« Home « Kết quả tìm kiếm

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG XÃ Ở NGHỆ AN


Tóm tắt Xem thử

- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG XÃ Ở NGHỆ AN.
- Đó là thời kỳ duyên khê.
- Báo cáo này chưa nói sự hình thành bản, mường của các dân tộc thiểu số ở địa bàn miền núi Nghệ An mà chỉ nói về sự hình thành làng xã của người Việt ở miền xuôi..
- Tìm hiểu các làng ở Nghệ An, tuy chưa đầy đủ và sâu sắc, chúng tôi thấy có các kiểu hình thành như sau:.
- Đi vào các làng xã ở Nghệ An, qua gia phả các dòng họ, chúng tôi chưa thấy dòng họ nào có đến 40 thế hệ.
- Nếu như họ Cao mà thủy tổ là Cao Lỗ có di duệ ở Nghệ An thì đến nay đã có trên dưới 80 thế hệ, nếu chúng ta cho mỗi thế hệ một thời gian từ 25 đến 30 năm.
- Nhưng rồi gia phả bỏ trống 12 đời, mãi đời thứ 13 mới có Hồ Liêm dời đến hương Đại Lại, nay là xã Hà Đông, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá làm con nuôi cho Tuyên phủ sứ Lê Huấn đổi thành họ Lê..
- PGS., Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An.
- Vốn là một Chánh đội trưởng của nhà Trần, sau khi khai khẩn ra làng Quỳnh, ông được lệnh vào trấn giữ cõi Nam, hy sinh trong chiến trận..
- Nói họ Hồ để thấy rằng lịch sử hình thành một làng bao giờ cũng có một người hay hai, ba người thấy mảnh đất có thể làm ăn sinh sống được, phong cảnh hữu tình, phong thuỷ tốt đẹp, đưa gia đình, họ hàng đến khai canh lập ấp, hoặc mộ những người đói nghèo, người phiêu bạt đến lập trại khai khẩn rồi sau lập làng.
- ở Quỳnh Lưu..
- Đó là một kiểu hình thành làng mà ta thường thấy trong lịch sử..
- Kiểu thứ hai: là người làm quan đứng đầu địa phương thấy địa phương mình trị nhậm đất đai còn hoang hoá nhiều, mộ dân tứ chiếng đến khai khẩn đất hoang lập làng như Tri châu Lý Nhật Quang vào thế kỷ thứ XI.
- Sử dụng chiến tù Chămpa để khai thác đất đai còn có Cương quốc công Nguyễn Xí và các con của ông như Nguyễn Sư Hồi, Nguyễn Bá Sương, Nguyễn Trọng Đạt,… Họ đã lập lên nhiều làng ở vùng Cửa Hội, Cửa Lò như các làng Vạn Lộc, Kim Ô, Mỹ Chiêm, Phù Ích, Bảo Trì, Long Trảo, Khánh Duệ,… Hai làng Vệ Chính (trước là Vệ Sở) và Long Giang (trước là Mộc Hoàn.
- Kiểu thứ ba: là chính sách lập đồn điền của nhà Lê trong buổi Lê sơ.
- Lên ngôi Hoàng đế một thời gian, với chính sách khuyến nông, Lê Thánh Tông hạ chiếu cho các công thần, đại thần, quan chức trong triều được đem gia đình vào Thanh Hoá, Nghệ An hoặc các nơi khác, chiêu dân lập ấp mở đồn điền, khẩn hoang cày cấy.
- Các nhà thế gia hào hữu tuỳ sức mình mà khai khẩn.
- Khi thành ruộng rồi thì khai số ruộng đưa lên bộ Hộ xin khai khẩn làm ruộng tư, như thế gọi là phép chiếm xạ”.
- Thắng trận trở về, ông được nhà vua phong tước hầu là Luyện Khê hầu và cử làm Phó sứ đồn điền coi việc khai khẩn đất đai từ Châu Hoá ra đến Nghệ An.
- Tộc đồn điền (đồn điền của họ Tạ) khai phá ra vùng Bút Điền - Lạc Sở (Diễn Cát).
- Ở Quỳnh Lưu, tại xã Quỳnh Thanh bây giờ cũng có người đến lập đồn điền và trang trại để khai khẩn như trại Cây Dã (trại Đồng Nghệ).
- Vậy hạ lệnh phân đồn điền cho các xã định làm thượng, trung, hạ ba bậc”.
- Những đồn điền đó sau đều là các làng xã.
- Các làng này, một số mang tên họ như:.
- Đến đây ta thấy ở Nghệ An có 3 dạng làng xét về mặt ruộng đất:.
- Đó là làng, ban đầu do một người đứng ra khai khẩn như vừa nói trên..
- Đó là làng của dân thuỷ cư, sống bằng nghề đánh bắt thuỷ sản.
- Tại Nam Đàn có các làng Tuần Lã (Khánh Sơn), Long Xuyên (Nam Cường), Lương Giai, Thanh Đàm (Nam Tân.
- Tại Hưng Nguyên có các làng: Thanh Liệt (Hưng Nhân), Nghĩa Sơn (Hưng Long), Xuân Nha (Hưng Nhân), Thanh Phong, Ngã Ba (Hưng Trung.
- Tại Quỳnh Lưu có các làng: Văn Thai (vốn là Vạn Thai ở xã Sơn Hải), Ngọc Huy (vốn là phường Thuỷ Cư Ngọc Để ở xã Mai Hùng), phường Trúc Võng ở xã Tiến Thuỷ, phường Mộng Ngư ở xã Quỳnh Hưng,….
- Những làng vạn, làng nổi này thường mượn hoặc thuê một mảnh đất của làng nào đó trên cạn ở ven sông để cúng lễ vui chơi trong dịp tết Nguyên Đán, dịp giỗ thần và hội họp khi có việc nộp thuế hoặc phải đi phu, đi lính,… Mảnh đất ấy gọi là Võng Nhi Cồn..
- Lúc đầu chỉ để cúng tế, hội họp và vui chơi, nhưng rồi có một số người nhất là người già xin làm một căn nhà nhỏ, ở lại, không xuống thuyền nữa.
- Kiểu thứ năm: là tách làng, biệt triện.
- Phải biệt triện vì có nhiều lý do..
- Biệt triện vì dân đông, lãnh thổ rộng..
- (3) An Hoà gồm các làng Quý Hòa, Bút Luyện, Vĩnh Yên Đông, Vĩnh Yên Tây và Tân An..
- hai thôn bên tả ngạn sông Thai là Bèo Tiến (tức Nhân Sơn) và Văn Phúc, nay là xã Quỳnh Hồng có hai thôn là Nhân Sơn và Văn Phúc, còn Nhân Huống nằm trong xã Quỳnh Diễn..
- Hai xã Quỳnh Nghĩa và Tiến Thủy hiện tại, trước đây là xã Phú Nghĩa gồm Phú Nghĩa Thượng và Phú Nghĩa Hạ thì đời Lê chỉ là một xã: xã Hoàn Nghĩa..
- Mãi cuối đời Hậu Lê, cư dân thêm đông, dân làng mới làm đơn xin quan trên cho biệt triện.
- Nay còn chòm Vân Úc, dân không hỗn cư, ruộng không hỗn canh, binh lương thuế cũng khó mà hỗn hợp, dân xin quan bản huyện cho được biệt triện để dễ làm việc”..
- Biệt triện vì mâu thuẫn nhau về quyền lợi.
- Nhưng sau vì vấn đề công điền công thổ của hai thôn và xã không rõ ràng, sinh ra xích mích nhau, cuối cùng Văn Ba xin biệt triện.
- Biệt triện có nghĩa là xin tách thành một làng riêng, có đồng triện (con dấu) riêng với lý trưởng ngũ hương riêng.
- Một bài vè nói về Văn Ba xin biệt triện có những câu:.
- Phen này biệt triện để yên dân làng..
- Rồi đây biệt triện lại hòa cùng nhau….
- Hai thôn vốn là một làng sau vì bất hoà mà biệt triện.
- Đó là 2 trong nhiều ví dụ về việc biệt triện, tách làng do mâu thuẫn, xích mích lẫn nhau..
- Kiểu thức sáu: là lập làng theo tổ chức của Nhà nước.
- Xưa kia Nghệ An là đất viễn trấn, xa kinh đô chưa được khai thác mấy, một số tiểu vùng còn gọi là ki mi (quản lý lỏng lẻo) nên mỗi khi ngoài Bắc ngoài Thanh có hạn hán, lụt lội, dịch tễ,… Nhà nước phong kiến thường di dân vào đây để lập trại khai khẩn đất đai còn hoang hoá.
- Trong đó có một số trang trại là của Nhà nước như điền trang Giang Lâm mà sau này là 2 xã Đào Viên và Hạnh Lâm (Diễn Châu), điền trang Tam Lễ mà nay là xã Quỳnh Tam,… Ấy là do Thượng tướng Trần Quang Khải.
- sự phân hoá phong kiến ngày càng trầm trọng.
- cuộc đàn áp, trả thù, lật đổ lẫn nhau ngày càng đẫm máu thì làn sóng người ở phía ngoài tràn vào xứ Nghệ, nhất là vùng trung du và vùng núi Nghệ An càng đông đảo hơn..
- Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy trong thời gian nói trên, không ít họ đã vào dắm dân ở Nghệ An, không theo tổ chức của Nhà nước, như 8 họ trong số 15 họ ở giáp Thổ Sơn xã Cát Ngạn (Thanh Chương) đã là người ở ngoài Bắc ngoài Thanh rồi.
- Những nơi khác, làng Đức Hậu ở Yên Thành có 7 họ trong số 21 họ, làng Phượng Kỷ ở Tân Kỳ có 8 họ trong số 22 họ, làng Tri Chỉ ở xã Nghĩa Đồng cũng thuộc Tân Kỳ có 6 họ trong số 12 họ, làng Tri Lễ ở huyện Anh Sơn có 10 họ trong số 24 họ,… Chính vì có sự dắm dân của các họ từ phía ngoài vào mà làng xã Nghệ An có thêm đơn vị giáp, thôn..
- Họ và một số người “phiêu tán” bị chính quyền Lê - Trịnh bắt về đây sống theo lối trại tập trung dưới sự quản thúc của chính quyền phong kiến địa phương.
- Hết hạn phải ở trại, nhiều người không về quê quán của mình nữa, tình nguyện ở lại trại sinh cơ lập nghiệp với người địa phương, trở thành 2 làng Bố Ân, Bố Đức trong xã Mục Đặc (có nghĩa là dốt nát, đói khổ) của huyện Nam Đàn.
- Viên quan huyện khôn ngoan đã chuyển một dấu phẩy từ chữ nọ sang chữ kia, Mục Đặc trở thành Tự Trì từ đó..
- Cái tên Hữu Biệt mà nay là xã Nam Giang (Nam Đàn) cũng có lý do của nó.
- Ngoài một số người bị giết, một số bị dồn đến vùng hẻo lánh dưới chân phía tây núi Đại Hải, đặt tên là Hữu Biệt (có phân biệt đối xử).
- Trở lại vấn đề hình thành làng xã theo tổ chức của Nhà nước, có lẽ chưa thời nào, rộng khắp mạnh mẽ như mấy chục năm vừa qua.
- Chỉ riêng Quỳnh Lưu đã thêm các xã:.
- Kiểu thứ bảy: là qua các cuộc cải cách hành chính, những lần điều chỉnh của Nhà nước..
- Chúng ta đều biết làng xã cổ truyền Việt Nam vốn bắt nguồn từ công xã nông thôn, ra đời vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và hình thành xã hội có giai cấp có Nhà nước vào khoảng thiên niên kỷ I trước CN.
- Đó là công xã nông thôn thuộc loại hình Á châu mà đặc trưng cơ bản của nó là toàn bộ ruộng đất thuộc quyền sở hữu công xã, công xã đem phân chia cho các gia đình nhỏ cày cấy.
- Tình trạng công điền công thổ ở các làng xã tồn tại dai dẳng thậm chí mãi đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Nghệ An.
- Vấn đề này chúng tôi đã đề cập trong một số bài viết iv.
- Từ thế kỷ X trở đi, trong quá trình hình thành và phát triển của chế độ phong kiến, các công xã nông thôn dần dần bị phong kiến hoá và trở thành các đơn vị xã hội - hành chính cơ sở của chính quyền phong kiến với tên gọi chung là xã và thôn..
- Đời Trần, có lúc gọi là hương, nay còn dấu vết là hương Tức Mặc ở Nam Định, hương Đại Lại ở Thanh Hoá, hương Cần Cung (vùng Trung Cần, Dương Liễu tại xã Nam Đàn), hương Bàu Đột (2 xã Quỳnh Lâm và Ngọc Sơn tại Quỳnh Lưu) ở Nghệ An.
- Nhưng theo An Nam chí lược của Lê Tắc, mục Quan làng, đời đời kế tập gọi là giáp.
- Năm 1242, triều Trần đặt xã có đại tư xã, tiểu tư xã cùng các chức xã chính, xã sử, xã giám, gọi chung là xã quan..
- Đến đời Lê, đơn vị hành chính cơ sở vẫn là xã, đứng đầu xã vẫn gọi là xã quan, xã lớn 3 người, xã vừa 2 người, xã nhỏ 1 người.
- đó là lúc đầu, đến đời Quang Thuận (1460 - 1469), đổi xã quan làm xã trưởng, xã sử, xã tư để xem xét việc làng, thu nộp thuế ruộng, thuế đinh, xét hỏi các vụ kiện cáo.
- Thôn lớn vẫn gọi là xã.
- Dù gọi là xã hay thôn (làng), đứng đầu vẫn gọi là lý trưởng và chỉ có một đồng triện.
- Như vậy qua cả một quá trình phát triển và biến đổi, làng xã cổ truyền Việt Nam hình thành từ cơ cấu công xã nông thôn chuyển hoá dần thành những đơn vị xã hội - hành chính cơ sở của chế độ phong kiến.
- Còn từng triều đại, làng xã cũng có bao thay đổi và hình thành thêm, thí dụ như ở Nam Đàn:.
- Xã Nam Hoa Đông (gồm sáu thôn không đồng triện là Đông Viên, Hoàng Cung, Dương Phổ Đông, Dương Phổ Tứ, Vạn Lộc, Quần Xá) thì sau xã Nam Hoa Đông không còn, 5 thôn đều có đồng triện, trong đó Quần Xá đổi thành Quảng Xá, Dương Phổ Tứ chỉ gọi là Dương Phổ, Dương Phổ Đông chỉ gọi là Phổ Đông, duy làng Hoàng Cung chưa rõ sao bị tàn lụi..
- Nhiều giáp, vạn, phường, sách sau thành thôn (làng), như tại Nam Đàn, tại tổng Lâm Thịnh, giáp Tính trở thành thôn Tính Lý, giáp Kính Kỵ trở thành thôn Cương Kỵ..
- Tại tổng Phù Long huyện Hưng Nguyên, Vạn Liệt trở thành thôn Thanh Liệt, Vạn Cồn trở thành thôn Nghĩa Sơn,… Tại huyện Nghĩa Đường cũ ở tổng Hạ Sưu, sách Thượng Sưu trở thành thôn Thượng Sưu, sách Hạ Sưu trở thành thôn Hạ Sưu,… Tại Quỳnh Lưu ở tổng Thanh Viên, phường Đồng Vực trở thành thôn Đồng Vực, phường Tứ chiếng Cẩm Trường trở thành thôn Cẩm Trương, phường Tứ chiếng Cồn Hào trở thành thôn Cồn Hào, sau đổi là Hào Sơn,….
- Trên bảy kiểu hình thành làng xã của người Việt từ trước cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, có thể giới thiệu thêm một số kiểu hình thành làng xã khác nữa như làng của những người có tội với nhà nước phong kiến như tội trộm cướp, tội chống đối,… Họ bị kết tội lưu, tội đồ rồi đày nơi viễn trấn, trấn địa, trấn nam này, lao động khổ sai tại một “trại” nào đó ở nơi hẻo lánh trong rừng núi.
- Hồ Quý Ly lên ngôi vua, bà theo anh là Trần Duy cùng 572 tuỳ tùng và gia nhân trong đó có 2 đại thần là Trần Quốc Trung và Nguyễn Thời Kính, rời Thăng Long vào vùng núi Cốc, núi Trà thuộc xã Bất Ngốc huyện La Giang nay là Đức Thọ, lập ấp chiêu dân khai khẩn đất hoang.
- Cùng với Trần Duy bà chiêu tập được hơn 3000 dân, khai hoang gần 4000 mẫu ruộng, chia thành 4 khu dân cư gọi là điếm.
- Đó là Lai Sơn, Hằng Nga, Ngũ Khê và Tùng Chinh, sau thêm 2 điếm mang tên 2 vị gia thần là Trung Phạm và Kính Kỵ..
- Sau cách mạng, các làng xã, tổng, huyện, phủ, tỉnh từ tháng 8/1945 đến đầu 1946 vẫn như từ tháng 8/1945 trở về trước.
- Từ đầu năm 1946, Nhà nước ta bắt đầu có sự cải cách hành chính..
- Bỏ cấp tổng lập lại cấp xã, mỗi xã độ 3, 4 làng, cá biệt mới có một xã một làng, mà xã một làng thường là xã cũ.
- Đó là thời gian đầu 1946 đến đầu 1949..
- Đầu 1949, lại nhập một số xã như vừa nói trên thành xã lớn.
- Song các làng trước Cách mạng vẫn còn đó, mặc dù có lúc nó là một hợp tác xã nông nghiệp hoặc 2, 3, 4 hợp tác xã nông nghiệp..
- Nói tóm lại, làng xã Nghệ An từ khi hình thành cho đến đầu thế kỷ XX, về mặt kinh tế trên mặt bằng nông nghiệp đã xuất hiện nhiều loại làng: có làng nông nghiệp kiêm thủ công nghiệp, có làng nông nghiệp kiêm buôn bán, có làng nông nghiệp kiêm học hành, có làng nông nghiệp kiêm cả thủ công nghiệp, cả buôn bán, cả nổi tiếng về học.
- hành đỗ đạt như các làng: Quỳnh Đôi ở Quỳnh Lưu.
- Trung Cần, Xuân Hồ, Xuân Liễu, Hoành Sơn ở Nam Đàn,… Ấy là chưa kể các làng đánh cá ở ven biển và trên sông.
- Còn việc hình thành, phát triển thêm các làng mới, xã mới thì từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, mạnh mẽ hơn nhiều, rộng khắp hơn nhiều.
- Có điều không chỉ làng nông nghiệp kiêm thủ công nghiệp, kiêm buôn bán,… mà nhiều làng đã thành thị tứ, thị trấn, hoặc ở trong thị xã, thành phố.
- Người dân không còn là nông dân thuần tuý mà đã trở thành thị dân làm dịch vụ buôn bán, ăn uống, sửa chữa các loại cơ khí, sản xuất hàng hoá,….
- iii Bia này đã đưa về Bảo tàng Nghệ An ở Vinh bảo quản..
- iv Xem Vài nét về công điền công thổ ở Nghệ An trước và trong thời gian 1930 - 1931,Về văn hoá xứ Nghệ, Tập I, NXB Nghệ An, 200