« Home « Kết quả tìm kiếm

Đồ án tốt nghiệp Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN free trade area: AFTA)


Tóm tắt Xem thử

- Chương II: HỘI NHẬP AFTA: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM..
- Về phía doanh nghiệp công nghiệp VN 2.
- Đồng thời cũng là vấn đề hết sức mới mẽ đôí với các doanh nghiệp Việt Nam vốn vẫn quen với “vòng tay bảo hộ ”của Nhà Nước.
- Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như phải gánh vác các nghĩa vụ về tài chính, giảm thuế cũng như các miễn giảm khácv.v..(các quốc gia trong hiệp hội mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA.
- Do diều kiện cụ thể của mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế còn khác nhau, các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong điều kiện hội nhập cũng không giống nhau nên mức độ thu lợi cũng có thể khác nhau.
- Trước sự cạnh tranh khốc liệt khi nhà nước giảm thuế theo CEPT sẽ buộc cả phiá nhà nước và phía các doanh nghiệp công nghiệp cố gắng hội nhập, có những thay đổi trong tư duy, trong chính sách , chiến lược để tạo ra môi trường pháp lý, kinh doanh, đầu tư hiệu quả hơn, học hỏi, tiếp thu nâng cao trình độ để có thể tham gia vaò cuộc cạnh tranh đầy khốc liệt..
- CHƯƠNG II: HỘI NHẬP AFTA –CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.
- Công nghiệp có mức tăng trưởng cao đạt 15,7% năm 2000 so với 1999, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,5%, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5.
- khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%..
- Các doanh nghiệp nhà nước đã được cải tổ, sắp xếp lại sản xuất nên số doanh nghiệp nhà nước giảm từ 1993 năm 1995 xuống còn 1786 năm 2000.
- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được tăng lên về số lượng , giai đoạn 1996-2000 tăng thêm hơn 500 doanh nghiệp .Vốn đầu tư tăng 28,5%/ năm..
- Cơ sở hạ tầng , máy móc thiết bị của các doanh nghiệp còn thiếu đồng bộ và lạc hậu.
- Những khó khăn về vốn về thị trường cộng với sự yếu kém, lỏng lẻo, công kềnh của bộ máy quản lý doanh nghiệp đã dẫn tới tình trạng thua lỗ.
- Trong khi đó các DNVN cho đến nay vẫn chưa xác định được nội dụng hoạt động và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trước sự cọ sát với các đối tác doanh nghiệp trong khu vực..
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vốn và qui mô nhỏ, sợ thất bại chưa dám đầu tư sản xuất kinh doanh với những cơ hội đem lại lợi nhuận lớn và độ rủi ro cao, thực sự chưa đáng coi là nhà kinh doanh của thời kỳ hiện đại..
- 2/Vị thế hiện nay của các doanh nghiệp CNVN trong khu vực, 2.1/ Về mậu dịch:.
- Các mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là chủ yếu là nông sản thô, thực phẩm chiếm 48.
- nhiên liệu chiếm 34% và các mặt hàng chế tạo chiếm 18% (số liệu năm 1994) nghĩa là khi tham gia vào CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế quan ít hơn so với các doanh nghiệp các nước trong khu vực..
- Khoảng cách giữa các mức thuế hiện hành và mức thuế dưới 5% sau khi thực hiện AFTA đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến mà một số doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng cường xuất khẩu trong tương lai gần như đồ nhựa, da, cao su, dệt may, đá quý,… không lớn..
- Đối với quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ngoài ASEAN thì lợi ích thu được đối với các doanh nghiệp sản xuất là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được vật tư đầu vào với giá hạ hơn từ các nước ASEAN góp phần tăng cường khối lượng hàng hoá xuất khẩu.
- Trong số 15 nhóm hàng giảm thuế nhanh, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới khó có thể có sản phẩm để xuất khẩu.
- Hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất vừa chưa có chất lượng được tin cậy lại chưa gây được ấn tượng về hình thức, kiểu dáng.
- Các Doanh Nghiệp Việt Nam có thế mạnh ở những ngành sử dụng nhiều lao động do tiền lương ỏ Vệt Nam tươngđối thấp so với các nước ASEAN khác.
- Do vậy, việc tham gia AFTA chưa có tác động quan trọng đến các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng sử dụng nhiều lao động.
- Thông qua các nguyên tắc này, khi các doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA , các sản phẩm sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi thấp hơn cả thuế suất tối hậu quốc (MFN) mà các nước ASEAN giành cho các nước thành viên WTO, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam có thể thâm nhập thị trường các nước ASEAN..
- Thứ hai, thông qua AFTA, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có cơ thuận lợi mở rộng hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, mua được nguồn nguyên liệu đầu vào rẻ hơn từ các nước ASEAN, tận dụng lợi thế sẵn có về nhân công, tài nguyên thiên nhiên trong nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh..
- Đây là cơ hội không dễ có được đối với bất cứ một doanh nghiệp nào.
- Thứ ba, khi tham gia AFTA, các DNCNVN có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, tranh thủ và bổ sung các lợi thế sẳn có giữa các doanh nghiệp trong nội bộ khu vực..
- Ngoài ra trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu kỹ thuật công nghệ, đặc biệt đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ các nước ASEAN.
- Các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt Nam sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế Những doanh nghiệp vốn vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởỉ những doanh nghiệp nứơc ngoài hay doanh.
- Thứ năm, vị thế của các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt Nam được cải thiện nhờ quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ khu vực và thế giới.
- Thứ hai, hiện trạng các DNCNVN hiện có khoảng 53000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với gần 3 triệu lao động.
- Tuy nhiên, nếu so sánh với các doanh nghiệp của các nước ASEAN, phần lớn các DNCNVN là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh.
- Đối với doanh nghiệp tư nhân, bao gồm 23000 doanh nghiệp vốn tài sản cố định chỉ chiếm 16% tổng số vốn tài sản cố định của doanh nghiệp nhà nước.
- Hơn nữa trang thiết bị máy móc của doanh nghiệp CNVN phần lớn lạc hậu, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu lớn hơn nhiều so với các doanh nghiệp của một số nước ASEAN khác.
- trình độ công nghệ của các doanh nghiệp CNVN tụt hậu khoảng 25-30 năm so với Thái Lan dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn từ 30-50% so với các đối tác ASEAN khác.
- Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thực hiện còn chậm do nhiều nguyên nhân(cơ sở pháp lý, tâm lý do dự, thói quen bao cấp, khả năng kinh doanh.
- Do đó khả năng cạnh tranh tính năng động của các DNCNVN nhìn chung còn yếu.Khi hội nhập vào AFTA với môi trường kinh doanh mới mang tính cạnh tranh đầy khốc liệt thì nguy cơ các doanh nghiệp CNVN thua ngay trên sân nhà do các sản phẩm hàng hoá của mình không thể cạnh tranh được với sản phẩm của các nước ASEAN có giá thấp hơn chất lượng cao hơn, mẩu mã phong phú hơn, là điều có thể thấy trước.
- Nếu so sánh với tiềm năng, nguồn vốn của doanh nghiệp một số nước ASEAN khác (Singapo, Thái Lan, Maliaxia.
- Thực tế cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng với các doanh nghiệp hiện nay thấp khoảng 1% kèm theo các thủ tục vay vốn đơn giản nhưng cũng không thu hút được nhiều doanh nghiệp vay vốn.
- Sở dĩ có tình trạng này là do các doanh nghiệp lúng túng khi làm thủ tục giải ngân cũng như khó khăn tìm đầu ra cho nơi tiêu thụ sản phẩm.
- Chúnh vì vậy dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh cần có vốn đầu tư chưa được đáp ứng kịp thời.
- Điều này hết sức bất lợi với các DNCNVN khi hội nhập AFTA, doanh nghiệp cần vốn để đầu tư, thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao được khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khu vực.
- Trước hết, mức độ phổ cập các thông tin liên quan đến vấn đề AFTA đối vói các doanh nghiệp còn thiếu, không đồng bộ.
- Nội dung của chương trình AFTA còn mang tính khái quát mà chưa có những nội dung cụ thể gắn với mục tiêu và chính sách hội nhập kinh tế của doanh nghiệp , chưa có các biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi trường mở cửa, không còn hàng rào bảo hộ.
- AFTA nhìn chung các doanh nghiệp ( kể cả các doanh nghiệp lớn của Nhà Nước ) vẫn chưa thực sự quan tâm đến chương trình này.
- Nhìn chung, các doanh nghiệp chưa định ra được chiến lược và chính sách cạnh tranh sản phẩm để đến thời điểm 2006 khi kết thúc chương trình tự do hoá thương mại của VN trong khuôn khổ AFTA, các DNCNVN có khả năng chủ động cạnh tranh để chiếm phần tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và khu vực.
- nay chủ yếu là các sản phẩm sơ chế, sử dụng lao động, do đó giá trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh yếu so với các doanh nghiệp của một số nước ASEAN khác.
- Công tác tổ chức thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp chưa cao.
- Các cơ quan quản lý nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng, hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu..
- Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của DNCNVN mà còn làm giảm tốc độ đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp nước ngoài tại VN.
- Kết quả dẫn đến hiện tượng tồn đọng vốn lưu chuyển cũng như làm tăng lãi suất vay ngân hàng của các doanh nghiệp .
- Các DNCNVN phải coi những tác động tích cực đó là cơ bản và là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển .
- Về bản chất, hội nhập tức là mở cửa kinh tế, mở cửa thị trường trong nước, chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên “sân nhà” theo những luật chơi chung do cộng đồng kinh tế quy định.
- Do đó Doanh Nghiệp cần phải tự mình đưa ra phương hướng , giải pháp để tồn tại và phát triển cùng với sự hỗ trợ từ phía Nhà Nước.
- Những điều này không mới nhưng nhiều Doanh Nghiệp có thể không đánh giá hết tầm quan trọng của chúng..
- Tự kiểm tra và đánh giá về Doanh Nghiệp mình.
- Cần xem xét môi trường rộng hơn xung quanh, đặc biệt là những thay đổi đang diễn ra, và xác định xem chúng giúp ích cho sự phát triển của Doanh Nghiệp hay cản trở nó..
- Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức sẽ giúp cho Doanh Nghiệp tự tin trong hoạt động.
- Điểm mạnh và cơ hội sẽ giúp Doanh Nghiệp phát triển một cách hiệu quả nhất cũng.
- như những điểm yếu và nguy cơ cần khắc phục để ngăn ngừa không cho chúng làm hại dến sự phát triển của Doanh nghiệp..
- Cải thiện chất lượng kinh doanh của Doanh Nghiệp để nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của Doanh Nghiệp.
- Nói đến khả năng cạnh tranh ta thường nói đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giá cả… xem xét trong mối tương quan so sánh với các Doanh Nghiệp khác.
- Sự tồn tại và phát triển của một Doanh Nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào năng lực cạnh tranh.
- Vì vậy nâng cao khả năng cạnh tranh phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của Doanh Nghiệp.
- Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Doanh Nghiệp phải có các biện pháp cải thiện chất lượng hiệu quả hoạt động của Doanh Nghiệp, cần tập trung vào một số vấn đề sau:.
- Nhiều Doanh Nghiệp cho rằng phải thường xuyên đổi mới Công Nghệ thì mới đảm bảo được khả năng cạnh trạnh.
- Với trang thiết bị là như nhau nhưng Doanh Nghiệp vẫn có thể có năng suất lao động khác nhau, chí phí khác nhau, hiệu quả khác nhau, nói cách khác là sức cạnh tranh klhác nhau.
- Nhiều khi thành công cỉa Doanh Nghiệp lại bắt đầu từ những việc tưởng như là nhỏ nhặt đó..
- Hai là, đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ gắn với năng lực quản lý và trình độ tay nghề của cán bộ, công nhân viên trong Doanh Nghiệp để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
- Đối với nhiều Doanh Nghiệp của ta hiện nay, đây là khâu yếu và còn ở dưới tầm yêu cầu, do đó cần đặc biệt coi trọng vấn đề đổi mới công nghệ.
- Mỗi Doanh Nghiệp cần xuất phát từ nhu cầu thị trường về số lượng, chủng loại chất lượng sản phẩm và kỹ năng điều kiện của mình mà lựa chọn, trình độ và phương thức đổi mới công nghệ thích hợp.
- các sản phẩm của Doanh Nghiệp phải phấn đấu đạt tiêu chuẩn sản phẩm quốc tế, cải tiến chất lượng bao bì và nhất thiết các sản phẩm phải thực hiện mã vạch.
- Có lẽ đã đến lúc các Doanh Nghiệp phải nghiên cứu áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 như là giấy thông hành cho các Doanh Nghiệp đưa sản phẩm của mình ra thị trường thế giới..
- Chủ động xây dựng chiến lược hội nhập cho các Doanh Nghiệp..
- Để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hội nhập và tàon cầu hoá kinh tế như hiện nay thì bên cạnh chiến lược tổng thể của Nhà Nước, Bộ Chủ Quản, từng Doanh Nghiệp cũng phải xây dựng chiến lược cho Doanh Nghiệp.
- Thứ nhất: Phân tích lợi thế cạnh tranh của Doanh Nghiệp tương quan với các Doanh Nghiệp cùng ngành, các đối tác cạnh tranh:.
- Phân tích các nhân tố cạnh tranh chủ yếu đối với Doanh Nghiệp: các đối thủ cùng trong ngành tương tự, các đối thủ mới và tiềm năng, mối quan hệ giữa Doanh Nghiệp với các nhà cung cấp nguyên vật liệu, vốn đầu tư, quan hệ khách hàng….
- Thứ ba, từ cơ sở trên các DNCNVN xác định chiến lược kinh doanh của Doanh Nghiệp..
- Một là, chọn lựa chiến lược cụ thể cho Doanh Nghiệp trên cơ sở phân tích các yếu tố lợi thế của Doanh Nghiệp, về sản phẩm , chi phí sản xuất , yếu tố giá thành , khả năng tiêu thụ sản phẩm…..
- Ba là sản phẩm của từng Doanh Nghiệp phải mang những đặc trưng riêng về bí quyết sản phẩm , nhãn máy các kênh kiểm soát và phân phối sản phẩm.
- Các doanh nghiệp cần phải triệt để tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ để có được những thông tin đáng tin cậy.
- Phòng thương mại và công ty Việt Nam, Bộ thương mại, Tham tán thương mại của các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài và nhiều địa chỉ khác có thể là những điạ chỉ mà doanh nghiệp sẽ tìm được sự giúp đỡ cần thiết..
- Từng bước cải thiện chất lượng môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
- Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là sự hội tụ của nhiều yếu tố khác nhau bao gồm các biện pháp vĩ mô và vi mô nhằm tạo cho doanh nghiệp biết sử dụng khai thác quy trình từ sản xuất đến lưu thông hàng hoá.
- Các yếu tố này bao gồm biện pháp xúc tiến xuất khẩu, đầu tư, cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý và tay nghề, các chính sách hỗ trợ sản phẩm… Quan trọng hơn cả là các doanh nghiệp phải xác định việc tham gia AFTA là nhiệm vụ, trách nhiệm của chính Doanh Nghiệp để tồn tại, phát triển trong điều kiện cạnh tranh mở cửa nền kinh tế..
- Các Doanh Nghiệp cần phải ý thức được rằng nếu đơn độc sẽ rất khó có khả năng tồn tại..
- Khả năng cạnh tranh không phải khi nào cũng đưa lại hiệu quả cao nếu như các Doanh Nghiệp không có sự cộng tác với nhau.
- Do vậy trong thời gian tới các Doanh nghiệp cần có sự cộng tác, sự phối hợp tốt hơn thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức đại diện của Doanh Nghiệp..
- Hợp tác trong kinh doanh không những mang lại cho các DN cơ hội học tập lẫn nhau, cả những kinh nghiệm thành công lẫn thất bại, mà còn tăng thêm trọng lượng, tiếng nói của khu vực của Doanh Nghiệp.
- Ngoài ra, các Doanh Nghiệp phải chủ động đưa ra các danh mục sản phẩm có khả năng cạnh tranh, giảm bớt hoặc xoá bỏ các danh mục sản phẩm kém hoặc không có lợi thế cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh ASEAN nhằm tối ưu hoá hiệu quả kinh doanh của DNCNVN trong quá trình hội nhập kinh tế.
- Do đó vấn đề đặt ra ở đây là trước khi đưa ra chính sách liên quan đến AFTA, nhà nước cần có sự tham khảo các ý kiến đóng góp của các nhà Doanh Nghiệp nhằm tránh tình trạng các chính sách đưa ra không hiệu quả hoặc thay đổi chính sách liên tục gây nên sự xáo trộn về kế hoạch sản xuất của các Doanh nghiệp.
- xin cho ” về hạn ngạch qoata XNK sang cơ chế đấu thầu hoặc cơ chế tự do kinh doanh của Doanh Nghiệp.
- Các Doanh Nghiệp tư nhân do gắn bó về lợi ích một cách cụ thể nên thường chú trọng hơn đến mẫu mã, quy cách sản phẩm và thực tiễn cho thấy động lực thúc đấy quá trình tiến triển AFTA là khu vực kinh tế tư nhân.
- Nó vừa là cơ hội cho các Doanh Nghiệp mở rộng thị trường cũng như tạo điều kiện cho các khu vực này phát triển.
- Trong thời gian để các Doanh Nghiệp nước ta hội nhập thì Nhà Nước phải nghiêm cấm chặt chẽ không để hàng lậu đưa vào nước ta để các Doanh Nghiệp nước ta có thời gian củng cố địa vị vai trò thị trường trong nước, tránh tình trạng hụt hẫng khi mở cửa, xoá bỏ hàng rào thuế quan..
- Tóm lại, việc trở thành thành viên chính thức của khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) đã đặt các Doanh Nghiệp công nghiệp Việt Nam trước những cơ hội to lớn cũng như những thách thức ngặt nghèo.
- Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tận dụng được nguồn nguyên liệu mới cung cách quản lý và quản trị kinh doanh tiên tiến hơn,hàng hoá dể thâm nhập vào các nước Asean hơn..
- Tuy nhiên , cách thức đặt ra cũng không phải là nhỏ mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, doanh nghiệp công nghiệp Việt nam phải đối phó với các doanh nghiệp Asean có khả năng tài chính và kỷ thuật hùng hậu trong khi xuất phát điểm của chúng ta thấp hơn hẳn họ: thể chế thị trường còn yếu kém, lập pháp chưa ổn định, cung cách làm ăn còn lạc hậu, thiếu hiệu quả,khả năng về vốn và công nghệ còn kém xa...
- 13) Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế KT&

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt