« Home « Kết quả tìm kiếm

Vấn đề bất bình đẳng giới trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ từ góc nhìn văn hóa


Tóm tắt Xem thử

- Vấn đề bất bình đẳng giới trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ từ góc nhìn văn hóa.
- Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được đánh giá là đỉnh cao của thể loại truyền kỳ trong văn học trung đại Việt Nam.
- Tác phẩm đã cho người đọc thấy được nhiều biểu hiện cùng hậu quả của sự bất bình đẳng giới trong xã hội phong kiến đương thời mà người phụ nữ phải gánh chịu, góp phần làm tăng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cho tập truyện.
- Dù chưa nhận ra được sự tồn tại của vấn đề bất bình đẳng giới cùng căn nguyên của nó trong xã hội phong kiến nhưng qua những đóng góp lớn về nội dung và nghệ thuật, Truyền kỳ mạn lục vẫn xứng đáng là.
- Từ khóa: Bất bình đẳng giới, Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ, góc nhìn văn hóa..
- Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một “tập đại thành”, “áng thiên cổ kỳ bút”, tác phẩm truyền kỳ tiêu biểu trong thành tựu văn xuôi chữ Hán Việt Nam thời trung đại.
- Từ lâu, nhiều nhà nghiên cứu, học giả trong và ngoài nước đã quan tâm khai thác giá trị của tác phẩm này ở phương diện đặc điểm thể loại, hình tượng nhân vật, hệ thống chủ đề, thi pháp, nhất là nghiên cứu tác phẩm trong mối tương quan với truyền kỳ Đông Á cũng như với một số tác phẩm truyền kỳ trung đại Việt Nam.
- giới là một trong những vấn đề nổi bật, đáng lưu tâm.
- Nghiên cứu vấn đề bất bình đẳng giới trong Truyền kỳ mạn lục từ góc nhìn văn hóa là đặt tác phẩm trong bầu khí quyển của môi trường thời trung đại nhằm mô tả và lý giải những biểu hiện bất bình đẳng giới dựa trên những căn nguyên, cơ tầng văn hóa đã tác động, chi phối, quy định đến các yếu tố trong cấu trúc, thi pháp của tác phẩm.
- lại là một kiến tạo xã hội.
- biểu hiện ra là những đặc điểm về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, cách ăn mặc,… của mỗi giới cũng như môi trường (không gian, thời gian) mà giới đó tồn tại, hoạt động.
- những diễn ngôn của nam giới, là trò chơi ngụy tạo, mà ở đó vai trò của đàn ông được đẩy lên thành trung tâm, còn phụ nữ bị đẩy xuống làm thứ yếu, trở thành cái khác, cái phụ thuộc.
- Những quan niệm giới, đặc điểm giới, biểu hiện bất bình đẳng giới, cho đến tiếng nói đòi bình quyền giới có lúc được phát ngôn trực tiếp, có khi ẩn tàng kín đáo qua từng hình tượng, biểu tượng và ngôn ngữ nghệ thuật.
- Trên cả phương diện lý thuyết lẫn ứng dụng, gắn liền với trào lưu nữ quyền đầu thế kỷ XX, vấn đề giới (nhất là những biểu hiện bất bình đẳng giới) ngày càng được nghiên cứu sâu rộng ở nhiều quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam.
- BIỂU HIỆN VÀ CĂN NGUYÊN BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.
- Khảo sát 20 thiên truyện trong tập Truyền kỳ mạn lục, 8 chúng tôi nhận thấy vấn đề bất bình đẳng giới được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác.
- nhau, mà phía bị khinh thị, chịu thiệt thòi chính là ở giới nữ..
- 8 Chỉ với vài dòng kể ngắn gọn đã cho ta thấy biểu hiện bất bình đẳng giới được thể hiện ngay ở mong muốn sinh được con trai hơn là con gái, ở quan niệm con trai mới là người nối dõi tông đường.
- Đó rõ ràng là thái độ kỳ thị giới tính, quan niệm trọng nam khinh nữ.
- Điều này xuất phát, chịu sự chi phối từ trong tư tưởng của học thuyết Nho giáo như: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (Một nam cũng được xem là có, mười nữ cũng xem như không), “Nữ nhi ngoại tộc” (con gái ở ngoài dòng họ), không sinh được con (nhất là con trai để nối dõi) là một trong những tội đại bất hiếu.
- 9 Những quan niệm bất bình đẳng giới này vốn đã “Thâm căn cố đế” trong đời sống của xã hội phong kiến và vẫn còn là vấn đề thời sự trong xã hội ngày nay.
- Đọc Truyền kỳ mạn lục, chúng ta nhận thấy những người con, người vợ thường bị trao truyền quyền lực quản lý, sở hữu từ tay cha mẹ sang tay chồng hay vào tay một thế lực đàn ông nào khác trong xã hội.
- Vũ Nương và Nhị Khanh, một đời hết cung phụng cha mẹ lại lo gánh vác giang sơn nhà chồng cho đến lúc chết (Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện người nghĩa phụ.
- Đào thị vốn là cung nhân thời Trần.
- Lệ Nương đang sống một cuộc sống yên bình cùng hôn ước với Phật Sinh sắp được thực hiện thì lại bị bắt vào cung (Chuyện Lệ Nương).
- Hay như Túy Tiêu chỉ là một con hát trong tư gia của quan Trần soái Lạng Giang Nguyễn Trung Ngạn.
- Những người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục họ còn gặp gỡ nhau ở điểm chung thiệt thòi là không có cơ hội học tập hay tham gia vào bộ máy chính quyền nhà nước một cách bình đẳng như nam giới.
- được phong sau khi họ đã mất, nhờ vào đức hạnh khi sống.
- Cùng với đó là không gian để các nhân vật nữ tồn tại, hoạt động nổi bật là kiểu không gian nhỏ hẹp, khép kín, hoang phế.
- hai nàng tinh hoa Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương sống trong dinh cơ cũ đã bỏ hoang của quan Thái sư triều Trần (Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây).
- hay như Nhị Khanh (Chuyện cây gạo), ngay cả khi đã mất cũng không được mai táng tử tế, quan tài của nàng chỉ đặt trong một túp nhà tranh bỏ hoang ngoài đồng, “dây vôi dây bìm leo đầy lên vách và lên mái”.
- 8 Căn nguyên của sự bất bình đẳng này cũng xuất phát từ trong quan niệm của Nho giáo phong kiến, khi người con trai được đánh giá là bậc quân tử, có trách nhiệm lớn lao với gia đình, dòng tộc, đất nước thì phụ nữ lại bị xem là.
- 9 Trong loại hình nhân vật siêu nhiên bước ra từ những trang văn của Truyền kỳ mạn lục, chúng ta còn dễ dàng nhận ra số lượng lớn các nhân vật là yêu nữ, ma nữ.
- 3 Đây là những nhân.
- nhưng lại đối lập với bản chất, tính cách bên trong, như chuyên quyến rũ đàn ông để hấp thụ dương khí, hoặc làm những điều tác oai tác quái, quấy nhiễu dân chúng.
- Nếu bóc tách, bỏ đi lớp vỏ kỳ ảo, ta còn thấy ẩn sau loại nhân vật này là cái nhìn không mấy thiện cảm đối với phụ nữ, rằng phụ nữ là đối tượng thường gây ra những điều xui xẻo, tai ương, hệ lụy đối với nam giới.
- và trái với lẽ thông thường của một vị sư tu hành, vì không vượt qua được cám dỗ sắc dục trước Hàn Than mà sư Vô Kỷ đã phạm vào ngũ giới (năm điều cấm kỵ) của nhà Phật (Chuyện nghiệp oan của Đào thị).
- Có thể nói, từ trong quan niệm âm dương thời cổ đại, phụ nữ đã bị xếp vào cực âm (xấu) trong mối tương quan với đàn ông là cực dương (tốt).
- Đến chế độ phong kiến, giới cầm quyền nói riêng cũng như xã hội nói chung lại có cái nhìn kì thị với nữ sắc, coi sắc đẹp phụ nữ là nguồn căn của tội lỗi.
- Trong khi đó, nguyên nhân sâu xa lại xuất phát từ chính hiện thực của chế độ phong kiến đương thời, đối lập với việc củng cố địa vị của nam giới, nhà nước đã không có những cơ chế thực sự nghiêm ngặt, bình đẳng nhằm bảo vệ cho người phụ nữ (nhất là những người phụ nữ có nhan sắc, tài hoa) được an toàn, dẫn đến những bi kịch cho chính bản thân họ và.
- những tai ương, vạ lây cho người thân hay những người xung quanh, khiến họ bị xem là hiện thân cho những điều không tốt đẹp, cần phải xa lánh.
- 4 Biểu hiện bất bình đẳng giới trong Truyền kỳ mạn lục thể hiện tập trung và nổi bật nhất là ở quan hệ hôn nhân - vợ chồng.
- Hôn nhân bình đẳng và đúng nghĩa tiến bộ phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu cá nhân đến từ cả hai phía nam - nữ dành cho nhau.
- Đọc Truyền kỳ.
- mạn lục, các cuộc hôn nhân giữa những người phàm trần, có xuất phát điểm là sự cảm mến của cả đôi lứa, được xã hội thừa nhận chỉ xuất hiện duy nhất trong tác phẩm Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, giữa Trọng Quỳ và.
- Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”.
- 8 Qua đó cho thấy, trong tình yêu nam nữ, sự chủ động thường xuất phát từ phía người con trai và quyền quyết định đi đến hôn nhân lại là chuyện của cha mẹ, hai bên gia đình, dòng tộc.
- là Hán Anh (Chuyện gã Trà đồng giáng sinh) trở thành vợ của Dương Thiên Tích vì ý nguyện của cha muốn đền báo công ơn đối với Dương công: “Ngày xưa, tôi từng được chịu ơn dầy của Dương công, không biết lấy gì đền báo.
- Có đứa con gái là Hán Anh, vậy xin hiến cậu để hầu hạ chăn gối”.
- 8 là nàng Túy Tiêu (Chuyện nàng Túy Tiêu), vốn là tặng phẩm mà Nguyễn Trung Ngạn dành cho chàng Dư Nhuận Chi:.
- “Cuối đời Thiệu Phong nhà Trần, Dư nhân có việc, vào yết kiến quan Trần soái Lạng Giang là.
- Trong bọn con hát có ả Túy Tiêu là người rất xinh đẹp.
- Trong quan hệ vợ chồng, vấn đề bất bình đẳng giới lại thể hiện trước hết ở sự phân công trách nhiệm và hưởng thụ các quyền lợi không.
- Trong cuộc sống gia đình, bằng những mỹ từ “thiên tính”, “thiên chức” đầy ngụy biện, là những kiến tạo xã hội mang tính chủ ý của nam giới dành cho nữ giới, người vợ thường phải gánh vác mọi công việc gia đình, điều công bằng mà nói phải có sự chung tay san sẻ của cả người chồng.
- Tác phẩm Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu là một minh chứng điển hình: Trọng Quỳ suốt ngày chỉ biết chơi bời lêu lổng, cờ bạc để một mình vợ là Nhị Khanh lo mọi việc trong gia đình.
- “Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với họ hàng rất hòa mục và thờ chồng rất cung thuận, người ta đều khen là người nội trợ hiền”.
- 8 Nỗi ám ảnh lớn nhất và cũng là vấn đề sống còn trong cuộc đời người phụ nữ, người vợ đó là trinh tiết.
- Bởi vậy, dù mới chỉ bị nghi oan là thất tiết với chồng, Vũ Nương đã phải kết thúc cuộc đời đầy bi kịch của mình bằng bước đường cùng trầm mình xuống bến sông Hoàng Giang tự vẫn (Chuyện người con gái Nam Xương).
- Hay như Lệ Nương, với Phật Sinh mới chỉ là hôn ước, nhưng nàng đã sẵn sàng quyên sinh để thủ tiết với chàng, không chịu nhơ khi bị rơi vào tay giặc Minh (Chuyện Lệ Nương)..
- 9 Nó như những chiếc vòng kim cô, những sợi dây trói buộc người phụ nữ, không đơn giản là nhằm ổn định trật tự xã hội nói chung, mà sâu xa hơn là nhằm bảo vệ, bồi đắp thêm cho quyền lợi của nam giới, nhất là giới cầm quyền quý tộc, quan lại..
- Từ những biểu hiện bất bình đẳng giới trong quan niệm, ứng xử giữa con người với con người.
- Và hệ quả là họ phải chịu rất nhiều bị kịch..
- Nhất là khi có những biến cố lịch sử - xã hội xảy ra, như chiến tranh, binh biến thì người chịu thiệt thòi dai dẳng và lớn nhất không ai khác lại là người phụ nữ (Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương).
- Điều đáng nói là ở lâu trong sự bó buộc, kìm hãm, trong cái khổ, người phụ nữ dần có tâm lý tự ti, phụ thuộc, đánh mất niềm tin vào bản thân mình.
- là để được nương nhờ: “Chi bằng bạn lành kén lựa, duyên mới vương se, lấp những lời giăng gió cợt trêu, nương dưới bóng tùng quân cao cả.
- 8 Hay trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương từng cảm thấy hạnh phúc vì được vào cửa nhà giàu, xuất giá cũng chỉ.
- để mong được nương tựa vào chồng: “Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía.
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất”.
- Họ thản nhiên bị bắt, bị cướp vào tay các thế lực cầm quyền, xấu xa mà những người thấp cổ bé họng như họ không cách nào có thể can thiệp được, chỉ còn biết ôm sầu, nuốt hận.
- Bấy giờ có quan Trụ quốc họ Thân thầm đi chơi phố, trông thấy Túy Tiêu đẹp, bắt cướp đem về làm của mình.
- Sinh làm đơn kiện tận triều đình, nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn, các tòa các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử.
- 8 Hay như Lệ Nương, hết bị bắt vào trong cung lại bị rơi vào tay giặc Minh, cuối cùng phải tự vẫn để thủ tiết với Phật Sinh (Chuyện Lệ Nương)....
- Điều đáng buồn là ngay trong quan hệ vợ chồng thân thiết, người phụ nữ lại bị chính người chồng của mình bạo hành, ruồng bỏ, phụ bạc, bán đổi, đẩy người vợ đến bước đường cùng phải chết thảm.
- Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương) lại bị chồng mắng nhiếc, nghi oan là thất tiết, chỉ còn cách gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang để minh oan.
- Dù có hội tụ bao nhiêu vẻ đẹp hình thức và phẩm chất vừa vặn với thước đo thẩm mĩ của chế độ phong kiến nhưng người phụ nữ ở đây vẫn phải nhận lấy kết cục bi thương.
- Tấn bi kịch của người phụ nữ càng được khắc sâu, nhấn mạnh khi đối tượng gây ra hậu quả ấy lại là những người chồng từng đầu ấp tay gối.
- Từ đây, tiếng nói phê phán hiện thực và tấm lòng cảm thương của tác giả đã được biểu hiện một cách mạnh mẽ và sâu sắc.
- Đó cũng là mạch nguồn khơi gợi cho trào lưu chủ nghĩa nhân văn phát triển rực rỡ trong văn học viết trung đại Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX..
- Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu kể về nhân vật Nhị Khanh bị bà cô của mình là Lưu thị cưỡng ép lấy cháu họ ngoại của bà.
- là quan tướng quân họ Bạch… Vì ghen tuông, vợ của quan Hành khiển Ngụy Nhược Chân đã cho người bắt Đào thị và đánh một trận tàn nhẫn đến mức khiến trong lòng Đào thị không bao giờ nguôi khát vọng báo thù (Chuyện nghiệp oan của Đào thị).
- Và Thị Nghi, trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang, cũng bị vợ của phú thương họ Phạm đánh cho đến chết.
- Rằng những đối tượng là nam giới thuộc nhân vật chính diện trực tiếp hay gián tiếp gây ra bi kịch cho người phụ nữ vẫn được tiếp tục sống, chỉ cần đã tỉnh ngộ, cảm thấy hối hận về những việc sai trái mình đã làm.
- Vậy, phải chăng Nguyễn Dữ đã có thái độ bàng quan trước vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội lúc bấy giờ?.
- Nhìn vào hiện thực xã hội được phản ánh trong Truyền kỳ mạn lục, chúng ta nhận thấy có.
- vô vàn những mảng đen tối khác nhau: có chiến tranh, có đói nghèo, có sự xuống cấp, suy đồi của vua quan, nho sĩ, thầy tu cho đến thương nhân, và cả những đối xử bất công đối với người phụ nữ.
- Tuy nhiên những biểu hiện không công bằng trong ứng xử đối với người phụ nữ lại không được tác giả nhìn nhận là vấn đề bất bình đẳng giới, còn những hệ lụy từ sự bất bình đẳng giới mà người phụ nữ phải gánh chịu lại được tác giả xem như hậu quả của những biến cố lịch sử khách quan, nhất là do sự rạn nứt, suy đồi từ trong những giường mối của lễ giáo phong kiến, mà đúng ra nguyên nhân sâu xa lại xuất phát từ chính trong các quan niệm, quy định bất bình đẳng của Nho giáo, lễ giáo phong kiến đương thời.
- Và dường như cao hơn, khái quát hơn, trên con đường lý giải về những bất công, ngang trái đối với người phụ nữ, các tác giả lúc bấy giờ đều tìm đến nguyên nhân mang tính chất siêu hình là.
- Đó cũng là phông nền văn hóa, thế giới quan, nhân sinh quan nói chung của con người trong xã hội phong kiến đương thời..
- cộng đồng chấp nhận và tác giả chưa hề có ý thức phản tỉnh, nhận thức lại, càng không có tiếng nói trực tiếp phê phán tư tưởng nam quyền, đòi bình quyền cho nữ giới như trong văn học viết giai đoạn sau này.
- Trước bức tranh hiện thực xã hội đang có những biểu hiện xuống cấp, trước những bi kịch của con người, nhất là đối với người phụ nữ, tác giả mới chỉ dừng lại ở thái độ hoặc phê phán, hoặc cảm thương nhằm mục đích cảnh tỉnh xã hội, khẳng định Nho giáo, lập lại trật tự phong kiến trên lập trường đạo đức chứ không nhằm mục đích phủ định xã hội trên lập trường tư tưởng nhân văn như trong sáng tác của các tác giả văn học giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX.
- Hạn chế này trong sáng tác của Nguyễn Dữ mang tính lịch sử, và cũng là hạn chế chung trong cái nhìn đối với hiện thực của các tác giả văn học lúc bấy giờ.
- Là bởi, dù bắt đầu có những biểu hiện suy tàn sau khi đạt đến đỉnh cao cực thịnh ở thế kỷ XV nhưng về cơ bản, chế độ phong kiến.
- Từ trong tư tưởng của học thuyết Nho giáo, được cụ thể hóa thành những phép tắc ứng xử trong lễ giáo phong kiến, đây vẫn được xem là khuôn vàng thước ngọc, lý tưởng tiến bộ, cao cả cho con người thời đại lúc bấy giờ soi vào, mà giữ vai trò tiên phong lại là tầng lớp quý tộc, Nho sĩ đương thời, trong đó có Nguyễn Dữ.
- trên con đường tìm kiếm nguyên nhân để giải thích cho những bi kịch của người phụ nữ, các tác giả cũng chưa nhận ra đó là hệ quả của sự bất bình đẳng giới, và cuối cùng cũng quay trở về với quỹ đạo của những lý tưởng, khuôn khổ đạo đức Nho giáo..
- Tuy chưa nhận ra sự hiện hữu rõ nét cùng căn nguyên của vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội đương thời, và cũng là hạn chế chung của giai cấp, của thời đại nhưng điều đáng nói và đáng ghi nhận ở Nguyễn Dữ là tác giả đã tô đậm được bức tranh hiện thực đương thời với nhiều mảng màu phong phú, sinh động.
- ở tinh thần nhân đạo thấm đẫm và nghệ thuật viết truyện truyền kỳ hấp dẫn trong tập truyện.
- Dù chưa nhận diện và phát ngôn trực tiếp (do sự chi phối của bối cảnh lịch sử và văn hóa), nhưng ẩn sâu trong lời kể chuyện và lời đối thoại của nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục, người đọc vẫn có thể phần nào nhận ra được thái độ ngầm phê phán chế độ nam quyền và sự cảm thông, trân trọng của tác giả dành cho người phụ.
- Đó cũng là tiền đề cho tiếng nói đòi nữ quyền cũng như tư tưởng nhân văn được biểu hiện rõ nét hơn trong văn học viết trung đại ở những thế kỷ sau.
- Bởi vậy, có thể nói Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ vẫn xứng đáng là một áng “thiên cổ kỳ bút”, một “tập đại thành” trong thành tựu văn xuôi chữ Hán Việt Nam thời trung đại..
- Châu Minh Hùng, Giải huyền thoại, lý thuyết và ứng dụng, Báo cáo tổng kết Đề tài khoa học và công nghệ cấp Trường, Trường Đại học Quy Nhơn, 2019.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt