói chỉ có mình là phải, là những người không nên tin cậ y sự
phán đoán của họ.
*
* *
◙ Biết Phải mà cho là Phải là không Phải rồi.
LÃO TỬ
*
* *
◙ Chính vì những mâu thuẫn của họ mà một nhân vật làm cho ta quan tâm đến
và chứng tỏ sự thành thực của họ.
Cest par ses cỏntadictions qu’un être nous intéresse et témoigne de sa sincérité.
ANDRÉ GIDE
*
* *
◙ Hễ còn nhìn sự vật với cặp mắt sai biệt (nhị nguyên) thì không giải thoát được.
Trọng yếu là đừng cho việc nao Thiện hay Ác cả.
LINSSEN
*
* *
◙ Chân lý, là biết tìm thấy được cái giả trong cái chân, và cái chân trong cái giả.
*
* *
◙ Niết Bàn, tức là Hư không. Hư Không, tức là không còn Thiện hay Ác nữa.
PHẬT NGÔN
*
◙
* *
Chánh kiến là xuất thế,
Tà kiến ấy thế gian.
Chánh tà đều phá hết.
Phật tánh hiện rõ rang.
PHÁP BỬU ĐÀN KINH
(Lục Tổ Huệ Năng)
48
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
C. NGỤ - NGÔN
I.
BỆNH QUÊN
Nước Tống, có người tới tuổi trưởng thành, khi không mắc phải bệnh quên.
Buổi sớm ai cho cái gì, buổi chiều đã quên. Ngày nay làm cái gì, ngày mai đã
quên. Ra đường quên cả đi; ở nhà quên cả ngồi. Những gì làm trước kia, bây
giờ quên hết. Bây giờ làm chi, sau này quên hết.
*
* *
Có ông thầy nước Lỗ (ám chỉ Khổng tử) đến xin trị giúp. Người nhà hứa sẽ
chia hai gia sản, nếu chữa hết.
Ông thầy nói: “bệnh quên này, dù cúng kiến, thuốc men, cũng không sao
chữa được. Vậy, ta thử hóa tâm tính, may ra cứu được chăng?
Nói xong, thấy bệnh nhân còn biết xin áo khi trần mình, xin cháo cơm lúc
bụng đói, xin đem ra ánh sáng lúc ở trong bóng tối, ông nói: “Bệnh này cứu
được, nhưng phương pháp rất mật nhiệm không truyền cho ai được cả”.
Ông bèn đóng ửa
c kín lại, để người bệnh và ông trong phòng mà thôi.
Không biết ông làm gì mà bảy ngày sau, bệnh ấy lại khỏi ngay.
Lạ thay, Khi người bệnh tỉnh trí như thường, thì lại nổi cơn giận giữ, rầy
mắng người nhà, cầm dáo đuổi theo ông thầy…
Người ta bắt lại, hỏi vì sao giận giữ như thế, thì người bệnh kia nói: “Hỡi
ơi, Lúc trước ta khoan khoái vui sướng là thế nào! Trời Đất có cùng không, ta
không cần biết. Bây giờ ta phải cố gắng mà nhớ lại nào những gì đã qua cách
mươi năm về trước, nào những việc được mất, vui buồn, phải quấy, thương
ghét… Nghĩ đến ngày nay, lại còn bận đến ngày mai. Ta chỉ e từ đây , có
muốn được một phút vô tâm hạnh phúc ngày xưa, liệu phải làm thế nào cho
được nữa.
*
* *
Tử Cống nghe câu chuyện, hỏi Đức Phu tử. Ngài nói: “Người hiểu sao nổi;
Hồi, nó có thể hiểu mà thôi”.
LIỆT TỬ
(bản dịch của N-D.Cần)
49
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
II. NƯỚC THU
Lúc nước thu dâng, trăm rạch đổ vào song to. Lòng song rộng cho đến đứng
bờ nọ ngó bờ kia không sao phân biệt được bò với ngựa.
Thấy vậy Hà Bá đắc ý cho cái đẹp trong thiên hạ chưa có ai hơn mình.
Thuận dòng theo hướng Đông đi tới biển Bắc, ngoảnh lại hướng Đông, không
thấy mé.
Hà thần than với Hải thần rằng: “Tục ngữ nói : kẻ biết ít, cho không ai bằng
mình. Lời nói ấy để nói tôi thì phải. Tôi thường nghe chê chỗ học của Trọng
Ni , nghe khinh lòng nghĩa của Bá Di mà tôi không tin. Nay tô i thấy chỗ vô
cùng của Ngài. Nếu tôi không đến thụ giáo với Ngài, thì nguy cho tôi, các nhà
đại phương ắt sẽ chê cười tôi”.
Hãi Thần nói: “Cùng ếch giếng không thể nói biển đặng: nó chỉ biết cái
hang nó mà thôi. Cùng con trùng mùaạ,h không thể nói tuyết đ ặng: nó chỉ
biết có một thời mà thôi. Cùng kẻ sĩ hẹp hòi không thể nói chuyện Đạo: họ bị
rang buộc trong giáo lý của họ mà thôi. Nay ngươi ra khỏi lòng song, thấy
biển cả mà biết xấu hổ. Vậy thì nói đại lý với ngươi được.
“Dưới trời, nước không đâu nhiều hơn biển. Đó là nơi muôn sóng chảy về,
không bao giờ ngưng mà không hề vơi. Rồi nước biển lại chảy qua ngả đông
mà không hề lưng, Xuân, Thu, mưa nắng không đổi nó, mà nó cũng không
hay. Hơn rạch sông không biết lượng số nào, mà ta chưa từng cậy đó là nhiều,
là vì tự xét, sánh với Trời Đất Âm Dương, trong trời đất ta chẳng khác nào
một viên đá nhỏ, một gốc cây nhỏ trong giải núi to. Đã rằng là ít, sao thấy
mình nhiều? Bốn biển, ở trong trời đất phải chăng chỉ là hang nhỏ ở trong
chầm lớn hay sao? Vạn vật, lấy số muôn mà nói thì người được có số một mà
thôi. Lấy chin châu là nơi lúa thóc sanh sản, thoàn xe thông hành mà sánh, thì
người cũng không qua số một. Người đối với vạn vật, khác nào một sợi lông
trong mình ngựa. Chỗ liên hiệp của ngũ đế, chỗ tranh giàn h của tam hoàng,
chỗ lo lắng của người nhân, chỗ nhọc nhằn của kẻ sĩ, rốt lại có chi: Bá Di từ
ngôi, lấy đó làm danh, Trọng Ni nói ra, gọi vậy là rộng. Mấy cái mà họ cho
rằng nhiều đó, khác nào ngươi thấy trước khi thấy biển”.
*
* *
Hà thần hỏi: “Vậy tôi cho Trời Đất là cực đại, cái lông là cực tiểu có được
không?”.
Hãi thần nói: “không được. Muôn vật biến chuyển không cùng, thời giờ đi
mãi không dừng, số phận dời đổi không thường, tiếp sau lien tiếp không thôi.
Ấy nên, đứng chỗ biết rộng đây mà xét việc xa gần thì thấy nhỏ không cho là
ít, thấy lớn không gọi là nhiều: đó là biết được chỗ biến không cùng. Luận qua
kim cổ, thì việc đã qua không ưu tư, việc đương thời không bận lòng: đó là
50
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
biết được chỗ không dừng của thời giờ. Xét việc lưng vơi, thì đặng không vui,
mất không buồn: đó là biết được chỗ thông thường của số phận. Thấy đặng
như vậy thì sống không mừng, chết không lo: đó là biết được chỗ trước sau
liên tiếp vậy. Chỗ biết của người không bằng chỗ không biết. Thủa sanh ra
không bằng thủa chưa sanh. Muốn lấy chỗ cực tiểu của mình mà cầu hiểu tận
chỗ cực đại, là mê loạn và là ngu xuẩn. Như thế, làm sao biết cái lông đủ để
làm mẫu của cái cực tiểu, làm sao biết trời đất đủ để làm mẫu của cái cực
đại?”
*
* *
Hà thần hỏi: “Luận giả trong đời đều nói: Một vật tán ra rất nhỏ thì thành ra
vô hình. Một vật tăng cho thật lớn thì ra vô cùng. Có thật vậy không?”
Hãi thần nói: “Tự nhỏ xem lớn, làm sao thấy rõ? Tinh là mọn mạy của nhỏ;
thô, là to tát của lớn. Tinh và thô đồng có trong mỗi vật. Vật vô hình không
phân chia đặng; vật vô cùng không hạn đinh đặng. Cái mà còn luận đặng, nói
đặng là cái thô của vật; cái mà ý xét đặng là cái tinh của vật. Còn cái mà lời
không thể luận, ý không thể xét là bởi nó không phải tinh, không phải thô.
Thế nên, bậc đại nhân hành động không gây hại cho người… Bậc đại nhơn
này: tước lộc của đời không đủ khuyến, hình phạt không đủ nhục, bởi họ biết
phải quấy không chỗ phân, lớn nhỏ không chỗ định. Nghe nói rằng : Người
Đạo thì lặng lẽ, kẻ chí đức thì không mong muốn được gì nữa cả, người đại
nhơn thì không có mình, vì họ đã hợp tất cả làm Một”.
* *
*
Hà thần hỏi: “Nhờ đâu mà phân biệt chỗ trong ngoài của vật? chỗ quý tiện
của vật, chỗ lớn nhỏ của vật?”
Hãi thần nói: “Lấy con mắt Đạo mà xem thì vật không có quý tiện. Lấy vật
mà xem thì vật có quý có tiện vì bởi vật nào cũng tự xem là quý, nên khi sánh
lại với người, thường cho vật khác là tiện. Lấy con mắt tục mà xem thì phân
quý tiện không tại nơi mình. Lấy con mắt sai biệt mà xem, thì nhân cái lớn
của nó mà cho là lớn thì vạn vật không cái gì là không lớn; nhân cái nhỏ của
nó mà cho là nhỏ thì vạn vật không cái gì là không nhỏ. Biết Trời Đất như hột
thóc, biết cái lông như hòn núi là biết rõ chỗ sai biệt rồi vậy. Lấy chỗ công ích
mà xem, nhân cái có ủca nó mà cho là có thì vạn vật khô ng gì là không có,
nhân cái không của nó mà cho là không thì vạn vật không gì là không không.
Lấy chỗ thuận nghịch mà xem thì người, trong vạn vật, cái chỗ thích của
người này, không còn là chỗ thích của người kia. Nghiêu và Kiệt có chỗ hạp,
có chỗ không h ạp. Xưa Nghiêu nhường ngôi mà làm vua; còn Khoái cũng
nhường ngôi mà phải mất. Thang Vũ tranh mà đặng ngôi; Bạch Công tranh
mà phải chết. Do đó mà xem, trông lễ tranh nhượng, trong hạnh phúc của
51
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
Nghiêu, Kiệt, quý tiện tùy thời, chưa lấy đâu làm mực thường được. Cái lương
lê dùng phá thành, không dùngấpl hang được: khí cụ khác nhau. Kỳ, Ký,
Hoa, Lưu, một ngày chạy nghìn dặm, mà không bắt chuột được như mèo: tài
năng khác nhau. Chim ụt ban đêm, mắt tỏ đến bắt rận được, mà ban ngày, hòn
núi sờ sờ không thấy đặng; tính khác nhau. Nên, muốn có Phải mà không có
Quấy, muốn có Trị mà không có Loạn là chưa rõ cái Lý của Trời Đất, cái Tình
của Vạn Vật. Ấy là mơ Trời mà không Đất, Âm mà không Dương đó. Muốn
phân hai lẽ tương phản đó làm hai vật có thật, thì nếu không phải là ngu thì là
điêu. Đế vương tranh nhượng, hễ sái thời nghịch tục thì gọi là “soán”; còn
nhằm thời thuận tục thì gọi là “nghĩa”. Hà thần này! Người hãy lẳng lặng mà
xét lại, ngươi sẽ rõ cái gốc của Quý, Tiện, của Lớn, Nhỏ.
*
* *
Hà thần nói: “Vậy t hì tôi phải làm gì bây giờ? Tôi phải đừng làm gì bây
giờ? Tôi phải từ, tôi phải nhận, tôi phải tới, tôi phải lui. Tôi phải tính sao đây?
Hãi thần nói: “Lấy con mắt Đạo mà xem thì không có chi gọi là Quý, chi
gọi là Tiện, chi gọi là Ít, chi gọi là Nhiều cả. Chỉ có Một mà thôi. Để cái chi ra
ngoài Đạo đều là lầm đó. Phải theo thời theo thuở. Phải nghiêm nghị như một
quốc quân không tư đức; tự nhiên như một địa thần không tư phúc. Muôn vật
một hạng, không ngắn, không dài. Đạo không chung thủy, vật có tử sanh:
không thường. Doanh hư, chung thủy nối nhau. Đó là nói cái phương của đại
nghĩa, luận cái lý của vạn vật. Mạng sống của vạn vật qua như ngựa chạy,
không động biến, không đổi dời. Hỏi: “Phải làm đi gì? Phải không làm đi gì.
“Có chi lạ: phải do đường biến chuyển của tạo hóa, phải theo thời theo buổi.
Có bao nhiêu đó mà thôi”.
* *
*
Hà thần hỏi: “Vậy chứ Đạo quý chỗ nào?”
Hãi thần nói: “người biết Đạo thì thông lý. Thông lý thì rõ quyền. Rõ quyền
thì không vật nào hại được. Người chí Đức vô lửa không nóng, xuống nước
không ngột. Lạnh, nóng không hại được, cầm thú không phạm đặng. Nói vậy,
chẳng phải là nói người chí đức không sợ mấy chỗ nguy hiểm đó, ấy là muốn
nói: người chí đức xét kỹ lúc lui tới nên lánh nguy, cẩn thận cử động nên khỏi
họa. Nên nói: “Trời ở trong, người ở ngoài. Đức ở nơi Trời.” Phải cho “lẽ
Trời” siêu xuất, hầu hành vi hợp với bổn nguyên.”
*
* *
Hà thần hỏi: “Sao gọi là Trời? Sao gọi là Người?”
Hãi thần nói: “Ngựa bò bốn cẳng, đó là Trời; ngựa ngậm hàm thiết, bò đeo
khoen nơi mũi, đó là người. Người không đặng ém Trời, nhân tạo không đặng
52
T.G - NGUYỄN DUY CẦN
MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG
hại thiên nhiên, hư ngụy không đặng phá chân thật. Phục hồi bản tánh, đó là
trở về Chân Lý.
TRANG TỬ
(Thu Thủy, đệ thập thất thiên)
(trích trong Trang Tử
NAM HOA KINH
Bản dịch của Nguyễn Duy Cần)
III. CÂY THIỆN ÁC
“Tạo thiên lập Địa, Chúa Trời tạo ra thuỷ tổ loài người là ông Adam và bà
Eve, và để hai người nơi vườn Thiên đàng (Eden). Nơi đó có đủ cây trái, hai
người được quyền ăn tất cả trừ trái cây của Cây Thiện ác. Nơi ông và bà sống
một đời sống hạnh phúc thần tiên, vô tư lự, sống trần truồng mà không biết hổ
thẹn , hòa với muôn loài trong một bầu không khí yêu thương và thông cảm.
Con rắn (tượng trưng Lý Trí) cám dỗ bà Eve: “Chúa nói gạt đấy! Ăn trái
Cây Thiện Ác, các người sẽ trở nên thông minh, và sẽ cũng như các vị thần
thánh hiểu biết rõ điều Thiện điều Ác. Bà Eve bị cám dỗ vì muốn có được óc
phân biện. Bà bẻ và ăn, lại đưa cho ông Adam ăn nữa. Bấy giờ cặp mắt họ mở
ra, sáng suốt, biết hổ thẹn, biết phân biệt Thiện Ác… Chúa hiện lên và quở
phạt, đuổi hai người ra khỏi vườn Thiên đàng… Từ đấy hai người cùng cả tộc
hệ bị đày vào đời sống tương đối, đầy tội lỗi, đau khổ và chết choc…
Thuật theo BIBLE
Bài này ngụ ý rất cao xa: người ta khi bắt đầu xa Đạo, nhận thức và chia
phân Thiện Ác, thì mất hẳn cõi thiên đàng của nội tâm và phải bị triền miên
đau khổ.
o o
o
Hai bài ngụ ngôn trên của Trang Tử cũng bàn về lẽ ấy: vượt lên trên cặ p
mâu thuẫn Thiện Ác thì mới mong “trở về” với Đạo.
T.G.
HẾT
53