« Home « Kết quả tìm kiếm

CÔNG TÁC TRỊ THỦY VÀ THỦY LỢI TRONG CÁC LÀNG XÃ Ở THỪA THIÊN HUẾ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945)


Tóm tắt Xem thử

- CÔNG TÁC TRỊ THỦY VÀ THỦY LỢI TRONG CÁC LÀNG XÃ Ở THỪA THIÊN HUẾ.
- Tổ tiên ta từ xa xưa đã biết lợi dụng nước sông lên để đem nước vào đồng ruộng..
- Hệ thống thuỷ lợi nhằm ngăn ngừa nước lụt ở các sông lớn, đưa nước vào ruộng cao, làm cho bãi biển bồi lắng và hết mặn, liên lạc giữa các hệ thống sông lớn với nhau để khiến cho thế nước được quân bình..
- Thừa Thiên Huế là vùng đất hẹp, địa hình không bằng phẳng, các sông đều ngắn và dốc do đó nước lũ thường dâng rất nhanh và rút cũng nhanh, mùa mưa thường ngập úng dài ngày và mùa hạn thường nhiễm mặn.
- Triều Nguyễn (1802 - 1945) chưa hề đặt ra việc đắp đê hai bờ những sông lớn như ở miền bắc do đồng bằng như một dải chìa chân của dãy Trường Sơn nên sức nước chảy và lưu lượng nước vào mùa mưa lụt là rất lớn nên đê không thể chịu được.
- Để tránh tình trạng xâm thực của các lưỡi nước mặn vào mùa khô, triều Nguyễn cũng đã cho xây dựng các con đập như An Truyền, Dương Nỗ, Quy Lai ở Phú Vang, đập Phú Bài ở Hương Thủy.
- Trong các tập hợp luật lệ dưới triều Nguyễn như Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long.
- nhà nước nghiêm cấm đối với việc phá hoại các công trình trị thủy, thủy lợi, buộc phải bồi hoàn, làm lại hay phạt trượng, tiền đối với những hành động phá hoại và thưởng hậu cho những người có công.
- Tuy nhiên các công trình trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế dưới triều Nguyễn nếu không có sự tham gia của nhân dân các làng xã thì không bao giờ có thể hoàn thành, duy trì và phát huy hiệu quả được..
- Làng xã với việc xây dựng hệ thống các công trình trị thủy, thủy lợi.
- Hệ thống các công trình thuỷ lợi do nhà nước làm chưa thể đưa được nguồn nước đến tận các đồng ruộng.
- Nhà nước chỉ đầu tư xây dựng các công trình lớn, trọng yếu nhằm giữ và cung cấp nước cho toàn bộ đồng ruộng nhưng để đưa nước vào từng hộ dân thì làng xã phải tự tổ chức xây dựng hệ thống kênh mương đê đập ở địa phận thôn xã mình..
- Ở từng thời kỳ nhất định, tuỳ thuộc vào điều kiện địa phương mà các làng chủ động xin khơi đào các con sông (hói) nhỏ, chủ yếu là các mương máng để tiện việc đồng ruộng.
- Các hệ thống mương (kênh) chính (cấp I) chạy qua làng lại được chia thành các mương phụ (cấp II)..
- Trong các công trình của nhà nước đứng ra làm thì lao động của các làng xã vẫn chiếm đa số.
- Đối với các công trình tại địa phuơng, tùy mức độ công việc mà triều đình miễn binh dịch, lao dịch hoặc đưa binh đinh của làng về hợp lực làm như trường hợp đắp đê ở xã An Lưu năm Gia Long thứ 15, vua cho 3 hạng binh đinh rút về miễn công sưu 5 tháng để làm và khi công trình làm xong, làng xin cho 6 dân sở tại được miễn phu dịch hằng năm để giữ đê.
- dân ở các làng xã thấy rõ được lợi ích đem lại từ việc trị thủy thủy lợi nên họ chủ động, hăng hái tham gia, phối hợp cùng triều đình để công trình sớm hoàn thành.
- nguyện đem hết già trẻ gái trai đến đào sông đủ thấy được tinh thần và trách nhiệm của người dân làng xã xứ Huế với công tác trị thủy thủy lợi..
- Việc đào sông không thể tiến hành theo cá nhân mà trong từng làng, hoặc thậm chí liên làng, nhân dân hợp sức để cùng làm như trường hợp hai xã Lễ Môn và An Ninh (Lễ Môn thuộc Quảng Trị, An Ninh thuộc Quảng Đức), do “khe ngòi bị tắc, xin rút binh xã về để khơi đào” vi .
- Các làng tự đứng ra làm thuỷ lợi dưới sự chỉ huy của cai đội làng như ở làng Hiền Lương dưới thời Minh Mạng: Cai đội Nguyễn Lương Nhàn và Hoàng Văn Gia đã trực tiếp chỉ huy binh lính cùng nhân dân trong tổng đào con mương lớn từ trảng cát trắng, lấy nguồn nước trong dải ngầm dãy Trường Sơn.
- Đây là công trình thuỷ lợi có ý nghĩa lớn, đã dẫn nước về tưới cho cánh đồng của làng Hiền Lương và các làng lân cận vào mùa nắng, tiêu nước cho vùng trũng Bàu Sen, Máng Nước vào mùa lũ.
- Nó thực sự góp phần thúc đẩy nghề nông của nhân dân và làm thay đổi cảnh quan trong vùng vii.
- Vào đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XIX, Trần Đình Túc được cử giữ chức Dinh điền sứ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, ông đã cùng với cụ vệ nông Hưng Bình giang Lê Dõng hướng dẫn dân làng đắp đập sông Truồi để ngăn nước mặn, giữ nước ngọt, chủ động tưới tiêu hàng vạn mẫu ruộng, biến đồng ruộng một vụ thành ruộng hai vụ ở hai tổng An Nông và Lương Điền.
- Bằng kinh nghiệm cổ truyền, trí thông minh và tài sáng tạo, cụ Trần Đình Túc và Lê Dõng đã huy động nhân dân đắp thành công đập Truồi bằng cách sử dụng kỹ thuật uốn dòng, phương pháp phân dòng và kỹ thuật ngăn dòng có hiệu quả mà từ đó trở về trước chưa ai nghĩ ra.
- Hiện nay ở xứ Cồn Nổi giữa hai đập Cửa Khẩu Lớn và Cửa Khẩu Nhỏ (đập Truồi) còn miếu thờ ông Lê Dõng ở đó, hằng năm cứ vào ngày giỗ, ngày xuống đồng, lên đồng nhân dân đều tổ chức cúng lễ, dâng cơm mới..
- Bên cạnh các mương, hói tưới tiêu nước thì đê cũng được làng xã trực tiếp tiến hành đắp dưới sự chỉ đạo và theo dõi của chính quyền trung ương nhằm ngăn nạn nước.
- Chẳng hạn năm 1828 “xã Phú Bài Thừa Thiên có con đê vệ nông, vì nước lụt xói lở, dân xã ấy xin phép cho biền binh xã ấy về góp sức bồi đắp.
- Hay năm 1832, Minh Mạng thứ 13, dân hai xã Vĩnh Xương (Phong Điền) và Thủ Lễ (Quảng Điền) có địa thế gần nhau, xin hiệp lực bồi đắp bờ đê đập vệ nông dẫn nước vào ruộng vì lâu ngày bị hư lở x .
- Năm 1839 “dân xã Diên Trường phủ Thừa Thiên (thuộc huyện Phú Vang) xin đắp con đê nhỏ ngăn nước ở phía tây sông Phổ Lợi, chỗ tiếp với sông lớn” xi .
- Ngoài những đoạn đê công của nhà nước thì từng làng chủ động đắp những đoạn đê sung yếu thuộc địa phận làng khiến đồng ruộng không bị nước mặn xâm lấn.
- Năm 1824, “xã Thanh Hương (thuộc huyện Quảng Điền) phủ Thừa Thiên trước có đê ngăn nước mặn, lụt lâu ngày đê sụt, dân sở tại xin nhờ các thân biền binh lính quê ở làng được nghỉ để góp sức bồi đắp.
- Năm 1827 “xã Dương Nỗ (thuộc huyện Phú Vang) phủ Thừa Thiên có đê ngăn nước mặn bị nước lụt làm vỡ, dân xin miễn lao dịch để đắp cho lợi việc nông.
- Dưới thời Pháp thuộc, làng xã ở Thừa Thiên Huế vẫn tích cực chủ động tiến hành xây dựng các công trình thuỷ lợi địa phương khi mà nhà nước không còn quan tâm như thời kỳ trước nữa.
- Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước nên việc phát triển các công trình thủy lợi có nhiều khó khăn.
- Tính chất “dĩ nông vi bản” không còn, nên với bản chất bóc lột chính quyền thực dân không quan tâm tới việc phát triển thủy lợi ở đây..
- Các công trình thường phải rất cần thiết mới được tiến hành xây dựng như việc đắp đập Truồi, hệ thống thủy nông hỗn hợp trên sông Hương, đập ngăn mặn ở cửa biển Thuận An….
- Năm 1930, hương lý trong làng Bàn Môn bắt nhân dân đắp đê khai hoang hai mẫu ruộng ở đầm Cầu Hai, trả công rất rẻ mạt, với mỗi ngày công lao động trả một bơ (lon) gạo xv .
- Sự kiện này cho thấy nhà nước không còn quan tâm đặc biệt đến kinh tế nông nghiệp như giai đoạn độc lập (1802-1885) và làng xã tham gia xây dựng các công trình trị thủy với thái độ gượng ép chứ không phải là tinh thần tự nguyện như trước đó.
- Nhân dân ở Bàn Môn, Lộc An, Lộc Bổn, Thủy Tân (huyện Phú Vang và Phú Lộc) năm 1935 đã kết hợp với nhau đấu tranh quyết liệt yêu cầu chính quyền thực dân phong kiến phải tiến hành đắp đập Hà Trung ngăn mặn cứu đồng ruộng xvi.
- Khi ruộng đất đã được bảo vệ bởi đê điều, để tránh tình trạng thiếu nước, mỗi tổng, mỗi làng đã dùng hệ thống ngòi, lạch, máng để dẫn nước vào ruộng thuộc địa phận của mình.
- Nông dân đưa nước vào ruộng bằng cách: Nơi mặt nước không thấp hơn mặt ruộng mấy, nông dân dùng gầu kéo hay gầu sòng.
- Ngoài ra họ còn dùng xe đạp nước để đưa nước vào ruộng.
- Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhưng tính chủ động và đoàn kết luôn được người dân phát huy, bởi công việc đào các kênh mương, đắp đê kè đập liên quan trực tiếp tới lợi ích của bản thân những người dân, do vậy không cần đợi có chỉ dụ của triều đình mà họ đã tự hoàn chỉnh dần hệ thống thuỷ lợi cấp cơ sở, để bảo vệ quyền lợi không chỉ bản thân mỗi cá nhân gia đình mà còn là của cả cộng đồng..
- Làng xã với việc duy tu và quản lý hệ thống các công trình thủy lợi.
- Việc quản lý các công trình thuỷ lợi được làng xã rất quan tâm.
- Hầu như trong tất cả các bản hương ước được viết trong giai đoạn 1802 - 1945 và trước đó xviii đều quy định rất rõ về việc đắp đê phòng chống lụt, hộ đê, coi sóc, kiểm tra các tuyến đê trong và các công trình dẫn thuỷ nhập điền trong làng..
- Trong Điều lệ xã Đông Xuyên huyện Quảng Điền năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) ở điều khoản 12 và 13 nghiêm cấm thả trâu bò dẫm đạp bờ đập, chặt phá tre ở hai bên bờ đê ở xứ Miếu Đồng trong xã.
- Khi vào dịp canh tác thì chỉ cho trâu bò đi một lần còn ngày thường thì thì cấm tuyệt đối.
- ngoài ra còn thu thêm tiền hai quan để thưởng cho người phát hiện và bắt được quả tang.
- Khi đồng ruộng đã được gieo cấy xong thì trâu bò phải “thả đến nơi hoang nhàn để chăn đón, không được cho trâu bò ăn trên đường bờ ruộng, nếu ai bắt được kẻ phạm phải điều ấy thì người có trâu bò bị phạt một tiền, trước hết là thưởng cho người bắt”, điều này được quy định cụ thể trong Điều lệ xã An Gia năm Tự Đức thứ 35 (Điều khoản 20)..
- Hương ước làng Phù Bài cho biết năm Minh Mạng thứ 12 (1831) làng có đơn xin huyện cho phép cấm những người đánh cá, nuôi vịt, trâu bò không được đi qua các bờ đê đập thủy lợi để bảo vệ khỏi bị sụt lở.
- Nếu ai không tuân thì phải trịu trách nhiệm.
- răn từ nay hai bên bờ sông và các rạch lớn nhỏ đến kỳ hạn hán nên được đưa nước vào ruộng để cứu lúa nhưng đến tháng 7 thì tất cả phải đắp lại để khỏi nước lụt sạt lở.
- Nếu ai không tuân thì phải chịu trách nhiệm xx.
- Theo lời các cụ già kể lại thì hàng năm các mương ngòi trong làng trước khi gieo một tháng đều được tiến hành nạo vét định kỳ và bất kỳ hộ gia đình nào cũng tham gia, nếu có một mẫu ruộng thì phải có 2 người, 3 sào đến 5 sào thì phải có 1 người tham gia làm đường đê, vét kênh mương ở khu vực đồng ruộng lân cận ruộng nhà mình.
- Trước khi gieo, làng cắm một cây nêu ở đầu làng, cột 3 cái roi trên đó, theo đó người dân hiểu được là không được đưa trâu bò ra phá, phải đi cắt cỏ về trữ sẵn trong nhà cho trâu bò ăn.
- Riêng đối với đập Truồi - công trình quan trọng nhất của làng thì quy định hàng năm mỗi tráng đinh phải làm nghĩa vụ góp một gánh bổi để đắp đập lại ngăn mặn giữ nước.
- Nếu đồng ruộng thừa nước thì tháo mở con đè ra, ngược lại thì nắp thêm con đè và đổ thêm bổi đất, mùa lũ thì xả đập để tránh nạn lụt.
- Về việc coi sóc tu bổ hệ thống thủy lợi của từng làng hằng năm đều được chú ý chỉnh trang, trách nhiệm giao cụ thể cho từng người.
- Quy định “các vị viên nhân trong xã, ai là người canh tác ruộng vụ thu thì phải chịu trách nhiệm đào mương ở phần ruộng mình.
- cày cấy mà phải cho người khác mượn ruộng công ấy thì giao phần mương ấy cho người mướn phải khai quật.
- Bản xã thu lại ruộng ấy cho người khác mượn để họ khai quật đoạn mương ấy.
- Trong giai đoạn 1885 - 1945, làng xã vẫn tham gia tích cực vào việc quản lý hệ thống thuỷ lợi.
- Khoán ước xã Phong Lai ngày 1 tháng 2 năm Thành Thái thứ 13 nghiêm cấm việc đi tắt làm sụt lở dãy đê quai để bảo hộ nhà cửa và phòng ngừa nước lụt nếu trái phạt tiền 3 quan và thu thêm 1 quan nữa để thưởng cho người phát giác.
- Nếu để cho trâu bò dẫm đạp thì phạt tiền 10 quan và thu thêm 3 quan để thưởng cho người bắt được.
- Hàng năm vào hạ tuần tháng 7 tri hương đến khám xét từng nơi, nếu nơi nào cây cỏ xanh tốt thì xuất tiền 5 quan để thưởng cho người có công.
- Nếu lý dịch vì tình mà cho người ta làm bậy, khi sự việc bị phát giác thì bị bãi dịch ngay.
- Người canh giữ sẽ bị thay nếu để cho trâu bò qua lại dẫm đạp hoặc người đào bới trên bờ đê ngăn (Điều lệ xã Dã Lê Thượng, khoản 14)..
- Việc xây dựng nhà ở nơi quan yếu, cạnh đê đập, bất kể quan viên, lính tráng, già lão hay nhân dân thì đều phải trình lên, lý trưởng hội đồng với hương chức xem xét được hay không.
- Hương ước Giáp Chánh xã Thanh Thuỷ (Thanh Thuỷ Chánh, huyện Hương Thuỷ) ngày 20 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 17 nghiêm cấm việc khai phá trồng trọt ở bờ sông lớn nhỏ, những chỗ đựng nước vào ruộng, dùng đường nước ngầm.
- Nếu ai làm trái phạt tiền 10 quan, thưởng cho người bắt được 5 quan (khoản 15).
- Đối với các đường ngang dọc trên ruộng vào lúc lúa đã thành hàng sắp chín, nhất thiết không được đánh cá, bờ đê và bờ sông ở trong vùng đồng ruộng không được thả trâu qua lại tụ họp thành bầy.
- Bộ máy hành chính làng xã, quản lý cao nhất là lý trưởng hay chánh lý, dưới có ngũ hương trong đó hương mục chịu trách nhiệm trong việc quản lý đê đập, đường sá, cầu cống, huy động nhân công để tiến hành xây dựng các công trình trị thủy, thủy lợi, đôn đốc, đốc thúc công việc hàng năm.
- Ngoài ra hương kiểm có nhiệm vụ tuân phòng canh giữ trật tự trị an trong làng xóm, báo động khi có nguy cơ sạt lở đê điều, phòng chống lụt bão… Trong các làng xã xứ Huế có xây dựng điếm canh, cử tuần đinh canh.
- phòng, thường xuyên đi kiểm tra những công trình công cộng trong đó có hệ thống thủy nông để bảo vệ trật tự xã hội và lợi ích chung của cộng đồng..
- Công tác trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế dưới triều Nguyễn (1802 - 1945) đã đạt được những thành tựu to lớn làm thay đổi bộ mặt kinh tế, xã hội cũng như cảnh quan môi trường ở chốn kinh đô.
- Để có được kết quả đó, trước hết phải thấy được chính sách của các vị vua Nguyễn và vai trò trực tiếp quan trọng của từng người dân trong các làng xã Thừa Thiên Huế trong công cuộc trị thủy, thủy lợi đầy khó khăn vất vả ở vùng đất nắng lắm, mưa nhiều này.
- Các công trình trị thủy và thủy lợi ở cấp độ làng xã có tác dụng lớn đối với việc sản xuất nông nghiệp cũng như phục vụ cuộc sống, cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt, cho đồng ruộng, thuận lợi giao thông đi lại… Người dân làng xã Thừa Thiên Huế trong quá trình phát triển của mình không chỉ đơn thuần bị thiên nhiên chi phối mà còn chi phối trở lại thiên nhiên để làm lợi cho cuộc sống.
- Quá trình trị thủy, thủy lợi làm cho quan hệ giữa làng xã và nhà nước ngày càng trở lên gần gũi, có sự qua lại tương tác lẫn nhau, cùng xây dựng, quản lý và phát triển nguồn lợi nước.
- Làng xã là đối tượng trực tiếp và đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng thủy lợi.
- Đứng trước yêu cầu trị thủy, người nông dân thấy rõ được vai trò, ý thức, trách nhiệm của mình dù cho đó là công trình của nhà nước hay của làng xã.
- Công tác trị thủy, thủy lợi như một sợi dây cố kết người dân lại với nhau bởi “nhà cửa ruộng vườn của cả làng bị ngập lụt thì nhà cửa ruộng vườn của mỗi người không thể không bị ngập lụt.
- Thông qua việc kết hợp cùng nhau làm việc, tính cộng đồng làng xã ngày càng được phát huy cao độ, kinh tế đảm bảo là điều kiện đầu tiên quyết định các công việc khác, góp phần bảo lưu các giá trị vật chất và tinh thần của làng xã qua các thời kỳ lịch sử..
- Ngày nay, lũ lụt vẫn là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân.
- Để góp phần phòng chống và giảm thiểu những nguy cơ từ lũ lụt gây ra cần phát huy hơn nữa sự kết hợp giữa nhà nước và nhân dân cùng làm, làm cho người dân thấy được quyền lợi và trách nhiệm của họ đối việc trị thủy, thủy lợi ở bản thân mỗi làng, liên làng và trong cả nước.
- Việc nhận thức và thấy được vai trò cũng như tác động to lớn của làng xã trong công cuộc trị thủy không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà nó thực sự có ý nghĩa trong hiện tại và tương lai ở cả nước nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng trong vấn nạn lũ lụt hàng năm..
- ii Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục, 2004, tr 43..
- iii Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục, 2004, tr 126..
- iv Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 35, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976, tr18..
- v Ủy ban phiên dịch sử liệu viện Đại học Huế, Mục lục châu bản triều Nguyễn, Bản thảo viết tay, Lưu tại thư viện trường Đại học Khoa Học Huế, triều Minh Mạng, tập 54, tr 41 - 43..
- vi Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập II,Nxb Giáo dục, 2004, tr 126..
- ix Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập II,Nxb Giáo dục, 2004, tr 785..
- x Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí - Thừa Thiên phủ, tập thượng, Nha văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1961, tr 133..
- xi Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập V,Nxb Giáo dục, 2004, tr 539..
- xii Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập II,Nxb Giáo dục, 2004, tr 400..
- xiii Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí - Thừa Thiên phủ, tập thượng, Nha văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1961, tr 133..
- xiv Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập II,Nxb Giáo dục, 2004, tr 597..
- xv Nguyễn Quang Trung Tiến (2006), “Quá trình tụ cư lập nghiệp và các hoạt động yêu nước, chống Pháp ở làng Bàn Môn trước năm 1945”, Kỷ yếu hội thảo: Quê hương và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hoàng Đức Trạch (1891-1952) và Lê Bá Dị (1901-1978), Hội khoa học lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế - Ban liên lạc đồng hương huyện Phú Lộc tại Tp Hồ CHí Minh, Huế tháng 11/2006, tr 23 và tr 51..
- xvii Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn, tr 123..
- xviii Những hương ước, khoán lệ được trích dẫn trong báo cáo được trích từ: Tập tài liệu hương ước Thừa Thiên Huế,