intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

CÂU HỎI ÔN TẬP QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ

Chia sẻ: Joseph Khoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

20
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

CÂU I: TRÌNH BÀY NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ 2 HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA ADAM SMITH VÀ DAVID RICARDO. NÊU Ý NGHĨA CỦA VIỆC NẮM VỮNG CÁC HỌC THUYẾT NÀY ĐỐI VỚI CÁC NHÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: CÂU HỎI ÔN TẬP QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ

  1. PHẦN I: QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ: CÂU I: TRÌNH BÀY NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ 2 HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA ADAM SMITH VÀ DAVID RICARDO. NÊU Ý NGHĨA CỦA VIỆC NẮM VỮNG CÁC HỌC THUYẾT NÀY ĐỐI VỚI CÁC NHÀ KINH DOANH QUỐC TẾ: 1. Học thuyết của Adam Smith: tư tưởng chính của Adam Smith về thương mại quốc tế là: – Thương mại, đặc biệt là ngoại thương có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế nước Anh ghê ghớm. Nhưng theo ông nguồn gốc giàu có của nước Anh không phải là ngoại thương mà là công nghiệp. – Mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, có nghĩa sử dụng những lợi thế tuyệt đối đó cho phép họ sản xuất với chi phí thấp hơn các nước khác, thì tổng sản lượng của cải vật chất của từng nước, cũng như của thế giới sẽ tăng lên, kết quả làm cho mức sống tăng lên và nhờ đó nhu cầu ở các quốc gia thỏa mãn tốt hơn. Quốc gia sẽ chỉ xuất khẩu những hàng hóa mà họ có lợi thế tuyệt đối, nhập khẩu những hàng hóa mà họ không có lợi thế tuyệt đối. Thương mại không là quy luật trò chơi bằng không mà là trò chơi tích cực, theo đó các quốc gia đều có lợi trong thương mại quốc tế. – Tất cả các nước đều có lợi nếu tự do buôn bán với nhau và không đồng ý sự can thiệp của nhà nước. Trong tự do thương mại, nguồn lực của thế giới sẽ được phân phối có hiệu quả, có lợi cho từng nước. Bất cứ sự can thiệp nào vào tiến trình tự nhiên của thương mại đều cản trở sự phân phối có hiệu quả các nguồn lực của thế giới. – Cơ sở của lý thuyết này dựa trên thuyết lao động giá trị, nó cho rằng lao động là yếu tố duy nhất của sản xuất vật chất, chất lượng lao động là như nhau, thời gian cần thiết để lao động chuyển hóa thành vật chất như nhau. – Trong thực tế chúng ta thấy rằng: • Lao động không phải là yếu tố duy nhất của sản xuất. • Chất lượng lao động không thể đồng nhất. • Chi phí để sản xuất ra một hàng hóa không chỉ phụ thuộc vào số lượng lao động đã sử dụng để tạo ra nó mà còn phụ thuộc khoản thời gian cần thiết để lao động chuyển hóa thành vật chất. • Do vậy, nếu chỉ có lợi thế tuyệt đối mới có thương mại quốc tế thì bao nhiêu nước có thể thực hiện thương mại quốc tế? Một nước có mọi thế hơn hẳn các nước khác hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì phải chăng không có thương mại quốc tế nói riêng và quan hệ kinh tế quốc tế nói chung? • Tuy có những hạn chế, nhưng lý thuyết của A. Smith đã có những luận điểm hoàn toàn đúng đắn: lao động là thước đo thực tế của giá trị. 2. Học thuyết của David Ricardo: tư tưởng chính của David Ricardo về thương mại quốc tế là: – Mọi nước luôn có thể và rất có lợi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Bởi vì phát triển ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước: chỉ chuyên môn hoá và sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ các nước khác. Trang 1
  2. – Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước có một số lợi thế nhất định về các mặt hàng khác. – Điều chính yếu trong lý thuyết của D. Ricardo là thương mại quốc tế không yêu cầu sự khác nhau về lợi thế tuyệt đối. Thương mại quốc tế có thể xảy ra khi có lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh tồn tại bất cứ khi nào mà tương quan về lao động cho mỗi sản phẩm khác nhau giữa hai hàng hóa. – Theo quy luật này, các quốc gia có thể chuyên môn hóa và xuất khẩu sản phẩm mà họ không có lợi thế tuyệt đối so với một nước khác, nhưng lại có lợi thế tuyệt đối lớn hơn giữa hai sản phẩm trong nước (tức là họ có lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh) và nhập khẩu những sản phẩm mà lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn giữa hai sản phẩm trong nước. – Lợi thế so sánh về một loại sản phẩm X nào đó thể hiện khả năng cạnh tranh của một quốc gia trên thị trường thế giới. Xác định lợi thế so sánh giữa hai quốc gia, hay giữa các nước trong khu vực có thể được xác định theo công thức sau: RCA = E1/EC+E2/EW Trong đó: – RCA (rate of comparative advantage): hệ số thể hiện lợi thế so sánh. – E1: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của quốc gia trong 01 năm. – EC: Tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia trong 01 năm – E2: Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của thế giới trong 01 năm – EW: Tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới trong 01 năm. Nếu RCA
  3. • Các phân tích của ông không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước, cho nên dựa vào lý thuyết của ông người ta không thể xác định giá tương đối mà các nước dùng để trao đổi sản phẩm. • Lý thuyết này không giải thích được nguồn gốc phát sinh của thuận lợi của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên không giải thích triệt để nguyên nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế. CÂU II: CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ NHÀ NƯỚC. HÌNH THỨC NÀO ĐƯỢC ÁP DỤNG PHỔ BIẾN? TẠI SAO? Liên kết kinh tế quốc tế được xem là mối quan hệ kinh tế được hình thành dựa vào sự thỏa thuận hai bên hoặc nhiều bên, ở tầm vĩ mô hoặc vi mô nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế và thương mại phát triển. Liên kết kinh tế quốc tế Nhà Nước là những liên kết kinh tế được hình thành trên cơ sở Hiệp định được ký kết giữa hai hay nhiều chính phủ nhằm lập ra các liên minh kinh tế khu vực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. Chủ yếu các liên kết kinh tế Nhà Nước được tổ chức và thực hiện dưới một trong năm hình thức liên kết sau: 1. Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area) – FTA: Đây là hình thức liên kết kinh tế có tính thống nhất không cao, các nước trong liên kết cùng nhau thỏa thuận: – Thuận lợi hóa hoạt động thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên bằng cách thoả thuận cắt giảm thuế quan và các biện pháp phi thuế; thuận lợi hóa hoạt động đầu tư vào nhau. – Giữa các nước xây dựng các chương trình hợp tác kinh tế và đầu tư vì sự phát triển chung cuả các nước thành viên. – Thực hiện đơn giản hóa thủ tục hải quan và thị thực xuất nhập cảnh tạo điều kiện cho hàng hóa, dịch vụ, hoạt động đầu tư của các thành viên thâm nhập vào nhau. – Mỗi nước tùy vào điều kiện phát triển kinh tế của quốc gia mình mà đưa ra các giải pháp về thuế quan, các biện pháp phi thuế riêng phù hợp với các nguyên tắc chung của khối. – Mỗi nước thành viên vẫn duy trì quyền độc lập tự chủ của mình trong quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước khác ngoài khối. – FTA là hình thức liên kết kinh tế phổ biến nhất vì đây là hình thức cho phép mỗi nước thực hiện tự do hóa thương mại với các nước trong liên kết, nhưng vẫn thực hiện được chính sách đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế. 2. Liên minh thuế quan (Customs Union): Đây là hình thức liên kết có tính thống nhất tổ chức cao hơn so với hình thức FTA, nó mang toàn bộ những đặc điểm của FTA, nhưng giữa các nước còn thỏa thuận thêm những điều kiện hợp tác sau: – Các nước trong liên minh thỏa thuận xây dựng chung về cơ chế Hải quan thống nhất áp dụng chung cho các nước thành viên. – Cùng nhau xây dựng biểu thuế quan thống nhất áp dụng trong hoạt động thương mại với các nước ngoài liên kết. Trang 3
  4. – Tiến tới xây dựng chính sách ngoại thương thống nhất mà mỗi nước thành viên phải tuân thủ. 3. Thị trường chung (Common Market): Đây là hình thức phát triển cao hơn của liên kết kinh tế giữa các nước. Các nước hội viên thuộc thị trường chung thỏa thuận: – Xóa bỏ những trở ngại đến quá trình buôn bán với nhau: như thuế quan, hạn ngạch giấy phép... – Xóa bỏ các trở ngại cho quá trình tự do di chuyển tư bản và sức lao động giữa các nước hội viên. – Xây dựng cơ chế chung điều tiết thị trường của các nước thành viên. – Tiến tới xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại chung trong quan hệ với các nước ngoài khối. 4. Liên minh kinh tế (Economic Union): Là hình thức liên kết kinh tế có tính tổ chức thống nhất cao hơn so với thị trường chung. Nó mang toàn bộ đặc điểm của liên kết thị trường chung, nhưng nó có thêm các đặc điểm khác như: – Các nước xây dựng chung nhau chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách phát triển kinh tế ngành, phát triển kinh tế vùng mà không bị chia cắt bởi biên giới lãnh thổ giữa các nước thành viên. – Thực hiện việc phân công lao động sâu sắc giữa các nước thành viên. – Cùng nhau thiết lập một bộ máy tổ chức điều hành sự phối hợp kinh tế giữa các nước (thay thế một phần chức năng quản lý kinh tế của chính phủ từng nước). 5. Liên minh về tiền tệ (Monetary Union): Đây là hình thức liên kết kinh tế cao nhất, tiến tới thành lập một “quốc gia kinh tế chung” của nhiều nước với những đặc điểm: – Xây dựng chính sách kinh tế chung – Xây dựng chính sách đối ngoại, trong đó có chính sách ngoại thương chung. – Hình thành một đồng tiền chung thống nhất thay thế cho đồng tiền riêng của các nước hội viên. – Quy định chính sách lưu thông tiền tệ thống nhất. – Xây dựng Ngân hàng chung thay thế cho Ngân hàng Trung Ương của các nước. – Xây dựng quỹ tiền tệ chung. – Xây dựng chính sách quan hệ tài chính tiền tệ chung đối với các nước đồng minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. – Tiến tới thực hiện liên minh về chính trị. CÂU III: TRÌNH BÀY NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ ASEAN, AFTA, CEPT. PHÂN TÍCH NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM THỰC HIỆN XONG LỘ TRÌNH CEPT CỦA AFTA VÀO NĂM 2006: Lịch sử hình thành và phát triển Asean: Trang 4
  5. • Hiệp hội các nước Đông Nam Á (The Association of Southeast Asians Nation – ASEAN) được thành lập ngày 08/08/1967 sau khi Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan ký bản tuyên bố Asean (hay còn được gọi là tuyên bố Băng Cốc). Mười bảy năm sau, ngày 08/01/1984 Brunei được kết nạp vào Asean, Việt Nam gia nhập tháng 07/1995 và tháng 07/1997 Lào và Mianma đã trở thành hội viên chính thức của Asean. Ngày 30/04/1999 Campuchia gia nhập Asean. Mục tiêu hoạt động ban đầu của Asean nhằm giữ gìn sự ổn định và an ninh trong khu vực, tức là tổ chức Asean lúc đầu được xem là khối mang màu sắc chính trị là chủ yếu, mặc dù tuyên bố Băng Cốc 08/08/1967 nêu rõ mục tiêu hoạt động của Asean bao gồm 7 điểm: 1. Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á hòa bình và thịnh vượng. 2. Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của hiến chương Liên Hiệp Quốc. 3. Thúc đẩy sự cộng tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học-kỹ thuật và hành chính. 4. Giúp đỡ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chánh. 5. Cộng tác có hiệu quả hơn, để sử dụng tốt hơn nền nông nghiệp và các ngành công nghiệp của nhau, mở rộng mậu dịch kể cả việc nghiên cứu các vấn đề buôn bán hàng hóa giữa các nước, cải thiện các phương tiện giao thông liên lạc và nâng cao mức sống nhân dân. 6. Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á. 7. Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ và mục đích tương tự và tìm kiếm cách thức nhằm đạt được sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các tổ chức này. Hội nghị cấp cao Asean lần thứ VIII tại Phnôm – pênh, Campuchia, ngày 04/05/2002, ASEAN nhất trí cần tiếp tục duy trì hoà bình ổn định, tăng cường hợp tác chính trị, an ninh, cải thiện hình ảnh và vị thế của ASEAN, giải quyết các bất đồng theo phương thức ASEAN; nhấn mạnh cần triển khai nhanh các sáng kiến, chương trình đã có qua các biện pháp chính sau: - Tăng cường liên kết nội khối, giảm hàng rào phi quan thuế, cải thiện môi trường đầu tư để tăng buôn bán, đầu tư nội khối trước bối cảnh các thị trường truyền thống của ASEAN giảm mạnh bởi suy thoái kinh tế thế giới. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của ASEAN. - Tập trung triển khai các dự án ưu tiên, nhất là về thu hẹp khoảng cách, giúp các thành viên mới, phát triển Tiểu vùng như Mê-công. - Xác định lại mục tiêu phát triển của ASEAN và nghiên cứu chiến lược phát triển của Hiệp hội để tiến tới hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN có tính đến những kinh nghiệm của Liên minh Châu âu. Nhân dịp này, Cấp cao ASEAN - Ấn Độ lần đầu tiên được tổ chức và các nhà Lãnh đạo ASEAN đã nhất trí họp Cấp cao ASEAN + Ấn Độ hàng năm. ASEAN và Trung Quốc đã Trang 5
  6. ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), coi đây là một bước quan trọng tiến đến hình thành Bộ Quy tắc ửng xử ở Biển Đông (COC); và ký Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc, theo đó dự kiến thời điểm hoàn thành Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc là năm 2010 (với 6 nước ASEAN cũ) và 2015 với 4 nước ASEAN mới.) Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a, 7-8/10/2003, kết quả quan trọng nhất là các Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II) nêu những định hướng chiến lược lớn của ASEAN với mục tiêu thành lập một cộng đồng ASEAN liên kết mạnh, tự cường vào năm 2020 với ba trụ cột chính là hợp tác chính trị-an ninh (Cộng đồng An ninh ASEAN-ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC), và hợp tác xã hội/văn hoá (Cộng đồng xã hội/văn hoá ASEAN-ASCC). Nhằm triển khai Tuyên bố Ba-li II, ASEAN sẽ xây dựng Chương trình Hành động để thông qua tại Cấp cao ASEAN-10 tại Viêng-chăn tháng 11/2004. Trung Quốc chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và hợp tác (TAC). Nhật Bản ký với ASEAN Khuôn khổ Đối tác Kinh tế toàn diện (CEP), cụ thể hoá các bước đi xây dựng CEP ASEAN-Nhật trong đó có Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật; nêu sáng kiến tổ chức hội nghị ASEAN-Nhật Bản về đầu tư bên lề Cấp cao Kỷ niệm ASEAN-Nhật bản tháng 12/2003. Tại Cấp cao ASEAN+ấn Độ: Hai bên ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-ấn Độ, trong đó có lộ trình xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-ấn Độ (FTA) và chương trình Thu hoạch sớm. ấn Độ cũng chính thức tham gia Hiệp ước TAC Như vậy, sau 37 năm tồn tại và phát triển, ASEAN đã phát triển dần từ một tổ chức chính trị khu vực có hình ảnh mờ nhạt, khả năng tồn tại yếu ớt, thành một tổ chức chính trị- kinh tế khu vực đang lớn mạnh và thành công. Hiện nay, ASEAN là một trong các tổ chức khu vực có vai trò và vị trí nhất định trên thế giới, là tổ chức khu vực duy nhất có mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên mang tính cơ chế với các nước công nghiệp phát triển, trong đó có 5 nước Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, 7 nước công nghiệp hàng đầu thế giới. Năm 1992, tại Hội nghị thường đỉnh lần thứ IV ở Singapore, các thành viên Asean đã ký một hiệp định về khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA). Mục tiêu căn bản của Afta: 1. Thúc đẩy buôn bán giữa các nước trong khu vực nhờ chế độ thuế quan ưu đãi (CEPT) và các ưu đãi khác. 2. Tăng khả năng cạnh tranh của Asean trên trường quốc tế. 3. Tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn FDI. 4. Xây dựng các cơ chế và điều kiện chung thúc đẩy phát triển kinh tế của các nước thành viên. Trong khuôn khổ hợp tác kinh tế Asean, chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) là cơ chế chủ yếu để thiết lập mậu dịch tự do trong khu vực Asean. Thực chất của chương trình Cept là các nước thành viên Asean đạt được sự thỏa thuận giảm thuế quan chung xuống còn ở mức 0%-5% trong thương mại nội bộ các nước Asean trong vòng 10 năm, bắt đầu từ ngày 01/01/1993 và hoàn thành vào ngày 01/01/2003. Các sản phẩm thực hiện giảm thuế nhập khẩu do các nước thành viên tự đề nghị căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh kinh tế mỗi nước. Chương trình Cept thực hiện theo 4 danh mục: Trang 6
  7. - Danh mục cắt giảm thuế nhập khẩu. - Danh mục loại trừ tạm thời. - Danh mục loại trù hoàn toàn. - Danh mục nông sản chưa chế biến nhạy cảm Điều kiện để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi theo chương trình Cept: 1. Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn 20%; 2. Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông qua; 3. Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối Asean, tức phải thỏa mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên Asean (hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%. (Chủ hàng nhập khẩu phải xuất trình được giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa mẫu D do cơ quan có thẩm quyền ở nước xuất khẩu cấp – C/O form D). 4. Hàng nhập khẩu phải được vận chuyển thẳng từ nước xuất khẩu. Thuận lợi đối với các DNVN khi VN thực hiện xong chương trình CEPT: • Các DN VN sẽ được ưu tiên về thuế khi nhập khẩu MMTB, NPL phục vụ cho nhu cầu sản xuất công nghiệp. • Các DN VN sx mặt hàng nông sản thô và nông sản chế nếu có sự cắt giảm thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích sản xuất để xuất khẩu sang ASEAN • DN VN có lợi thế về một số ngành sản xuất tiêu tốn nhiều lao động như sản xuất giầy dép, quần áo, hàng công nghiệp nhẹ... Khó khăn và thách thức Một số mặt hàng chúng ta vẫn chưa đăng ký bảo hộ, có một số lượng hàng mang nhãn hiệu Việt Nam nhưng không có xuất xứ từ Việt Nam XK sang thị trường EU làm số lượng, giá trị hàng xuất khẩu của DN VN giảm. Các DN dệt may, da giày VN chưa tự túc được nguyên liệu mà phải nhập khẩu từ bên ngoài tới 40-50% giá trị sản phẩm xuất khẩu đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chi phí cho giá thành sản phẩm. Các DN VN sx các nông sản phẩm chưa qua chế biến như: chè, cà phê, hải sản và một số nguyên liệu thô như dầu lưả, cao su không được hưởng các quy chế do AFTA ấn định bởi vì hàng xuất sang thị trường ASEAN Các DNVN sẽ thua kém về vốn, kỹ thuật, chất lượng và kinh nghiệm thị trường Quốc tế Ngành Phân bón: trên thị trường thế giới diễn biến phức tạp, nguồn cung cấp phân bón không ổn định, giá cả tăng liên tục, nên giá nhập khẩu phân urê trước AFTA chỉ ở mức 125-130 USD/T, VN sau 6 tháng hội nhập giá nhập khẩu tăng lên đến 185-187 USD/T. Ngành giấy: Đây là ngành được nhận định là khó khăn nhất trong tiến trình giảm thuế. Trên thực tế Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 46% giấy báo in, 18% giấy in và viết, chủ yếu từ Indonesia và Thái Lan. Bên cạnh đó, các sản phẩm giấy chuyên dụng cũng là loại sản phẩm gặp phải sự cạnh tranh lớn. Sản xuất trong nước mới sản xuất được lượng rất nhỏ trong khi kim ngạch nhập khẩu sản phẩm này chiếm 25% tổng kim ngạch nhập khẩu giấy nói chung. Trang 7
  8. Hiện thuế nhập khẩu giảm chỉ còn 20%, nhưng giá nhập khẩu bột giấy liên tục tăng 16-19% so với năm 2002. Những giải pháp giúp DN nắm bắt cơ hội hạn chế và thách thức Đv DN: -DNVN phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu, loại bỏ những chi phí không cần thiết, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp, tập trung xuất khẩu những hàng hóa nằm trong danh mục cắt giảm thuế CEPT. Có như vậy thì các doanh nghiệp mới có điều kiện phát triển, có lợi về giá cả khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trướng ASEAN. Đv Nhà Nước: Cần chú trọng đến xuất nhập khẩu những mặt hàng, những sản phẩm tạo điều kiện bổ sung kinh tế giữa các quốc gia như xuất khẩu gạo, dầu mỏ, thiếc và nhập khẩu các thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng, sản phẩm hóa chất. công nghệ sản xuất xe máy... Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thu hút công nghệ của các thành viên AFTA dưới hình thức liên doanh, liên kết, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ Khuyến khích sản xuất tư nhân như ưu đãi trong việc vay vốn, thuế, cam kết ổn định chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ Sắp xếp cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước, thành lập một số tổng công ty mạnh trong một số lĩnh vực như dệt may, điện tử, giày dép... Các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ, sức cạnh tranh thấp sẽ được tập trung lại để hình thành nên một dạng Công ty mẹ có tiềm lực và sức cạnh tranh lớn hơn, đủ sức chống chọi lại với các công ty lớn của ASEAN. Với các công ty lớn, việc sản xuất - xuất khẩu một mặt hàng nào đó sẽ được cân nhắc kỹ hơn và đầu tư với quy mô lớn hơn, có chiều sâu và phạm vi rộng hơn. CÂU IV: APEC (DIỄN ĐÀN CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG): PHÂN TÍCH NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TỪ NHỮNG CHƯƠNG TRÌNH HỘI NHẬP CỦA APEC. ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM NẮM BẮT ĐƯỢC NHỮNG CƠ HỘI VÀ HẠN CHẾ ĐƯỢC THÁCH THỨC TỪ VIỆC THỰC THI NHỮNG HIỆP ĐỊNH CỦA APEC. • Tháng 1 năm 1989, tại Xê-un, Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý tưởng về việc thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu á - Thái Bình Dương với mục đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm đẩy phát triển kinh tế ở khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương. Nhật Bản, Ma-lai-xia, Hàn Quốc, Thái Lan, Phi-líp-pin, Xinh-ga-po, Bru-nây, In-đô-nê-xia, Niu Di-lân, Ca-na-đa và Mỹ đã ủng hộ sáng kiến này. Tháng 11 năm 1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nước nói trên đã họp tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia quyết định chính thức thành lập APEC. • Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công và Đài Loan (với tên gọi theo tiếng Anh là Chinese Taipei) vào tháng 11 năm 1991; Mê-hi-cô, Pa-pu-a Niu Ghi-nê tháng 11 năm 1993; Chi-lê tháng 11 năm 1994 và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp thành viên trong ba năm. Đến tháng 11 năm 1998, APEC kết nạp thêm ba thành viên mới là Pê-ru, Liên bang Nga và Việt Nam, đồng thời quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới trong mười năm để củng cố tổ chức. • Đến nay, APEC đã có 21 nền kinh tế thành viên với khoảng 2,5 tỷ dân; 19.000 tỷ đô la Mỹ Trang 8
  9. GDP mỗi năm và chiếm 47% thương mại thế giới (xem bảng 1). APEC bao gồm cả hai khu vực kinh tế mạnh và năng động nhất thế giới: khu vực Đông á và khu vực Bắc Mỹ (gồm Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hi-cô) với những nét đặc thù và vô cùng đa dạng về chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa. Chỉ trong mười năm đầu tồn tại và phát triển, các nền kinh tế thành viên APEC đã đóng góp gần 70% cho sự tăng trưởng chung của nền kinh tế toàn cầu. • Như vậy, chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng như sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách cho việc hình thành một diễn đàn mở rộng trong khu vực nhằm phối hợp chính sách về các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự do hóa và khuyến khích thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ giữa các nền kinh tế ở châu á - Thái Bình Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực châu á - Thái Bình Dương khi bước vào thế kỷ XXI. • Việc soạn thảo qui chế thành viên của APEC được giao cho các quan chức cao cấp của APEC thực hiện và đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét và Hội nghị các nhà Lãnh đạo Cấp cao APEC thông qua vào kỳ họp hàng năm tại Van-cu-vơ, Ca-na-đa, tháng 11 năm 1997. Về cơ bản, nước hoặc vùng lãnh thổ kinh tế, muốn trở thành thành viên APEC phải có đủ một số điều kiện cần thiết như sau: – Vị trí địa lý: nằm ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, tiếp giáp với bờ biển Thái Bình Dương. – Quan hệ kinh tế: có các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên APEC về thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự tự do đi lại của các quan chức. – Tương đồng về kinh tế: chấp nhận chính sách kinh tế mở cửa theo hướng thị trường. – Quan tâm và chấp thuận các mục tiêu của APEC: tỏ rõ mối quan tâm mạnh mẽ tới các lĩnh vực hoạt động của APEC bằng cách tham gia vào các Nhóm công tác hoặc nghiên cứu độc lập và các hoạt động khác của APEC. Tuy nhiên, không có mối liên quan đặc biệt nào giữa việc tham gia vào các Nhóm công tác của APEC và việc trở thành thành viên. Nước muốn trở thành thành viên phải hoàn toàn chấp nhận những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản được đề ra trong các Tuyên bố và Quyết định của APEC, kể cả các nguyên tắc đồng thuận và tự nguyện. • Ngoài quy chế thành viên chính thức, APEC còn có quy chế quan sát viên dành cho ba tổ chức khu vực là Ban Thư ký ASEAN, Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) và Diễn đàn Đảo Thái Bình Dương (PIF), không có quy chế quan sát viên cho một nước hay vùng lãnh thổ riêng biệt. Quan sát viên có thể tham dự các cuộc họp từ cấp Bộ trưởng trở xuống và tham gia vào các hoạt động của APEC. Các nước không phải thành viên APEC có thể được tham gia các hoạt động với tư cách khách mời tại các Nhóm công tác của APEC. • Mục tiêu của APEC: Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung của các dân tộc trong khu vực, và bằng cách đó đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thế giới; Phát huy các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích các luồng hàng hoá, dịch vụ, vốn và Trang 9
  10. công nghệ; Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở vì lợi ích của các nước châu á - Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác; Cắt giảm những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO ở những lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại tới các nền kinh tế khác. • Nguyên tắc hoạt động của APEC: Nguyên tắc cùng có lợi: uyên bố Xê-un của Hội nghị Bộ trưởng lần thứ ba năm 1991 nêu rõ: "Việc hợp tác trong APEC dựa trên nguyên tắc cùng có lợi, có tính đến sự khác biệt trong các giai đoạn phát triển kinh tế trong các hệ thống chính trị - xã hội, và chú ý đầy đủ đến các nhu cầu của những nền kinh tế đang phát triển" Việc duy trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của APEC vì diễn đàn này là tập hợp lực lượng của các nền kinh tế rất đa dạng về điều kiện địa lý, lịch sử và văn hoá, về chế độ chính trị - xã hội và đặc biệt có sự chênh lệch rất lớn về trình độ phát triển. Trong điều kiện APEC bao gồm cả những nền kinh tế lớn và phát triển nhất, cũng như những nền kinh tế nhỏ và kém phát triển hơn, APEC đã nhấn mạnh tới các mối quan tâm chung, lợi ích chung của các thành viên và tập trung vào các vấn đề hợp tác kinh tế và phát triển. Nhờ vậy, APEC có sức hấp dẫn lớn đối với các nước trong và ngoài khu vực. Chỉ gần mười năm sau khi thành lập, APEC đã bao gồm 21 thành viên, trong đó có những nền kinh tế hùng mạnh bậc nhất thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc. Trong khi thừa nhận mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực phải dựa trên cơ sở cùng có lợi, để phù hợp với tính đa dạng của khu vực, nguyên tắc này cũng nhấn mạnh cần chú ý tới sự khác biệt về trình độ phát triển, chế độ chính trị - xã hội và yêu cầu của các nền kinh tế đang phát triển. Đây là điểm rất quan trọng trong nguyên tắc hoạt động của APEC nhằm giải toả mối lo ngại của một số thành viên là nước đang phát triển trong APEC rằng sự khác biệt lớn về trình độ phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ có thể dẫn tới sự lệ thuộc bất bình đẳng của họ vào các nền kinh tế tiến tiến hơn, làm tăng mâu thuẫn và phân cực Bắc - Nam ngay trong APEC. Các nước ASEAN đã thông qua nguyên tắc nhất trí Cun-ching (1989), trong đó nhấn mạnh: "Việc tăng cường APEC cần phải dựa trên cơ sở công bằng, bình đẳng và cùng có lợi, có chú ý đầy đủ đến sự khác biệt trong các giai đoạn phát triển kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội của các nước trong khu vực". Trong các hoạt động của APEC, các thành viên đang phát triển đã được dành cho những ưu đãi nhất định. Trước hết, việc đạt mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư được chia làm hai thời biểu, theo đó các nước phát triển sẽ hoàn thành mục tiêu này vào năm 2010 và các nền kinh tế đang phát triển sẽ chậm hơn 10 năm (2020). Hợp tác trong APEC không chỉ nhấn mạnh tới mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư mà còn triển khai trên các lĩnh vực cụ thể nhằm hỗ trợ các nền kinh tế đang phát triển vươn lên rút ngắn khoảng cách giàu nghèo. Vì thế, tại Hội nghị Bộ trưởng Ô-xa-ca năm 1995, các thành viên đã thông qua Chương trình Hành động Ô-xa-ca, trong đó coi hợp tác kinh tế và kỹ thuật như là nội dung thứ hai trong hoạt động của APEC, có tác động hỗ trợ để đạt tới mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực. Nguyên tắc đồng thuận (consensus):Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của hợp tác trong APEC, như Tuyên bố Xê-un đã nêu rõ, là dựa trên "cam kết về sự đối thoại cởi mở và xây dựng sự đồng thuận, bình đẳng, tôn trọng quan điểm của tất cả thành viên tham Trang 10
  11. gia". Khác với hoạt động trong GATT/WTO, trong đó các nước phải qua một quá trình thương thuyết, đàm phán lâu dài và thường là gay gắt để đạt được những thoả thuận và hiệp định có tính pháp lý quốc tế cao, APEC đi tới các quyết định thông qua quá trình xây dựng sự đồng thuận. Tất cả các Hội nghị, từ Hội nghị Cấp cao đến Hội nghị cấp Bộ trưởng hay cấp chuyên viên đều mang tính chất tư vấn, theo nghĩa là các thành viên không tham gia vào những cuộc thương lượng, mặc cả thực sự để đạt tới những quyết định có tính ràng buộc. Toàn bộ quyết định của các nhà Lãnh đạo Cấp cao, các Bộ trưởng đều được đưa ra trong Tuyên bố chung phản ánh ý chí của tất cả các thành viên. Nguyên tắc đồng thuận thể hiện một mô hình hợp tác tương đối thành công trong khu vực do ASEAN khởi xướng. Do tính chất đa dạng của các nền kinh tế trong khu vực, nguyên tắc đồng thuận tỏ ra khá hiệu quả. Thông qua nguyên tắc này, APEC đã xây dựng được những nền tảng có ý nghĩa quan trọng và thực tế để đẩy mạnh hợp tác, một chương trình làm việc toàn diện và một thoả thuận lịch sử về tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực tới năm 2020. Duy trì nguyên tắc nhất trí trong một tập hợp đa dạng như APEC là một điều khó khăn, đặc biệt khi APEC đi vào những vấn đề hành động cụ thể. Tuy nhiên, các thành viên APEC coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của quá trình hoạt động và ra quyết định của APEC, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành viên trong Diễn đàn này. Nguyên tắc tự nguyện: Xuất phát từ đặc điểm của các nền kinh tế thành viên và các mối quan hệ kinh tế quốc tế trong khu vực châu á - Thái Bình Dương, sự hợp tác giữa các thành viên trong APEC mang tính chất tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện thể hiện trên hai điểm: Trước hết, APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế, một cơ chế liên chính phủ nhằm xúc tiến sự hợp tác, tăng trưởng và phát triển của khu vực. Ngay từ Hội nghị đầu tiên, các Bộ trưởng APEC đã nhất trí coi APEC như một Diễn đàn tham khảo ý kiến về các vấn đề kinh tế nhằm tăng cường trao đổi quan điểm giữa các nước châu á - Thái Bình Dương. Tính chất tự nguyện trong hoạt động của APEC được thể hiện trong nguyên tắc Cun-ching do các nước ASEAN đề xướng: "APEC cần cung cấp một Diễn đàn tư vấn kinh tế và không nhất thiết dẫn tới sự thông qua các quyết định có tính chất bắt buộc bất cứ thành viên nào phải chấp nhận hay thực hiện". Cơ chế hoạt động tự nguyện còn được khẳng định lại trong Tuyên bố Xê-un năm 1991: "APEC sẽ hoạt động thông qua quá trình tư vấn và trao đổi quan điểm giữa các đại điện cao cấp của các nền kinh tế thành viên APEC, dựa trên các nghiên cứu, phân tích và các ý tưởng về chính sách do các nền kinh tế tham gia và các tổ chức liên quan bao gồm các Ban Thư ký của ASEAN, PECC và PIF đóng góp" Thứ hai, do APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế nên nó không đưa ra những quyết định, nguyên tắc có tính bắt buộc đối với các thành viên. Mọi hoạt động hợp tác đều dựa trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích của các bên. Điều này phản ánh tính đặc thù của quá trình hội nhập kinh tế trong khu vực. Trong khi các tổ chức hợp tác khu vực khác, đặc biệt là Liên hiệp châu Âu (EU) có cơ cấu tổ chức hết sức chặt chẽ với các cơ quan liên chính phủ như Hội đồng châu Âu, Toà án châu Âu và Quốc hội châu Âu để điều phối sự hợp tác giữa các nước thành viên, APEC đến nay về cơ bản vẫn là một cấu trúc tương đối lỏng lẻo với một Ban Thư ký, Uỷ ban Ngân sách và Quản lý để điều phối hoạt động trong APEC và của các thành viên. Ngay từ khi Cộng đồng châu Âu được thành lập vào những năm 1950, quá trình phát triển của nó đã được đặc trưng bởi sự hội nhập thể chế, trong đó những yếu tố chính trị tác động rất quan trọng và đã hình thành một cơ cấu liên chính phủ có khả năng phán Trang 11
  12. quyết trên một số lĩnh vực của các thành viên. Trong khi đó, sự hội nhập kinh tế ở khu vực châu á - Thái Bình Dương được dẫn dắt và thúc đẩy chủ yếu bởi các lực lượng thị trường. Sự phát triển về cơ cấu tổ chức cho đến nay mới chỉ mang tính chất hỗ trợ cho quá trình hợp tác trong APEC chứ không phải là mục tiêu tự thân của nó. Con đường phát triển của APEC như vậy phù hợp với đặc điểm đa dạng về chế độ chính trị - xã hội của khu vực vì nó cho phép trong khi khai thác được những lợi ích từ sự hợp tác kinh tế, các thành viên vẫn giữ được chủ quyền kinh tế, bảo đảm không có sự can thiệp từ bên ngoài vào chế độ chính trị - xã hội của các thành viên. Mặc dù có cơ cấu tổ chức lỏng lẻo, thời gian qua APEC vẫn có những bước tiến đáng kể. Nếu như EU cần tới hơn 40 năm để có được mức độ liên kết kinh tế như ngày nay, GATT/WTO cũng cần tới một thời gian gần 50 năm để đạt tới những mức độ nhất định về tự do hóa thương mại và đầu tư thì trong vòng gần mười năm, APEC đã đi từ nhận thức chung tới những hành động cụ thể nhằm đạt mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư. Tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ năm ở Bô-go, In-đô-nê-xi-a, các Bộ trưởng đã thông qua 10 nguyên tắc đầu tư không ràng buộc nhằm thúc đẩy đầu tư và luồng tư bản trong khu vực. Phù hợp với nguyên tắc tự nguyện, trong Tuyên bố chung về Chương trình Hành động Ô-xa-ca, các Bộ trưởng đã nhấn mạnh cách tiếp cận duy nhất của APEC đối với tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư là phải kết hợp giữa ba mặt hành động: Hành động đơn phương có phối hợp, hành động tập thể và hành động đa phương. Hành động đơn phương có phối hợp là các việc làm tự nguyện của mỗi thành viên trên lĩnh vực thuế quan, phi thuế quan, dịch vụ, sở hữu trí tuệ... phù hợp với phương hướng, mục tiêu và Chương trình hành động của APEC. Sau Hội nghị Cấp cao lần thứ ba ở Ô-xa-ca năm 1995, các nhà Lãnh đạo của các nền kinh tế thành viên đã lần lượt công bố các cam kết ban đầu nhằm thực hiện Chương trình Hành động của APEC. Trung Quốc đã công bố cam kết lớn nhất cắt giảm 30% thuế quan cho 2/3 các mặt hàng[8]. Tại Hội nghị Cấp cao lần thứ tư ở Ma-ni-la năm 1996, Phi-li-pin tuyên bố tự nguyện giảm hàng rào thuế quan (trừ hàng nông phẩm) xuống mức 5% vào năm 2004, Thái Lan cam kết giảm thuế quan trung bình xuống 17% vào năm 1997 và In-đô-nê-xia giảm thuế quan xuống còn từ 0-10% vào năm 2003[9]. Các nhà lãnh đạo APEC cũng đã thông qua Kế hoạch Hành động Ma-ni-la (MAPA) năm 1996 bao gồm các biện pháp hành động cho thời gian trước mắt, trung hạn và dài hạn trong 15 lĩnh vực cụ thể để thực hiện Chương trình Hành động Ô-xa-ca (1995). APEC là diễn đàn mở, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO : APEC là một diễn đàn "mở" theo nghĩa APEC ủng hộ chế độ thương mại đa phương, không tạo ra sự phân biệt đối xử giữa APEC với các nước và nhóm nước khác trên thế giới, đồng thời APEC mở cửa cho các nền kinh tế không phải thành viên APEC trong khu vực tham gia. Ủng hộ chế độ thương mại đa phương mở không chỉ là một nguyên tắc mà còn là một trong những mục tiêu của APEC. Ngay từ giai đoạn đầu của APEC (1989 - 1993), khi Vòng đàm phán U-ru-goay của GATT bị mất động lực và rơi vào bế tắc, APEC đã đặt việc phấn đấu để kết thúc thành công vòng đàm phán này thành một trong những mục tiêu chủ yếu của mình. Các thành viên châu á của APEC cùng chung mối lo ngại về xu hướng bảo hộ ở châu Âu và Bắc Mỹ vì nó có thể sẽ gây tổn hại tới chiến lược hướng về xuất khẩu của họ. Vì thế, sự cam kết về một chế độ thương mại đa phương mở - thể hiện trong thuật ngữ "chủ nghĩa khu vực mở", là một trong những nhân tố quan trọng gắn kết các thành viên APEC với nhau. APEC đã đi đầu trong những nỗ lực nhằm tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở. Là một khu vực chiếm tới 47% thương mại toàn cầu và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, những sáng kiến của APEC trong các cuộc đàm phán toàn cầu đủ để thúc đẩy châu Âu và các nước khác xúc tiến tự do hóa thương mại mà không cần tạo ra sự phân biệt đối xử Trang 12
  13. mới trong hệ thống thương mại thế giới. Trong Tuyên bố chung tại Xơ-un năm 1991, các Bộ trưởng đã ghi nhận rằng: "Một trong những nguyên tắc cơ bản của APEC là tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ, tích cực tới sự tiến triển của hệ thống thương mại toàn cầu, và khả năng của APEC để thực hiện điều đó sẽ được tăng cường mạnh mẽ qua việc tự mình làm một hình mẫu tích cực. Việc theo đuổi tự do hóa thương mại trong APEC phù hợp với cơ sở của GATT/WTO và không làm tổn hại tới các nước khác sẽ tạo ra sự hỗ trợ mạnh mẽ cho hệ thống thương mại toàn cầu... Tuyên bố Xê-un còn nêu rõ: "Về nguyên tắc, việc tham gia vào APEC sẽ rộng mở đối với những nền kinh tế trong khu vực châu á - Thái Bình Dương có những mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với khu vực châu á - Thái Bình Dương và chấp nhận những mục tiêu và nguyên tắc của APEC". Từ khi thành lập tới nay, APEC đã kết nạp thêm 9 thành viên mới (Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Pa-pua Niu Ghi-nê, Mê-hi-cô, Chi-lê, Pê-ru, Liên bang Nga, Việt Nam). Nguyên tắc "mở" của APEC còn thể hiện ở chỗ các thành viên của APEC không chỉ là những quốc gia có chủ quyền với chế độ chính trị - xã hội riêng biệt và được cộng đồng quốc tế công nhận mà còn bao gồm cả các lãnh thổ kinh tế. CÂU V: WTO: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC NÀY. Lịch sử hình thành và phát triển của WTO: WTO được thành lập vào ngày 01/01/1995 là một điểm nhấn lớn nhất của thương mại thế giớ từ sau thế chiến lần thứ II. Tổ chức tiền thân của WTO là GATT được thành lập năm 1947 và tồn tại đến năm 1994, khi WTO ra đời thay thế cho GATT. Trong suốt quá trình tồn tại, GATT đã đưa ra rất nhiều luật lệ và chủ trì suốt thời gian đó trong thương mại quốc tế. Dường như GATT đã đứng vững và có thể tồn tại lâu dài, nhưng trong suốt 47 năm hoạt động, tất cả các hiệp định và cơ cấu tổ chức của GATT chỉ là tạm thời. Do vậy sự ra đời của WTO để thay thế GATT cũng là một điều tất yếu. Sự khác biệt giữa WTO và GATT: Chỉ tiêu GATT WTO Cơ cấu tổ Không có nền tảng về thể chế, chỉ là Là một tổ chức thường trú, có chức một loạt các quy định, hiệp định đa ban thư ký riêng với 450 nhân biên. Điều hành chỉ là một ban thư ký viên, được lãnh đạo bởi một nhỏ. tổng giám đốc và 4 phó tổng giám đốc. Thời hiệu Các hiệp định của GATT mang tính Các hiệp định của WTO mang của các tạm thời, được thay đổi bổ sung qua tính cam kết cố định và vĩnh hiệp định các vòng đàm phán thương mại. viễn. Trang 13
  14. Chỉ tiêu GATT WTO Lĩnh vực Các quy định của GATT chỉ được áp Các quy định cảu WTO được áp điều phối dụng cho thương mại hàng hoá. dụng cho thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các khía cạnh liên quan đến thương mại như vấn đề sở hữu trí tuệ, hoạt động đầu tư... GATT là một công cụ đa biên, đến Các hiệp định của WTO phần những năm 80 nhiều hiệp định mới lớn là đa biên và do đó bao gồm được bổ sung có tính chất đa phương các cam kết của các nước để trở và do đó mang tính chọn lọc và tự thành thành viên đầy đủ. nhiên. Vai trò WTO là tổ chức quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong hoạt động thương mại quốc tế. Chức năng của WTO:WTO thực hiện 5 chức năng sau: • Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ • Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO. • Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thiứch Hiệp định WTO và các hiệp định thuơng mại đa phương và nhiều bên. • Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO, Hiệp định thành lập WTO (phụ lục 3) đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên. • Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong viêc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. Nội dung chính các hiệp định của WTO: 1. Hiệp định thương mại hàng hóa – GATT: – Thực hiện nguyên tắc đối xử tối hệ quốc (MFN) đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ các nước khác nhau và nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) đối với hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Tức là không có sự phân biệt đối xử về thuế nội địa, về chính sách giá, các loại phí, các phương pháp tiếp cận thị trường, vận tải, phân phối hàng hoá, lưu kho... giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Các hàng rào bảo hộ mậu dịch phi thuế quan như: hệ thống giấy phép, hạn ngạch và các biện pháp hạn chế mậu dịch khác cần được bãi bỏ.Các nước thuộc WTO phải cắt giảm thuế quan và không tăng thuế nhập khẩu để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại. – Công nhận quyề kinh doanh xuất nhập khẩu của các tổ chức và cá nhân, không phân biệt thành phần kinh tế của nước mình cũng như các tổ chức và cá nhân của các nước thành Trang 14
  15. viên trên lãnh thổ mình. – Hạn chế trợ cấp tràn lan của chính phủ và chống bán phá giá làm sai lệch thương mại công bằng. – Quy định giá trị tính thuế quan và giá giao dịch thực tế chứ không phải là giá do các cơ quan quản lý áp đặt. – WTO cho phép các nước thành viên được duy trì Doanh nghiệp thương mại Nhà nước với điều kiện các doanh nghiệp này hòan toàn trên cơ chế thị trường. – Các nước thuộc WTO được áp dụng các biện pháp bảo vệ tạm thời để bảo vệ thị trường nội địa, đó là các biện pháp: thuế chống bán phá giá; thuế đối kháng; biện pháp tự vệ khẩn cấp. 2. Hiệp định thương mại dịch vụ – GATS. – Mục tiêu của GATS: mở cửa thị trường dịch vụ để kích thích cạnh tranh nhằm tạo ra nhiều dịch vụ sẵn sàng hơn, rẻ hơn, chất lượng hoàn hảo hơn.. nhằm thỏa mãn các nhu cầu kinh doanh sản xuất, thương mại và nâng cao sức sống nhân dân. – Phạm vi áp dụng của GATS: ngoại trừ các dịch vụ được cung cấp thuộc phạm vi hoạt động chức năng của cơ quan Chính phủ, cụ thể là các dịch vụ đó không mang tính chất thương mại và cạnh tranh với bất kỳ nhà cung cấp nào, các loại dịch vụ khác đều thuộc phạm vi điều chỉnh chủa GATS. – Các nguyên tắc áp dụng trong mở cửa thị trường thương mại dịch vụ: • Nguyên tắc tối huệ quốc: đây là một nguyên tắc bắt buộc nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các nhà dịch vụ nước ngoài trên thị trường của nước nhập khẩu dịch vụ. • Nguyên tắc đối xử quốc gia: nguyên tắc này trong lĩnh vực thương mại dịch vụ chỉ thực hiện trên cơ sở kết quả của các cuộc đàm phán và cam kết về tiến trình tự do hóa dịch vụ giữa các nước thành viên. 3. Hiệp định về sở sở hữu trí tuệ – TRIPS. – Đối tượng điều chỉnh của hiệp định TRIPS: bản quyền và các quyền có liên quan; nhãn hiệu hàng hóa; chỉ dẫn địa lý; kiểu dáng công nghiệp; sáng chế; thiết kế bố trí mạch thích hợp; bí mật thông tin thương mại; hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các trường hợp chuyển giao công nghệ, – Nguyên tắc chính của hiệp định TRIPS: • Nguyên tắc tối huệ quốc: đòi hỏi một nước thành viên của WTO giành những ưu đãi, ưu tiên hoặc miễn trừ áp dụng bảo hộ độc quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hoạt động thương mại cho công dân của một quốc gia thì cũng phải giành những điều kiện tương tự cho các công dân của tất cả các nước thành viên khác thuộc WTO. • Nguyên tắc đối xử quốc gia: mỗi nước thành viên WTO cho các công dân của các nước thành viên khác những đối xử không kém thuận lợi hơn về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại so với công dân của nước mình. 4. Hiệp định về quan hệ đầu tư – TRIMs. Trang 15
  16. – Đối tượng điều chỉnh của TRIMs: chỉ áp dụng các biện pháp có liên quan đến thương mại hàng hóa. – Mục tiêu của TRIMs: tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư quốc tế. – Nội dung cơ bản của TRIMs: – Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia trong hoạt động đầu tư sang nước thành viên thuộc WTO. – Loại bỏ các biện pháp thương mại gây trở ngại cho hoạt động đầu tư. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước thời điểm gia nhập WTO: – Xuất khẩu của Việt Nam hiện nay đang là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế chiếm hơn 50% GDP. Cùng với quá trình mở cửa và đàm phán để gia nhập WTO, kinh tế VN tăng trưởng khá ấn tượng. Tính cho giai đoạn 1990-2000, tăng trưởng ngoại thương đạt bình quân 20%, ở mức rất cao. Từ mức xuất khẩu chỉ đạt con số khiêm tốn 2,087 tỷ USD (1991), sau những nỗ lực quyết tâm cao tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt mức 16,530 tỉ USD (2002). Sự tăng trưởng mạnh mẽ của hàng hóa xuất khẩu không những giúp cho VN khai thác tốt lợi thế từ nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động giá rẻ mà còn giúp VN thu được những khoản ngoại tệ lớn làm cơ sở cho việc chuyển đổi nền kinh tế hiệu quả và linh hoạt hơn trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế toàn cầu. – Thị trường xnk của VN ngày càng được mở rộng. Hiện nay VN đã đặt quan hệ mua bán với hơn 100 nước trên thế giới. Hàng xk của VN đã dần được chấp nhận trên các thị trường khó tính như Châu Âu và Bắc Mỹ. Việc mở rộng thị trường này, một mặt giúp VN tiếp tục khai thác lợi thế so sánh ở những thị trường quen thuộc, đồng thời giúp VN tiếp cận được nền khoa học kỹ thuật và quản lý tiên tiến. – Bên cạnh mức tăng trưởng cao về thương mại mậu dịch, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng tạo những chuyển biến to lớn trong nền kinh tế nước ta trong thập niên vừa qua. – Nền kinh tế VN tăng trưởng khá cao và ổn định thể hiện sự gian tăng ở 3 khu vực kinhh tế: công nghiệp; dịch vụ; nông nghiệp. – Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng hội nhập. – Tuy nhiên, mấy năm gần đây tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm hơn và VN vẫn bị đánh giá là sức mạnh kinh tế kém. – Năng lực nội tại vẫn cón kém. Ngay ngành công nghiệp dù đóng vai trò tiên phong thúc đẩy nền kinh tế nhưng trình độ công nghệ còn thấp, đầu tư của doanh nghiệp chủ yếu là vào lĩnh vực lắp ráp gia công. Cơ hội của các DNVN khi VN gia nhập WTO: Trang 16
  17. – Hàng hóa, dịch vụ của VN sẽ được đối xử bình đẳng như với mọi thành viên khác và như với nước nhập khẩu. Điều này giúp Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trong và cả ngoài nước. Tạo điều kiện cạnh tranh công bằng. Tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển những thế mạnh hiện có (nông sản, dầu thô, dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ). Ngoài ra, dựa vào hội nhập, Việt Nam còn có thể vận dụng sự ủng hộ cũng như các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của các quốc gia phát triển trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. – Hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam được đối xử bình đẳng như hàng hoá và dịch vụ của nước nhập khẩu. Với cơ hội trên, Việt Nam sẽ được áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ quốc tế theo tinh thần của hệ thống tư pháp quốc tế. Khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, các sản phẩm của Việt Nam sẽ được hưởng các quy chế về thuế quan, mậu dịch tự do … Đơn cử một thực tiễn điển hình mà tất cả các nhà doanh nghiệp Việt Nam rất quan tâm trong thời gian qua, đó là sự kiện Hội nông dân Mỹ kiện Việt Nam xuất khẩu phá giá cá basa vào thị trường Mỹ. Nếu đã là thành viên của WTO thì Việt Nam đã có thể bảo vệ mình tốt hơn, tránh được những thiệt hại không đáng có nhờ vào sự hiểu biết pháp luật Mỹ và có thể không bị thua kiện. – Qua các vòng đàm phán đa phương, thuế quan của mọi thành viên giảm khá nhanh. Các hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu cũng được cắt giảm dần, các biện pháp hạn chế định lượng bị cấm sử dụng. Cơ hội sẽ ngang bằng với mọi doanh nghiệp. – Các DN sản xuất và kinh doanh xuất khẩu có thể vạch ra được kế hoạch kinh doanh dài hạn trên cơ sở hàng rào bảo hộ của ác đối tác chỉ giảm đi chứ không tăng. – Các nước phát triển phải giảm trợ cấp cho nhiều hàng hóa của họ khiến cho một số hàng hóa của ta có sức cạnh tranh tăng lên. – Có thể duy trì chính sách bảo hộ cho các ngành sản xuất non trẻ có tiềm năng trong tương lai trong một thời gian xác định. Thách thức của các Doanh nghiệp VN khi VN gia nhập WTO: Bên cạnh những cơ hội có thể đạt được khi gia nhập WTO, Việt Nam phải đối đầu với không ít thách thức. Vì sự hội nhập, hợp tác nào cũng có những mặt ưu và khuyết điểm của nó. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế của Việt Nam và qua thực tế ở những nước đã là thành viên của WTO, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với những thách thức sau : • Một số cam kết song phương, ví dụ như giảm thuế suất thấp nhất áp dụng với một hàng nhập cụ thể từ một nước phải cho tất cả các thành viên hưởng. • Ta sẽ phải loại bỏ một số đối xử ưu đãi hơn cho hàng hoá và dịch vụ trong nước, chẳng hạn ưu về thuế tiêu thụ đặc biệt hay chi phí sử dụng điện nước… • Để có thể gia nhập WTO, Việt Nam phải có cam kết thuế trần hoặc ràng buộc thuế nhập khẩu với rất nhiều mặt hàng. Một số trong số các doanh nghiệp đang được hưởng đặc quyền sẽ mất toàn bộ hay một phần các đặc quyền bất cập với thực hành quốc tế. • Một số nhà sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ của ta sẽ phải chấp nhận những thách thức trực diện lớn trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong nước và nước ngoài. • Cần xây dựng cơ chế và bộ máy hành chính chống cạnh tranh không lành mạnh. Một số doanh nghiệp sẽ mất các đặc quyền, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và phân phối. • Ưu đãi là mầm mống của sự ỷ lại, đe doạ hạn chế sức cạnh tranh lâu dài khi phải cạnh tranh ở điều kiện không có ưu đãi. Trang 17
  18. • Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam thì những thách thức trên thực sự gây nhiều khó khăn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. • Việt Nam là một quốc gia mới phát triển, cơ cấu kinh tế tập trung cao ở lĩnh vực nông nghiệp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở ngành công nghiệp và dịch vụ chỉ mới bắt đầu. Nên khi thuế suất được áp dụng chung ở một mức nhất định cho mọi quốc gia tham gia hợp tác kinh tế thì áp lực cạnh tranh sẽ tăng cao. Khả năng ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh, thậm chí đến sự tồn tại của những doanh nghiệp trong nước là rất lớn. Mức thuế trần, chính sách bảo hộ giảm dần, áp lực cạnh tranh tăng cao … là những khó khăn tất yếu mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt. Nếu biết chủ đông hội nhập phù hợp với điều kiện cụ thể của mình sẽ vượt qua được trở ngại và tận dụng được các cơ hội để phát triển kinh tế đất nước, trụ vững trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt hiện nay. • Ngược lại nếu không xây dựng được cơ cấu kinh tế có khả năng cạnh tranh cao, thích ứng với sự vận động ngày càng linh hoạt trên thị trường thế giới thì không những bỏ qua cơ hội tự khẳng định ưu thế của đất nước thông qua khai thác lợi thế so sánh mà còn phải đối diện với những thực tế không thân thiện của quá trình hội nhập. Vấn đề ở đây là xây dựng cơ cấu kinh tế không chỉ hướng theo yêu cầu phát triển trong nước mà phải đáp ứng nhu cầu thị trường nước ngoài. • Để có thể đứng vững trong công cuộc hội nhập, không những chúng ta phải tìm hiểu kỹ để nắm bắt những cơ hội và loại bỏ những nguy cơ mà chúng ta còn phải có những chuẩn bị về chính sách thương mại, hệ thống pháp luật,… sao cho phù hợp với các quy định và đòi hỏi của WTO, tổ chức mà chúng ta cần phải tham gia. Giải pháp: 1. Chuẩn bị về chính sách mở cửa thương mại: • Việc gia nhập tổ chức WTO, chúng ta phải mở cửa thị trường theo phương thức có đi có lại với 3 nội dung chính: mở cửa thị trường hàng hóa (giảm thuế quan, bải bỏ hàng rào phi thuế quan) mở cửa thị trường đầu tư, dịch vụ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. 1.1Mở cửa thị trường hàng hóa thông qua cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan: • Việt Nam cam kết ràng buộc các mức thuế quan của mình. Khi đó thuế đánh trên một sản phẩm được duy trì ở mức bằng hoặc thấp hơn mức cam kết. • Mô hình cắt giảm thuế quan mạnh mẽ như “cắt giảm thuế quan theo ngành” và hài hòa hóa thuế quan” theo đó thuế quan của các sản phẩm liên quan đều được cam kết ở mức rất thấp, chủ yếu là 0%. Các ngành chủ yếu đã được giảm thuế quan theo mô hình này là các sản phẩm công nghệ thông tin, dược phẩm, hóa chất, thiết bị xây dựng, thiết bị y tế, máy móc công nghiệp, đồ gia dụng, bia rượu và sắt thép. • Chúng ta phải đàm phán song phương với các thành viên WTO để họ đồng ý kết nạp Việt Nam vào tổ chức này. Lúc đó họ sẽ yêu cầu Việt Nam giảm thuế đáng kể đối với những mặt hàng mà họ có lợi ích. • Như vậy thực hiện nghĩa vụ giảm thuế sẽ làm giảm đầu vào cho nguyên liệu sản xuất. Điều này tưởng chừng như sẽ dẫn đến việc nhập siêu nhưng thực chất sẽ gây cho các doanh nghiệp Việt Nam một áp lực cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập. Chỉ những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực mới có khả năng tồn tại và phát triển. • Theo qui định của WTO, như vậy sau khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam không được áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu và không được phép thu các khoản phí và phụ thu vì mục đích bảo hộ hay thu ngân sách. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại vi phạm nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc hoặc gây hạn chế hay bóp méo thương mại Trang 18
  19. như qui định về tỉ lệ nội địa hoá hoặc hạn chế tiếp cận ngoại hối cũng bị cấm áp dụng. • Như vậy, Việt Nam sẽ không được phép duy trì các biện pháp “cấm nhập khẩu” hoặc tương tự hoặc các biện pháp mang tính chất hạn ngạch kiểu chỉ tiêu định hướng sẽ phải loại bỏ. Các ngành hàng như xi măng, thuốc lá, ô tô, xe máy, xăng dầu… là những mặt hàng được bảo hộ trực tiếp hay gián tiếp sẽ phải đối diện với những khó khăn về cạnh tranh. 1.2Mở cửa thị trường dịch vụ: • Tự do thương mại dịch vụ nghĩa là mở cửa thị trường dịch vụ, không phân biệt đối xử với dịch vụ nước ngoài cũng như nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. • Về khách quan, hiệu quả của thương mại dịch vụ luôn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tập trung vốn đầu tư và đặc biệt là các ứng dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại điển hình như ngành viễn thông, tài chính, tư vấn kiến trúc, kỹ thuật hàng không…. Các nước phát triển hầu như có ưu thế cạnh tranh tuyệt đối trong thương mại dịch vụ. Do đó, tự do hóa thương mại dịch vụ có thể sẽ buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt trong khi các yếu tố căn bản về vốn và công nghệ chưa sẵn sàng. Thực tiễn cho thấy mở cửa thị trường thương mại ngày càng đối trọng quan trọng mà các nước phát triển muốn nhận được từ các nước đang phát triển để đổi lại sự nhượng bộ của họ trong các lãnh vực thương mại khác. 1.3Bảo vệ quyền sở hửu trí tuệ: • Để thực hiện các nghĩa vụ khi đàm phán gia nhập WTO hoặc là thành viên của tổ chức này, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể phải mở rộng phạm vi bảo hộ với các đối tượng sở hữu trí tuệ và áp dụng hệ thống thực thi hiệu quả các quyền sở hữu trí tuệ. • Như vậy, sẽ đảm bảo cho hàng hóa Việt Nam được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở tất cả các nước thành viên WTO. Tuy nhiên các doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn để có được các thiết kế, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sao chép, cho thuê các tác phẩm văn học nghệ thuật mà lâu nay chúng ta chỉ trả những chi phí rất thấp. • Như vậy chúng ta cần bỏ ra thêm một chi phí đáng kể để thực thi quyền này, làm cho sản phẩm có một mức giá cao hơn. Nhưng đổi lại hàng hóa xuất khẩu của chúng ta được thừa nhận và đánh giá cao. 2. Nâng cao tính cạnh tranh của kinh tế việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: • Việt Nam với chủ trương: “Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc và văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”, thì hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn nhân lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế quốc tế nói chung, vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế đất nước. Hội nhập giúp cho việc mở rộng kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. • Trên cơ sở phân tích những cơ hội mà nền kinh tế Việt Nam có được cũng như những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế (khi gia nhập WTO), để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam Đảng và Nhà nước ta cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia của mà cốt lõi là hệ thống các chính sách Trang 19
  20. cạnh tranh (dưới 3 gốc độ nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa). 2.1 Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế: • Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như: tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao, (2001 6,9%, năm 2002 là 7, 04%; năm 2003 là 7,2-7,3%), cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trong của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. Cơ cấu của từng ngành cũng có sự chuyển dịch dần theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh hơn đối với thị trường trong và ngoài nước. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng (năm 2003 chiếm tới 35,6% GDP), các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên. • Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với mức đầu tư, cơ cấu chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy được lợi thế cạnh tranh của ngành, sản phẩm. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua hệ thống điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. • Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cần phải dựa trên việc phát huy các thế mạnh, các lợi thế so sánh quốc tế của đất nước, gắn với nhu cầu trong nước và ngoài nước thì mới phát huy được hiệu quả và hỗ trợ cho tiến trình hội nhập. Xác định những ngành mũi nhọn, những ngành, hàng, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển trong 10-20 năm tới, những ngành cần chuyên môn hoá…để làm cơ sở xây dựng các lộ trình mở cửa và các chính sách bảo hộ cụ thể theo phương châm có chọn lọc , hợp lý và có thời hạn. • Sự chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu về hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, lao động…với nước ngoài sẽ tác động tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Cần xác định được những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để tìm giải pháp cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam. Trước tiên cần khẳng định được những cải cách căn bản và đồng bộ về hệ thống chính sách, pháp luật về XNK phù hợp với thể chế tương ứng của WTO, ASEAN…(gồm các quy định về kinh doanh, về thuế, về ngân hàng, về thủ tục hải quan…). Tiếp theo là tăng cường các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, dầu khí, những ngành ta có thế mạnh về tài nguyên, nguyên liệu và lao động vì triển vọng tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào các doanh nghiệp FDI (chiếm gần 50% kim ngạch XK của toàn quốc). Cơ cấu chuyển dịch trong nước phải làm cho tỷ trọng hàng thô hoặc sơ chế giảm và làm tăng sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo, các dịch vụ và sản phẩm của các ngành có công nghệ cao, hàm lượng chất xám nhiều phải chiếm vị trí ngày càng cao. Bên cạnh đó, thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế. Thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký và sẽ ký, đồng thời cần công bố công khai thời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối tác lớn như: EU, Mỹ, Nhật Bản, để mở rộng thị trường , tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghiệm quản lý…. 2.2 Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới: • Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tất yếu khách quan, không doanh nghiệp nào có thể né tránh được, tư tưởng bảo hộ trông chờ vào Nhà nước cũng sẽ bị đào thải. Vì vậy doanh nghiệp Việt Nam (đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ) cần phải có quá trình chuẩn Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
31=>1