« Home « Kết quả tìm kiếm

Để kinh tế tư nhân trở thành động lực phát triển


Tóm tắt Xem thử

- ĐỂ KINH TẾ TƯ NHÂN TRỞ THÀNH ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN.
- Đại hội XII (2016), Đảng đã khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”.
- hạn chế trong năng lực của các doanh nghiệp KTTN.
- DNNN chưa thực hiện tốt vai trò là nòng cốt của kinh tế Nhà nước trong phát triển kinh tế.
- Từ khóa: Kinh tế tư nhân, động lực phát triển, vai trò, doanh nghiệp Nhà nước Giới thiệu:.
- Với chủ trương trong Đại hội XII (2016) “Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế.
- Bố trí nguồn lực tài chính phù hợp để tham gia và thúc đẩy đầu tư của khu vực ngoài nhà nước”, từ năm 2017 khu vực kinh tế tư nhân dần phát triển lớn mạnh và đa dạng, trở thành.
- Kết quả bước đầu cho thấy những tư duy, nhận thức và hướng đi của Đảng, Chính phủ là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện qua cơ cấu kinh tế theo khu vực kinh tế đã có những chuyển biến rõ rệt với sự giảm dần tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước, tăng dần tỷ trọng của KTTN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- về hiệu quả tổng thể nền kinh tế đồng thời phù hợp với xu hướng của các nước trên thế giới.
- Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả đi vào phân tích những đóng góp của KTTN với sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua, đồng thời xem xét những hạn chế, bất cập từ nội tại khu vực KTTN cũng như những ảnh hưởng từ khu vực DNNN và doanh nghiệp FDI mang lại.
- Hay nói một cách khác, nhóm tác giả đi trả lời câu hỏi “vai trò của KTTN trong mối quan hệ với các khu vực kinh tế khác như thế nào?” và “có những thách thức gì cần phải vượt qua để KTTN thực sự là một động lực phát triển?”..
- Kinh tế tƣ nhân với nhiều đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
- Thứ nhất, KTTN góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả nước.
- Từ khi có Luật Doanh nghiệp ra đời và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương V khoá IX, KTTN đã đóng góp vào GDP và công nghiệp rất cao, nhanh hơn so với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
- Thứ hai, cơ cấu đóng góp cho phát triển kinh tế của KTTN ngày càng chiếm ưu thế.
- Sau các lần sửa đổi, bổ sung năm 2005, năm 2009 và đặc biệt những sửa đổi căn bản trong Luật Doanh nghiệp (2014), Luật Đầu tư (2014) được xem như cuộc đại phá thể chế lần 2 (lần 1 là năm 2000) đã góp phần làm cho việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư.
- Nhờ vậy mà số lượng doanh nghiệp thành lập mới đã tăng từ 74.842 doanh nghiệp năm 2014 lên 110.100 doanh nghiệp năm 2016.
- tổng số vốn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và bổ sung vào nền kinh tế tăng gấp 2,5 lần từ mức 1.027,9 nghìn tỷ đồng năm 2014 lên mức 2.520,9 nghìn tỷ đồng năm 2016.
- Năm 2017 tiếp tục một năm số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp mạnh mẽ với 126.859 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (tăng 15,2% so với 2016), với tổng vốn đăng ký tăng 45,4% so với năm 2016.
- Cùng với sự tăng lên về số lượng doanh nghiệp và vốn đăng ký đầu tư đã làm tăng cả về số lượng và tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Đây là kết quả của tiến trình cổ phần hóa, tái cơ cấu DNNN đang tiếp tục được triển khai mạnh mẽ nhằm giảm số lượng DNNN trong các ngành, lĩnh vực, đồng thời chính sách khuyến khích tinh thần khởi sự kinh doanh nên số lượng doanh nghiệp thành lập mới liên tục gia tăng khi Đảng và Nhà nước nhận thấy cần phải cải tổ DNNN và ủng hộ cho KTTN phát triển..
- Cơ cấu và vốn đầu tƣ phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành phân theo thành phần kinh tế.
- Cùng với sự phát triển về số lượng doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc KTTN cũng được cải thiện, qua đó tạo khả năng đóng góp của KTTN vào ngân sách nhà nước.
- Tỷ trọng doanh thu của các doanh nghiệp này trong tổng doanh thu của toàn bộ nền kinh tế cũng theo xu hướng tăng lên, tương đương (chiếm 52,6%) tổng tỷ trọng của khu vực DNNN và doanh nghiệp, mặc dù KTTN chịu ảnh hưởng khi nền kinh tế gặp khó khăn dẫn đến lợi nhuận trước thuế sụt giảm đáng kể so với năm 2011..
- đóng góp của doanh nghiệp FDI và tiếp tục tăng từ 11,71% năm 2011 lên 14,26% năm 2016 và 19,63% theo số dự toán 2017..
- Thu ngân sách nhà nƣớc theo thành phần kinh tế.
- Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp có vốn ĐTNN Khu vực công thương nghiệp.
- đoạn KTTN luôn chiếm ưu thế vượt trội về lao động, số lượng lao động trên 15 tuổi đang làm việc khu vực KTTN theo xu hướng tăng, với số lao động trung bình trong cả giai đoạn khoảng 45 nghìn người, với tỷ lệ duy trì quanh mức 86% gấp hơn 8 lần tỷ lệ lao động làm việc trong DNNN và gấp khoảng 20 lần tỷ lệ lao động làm việc trong doanh nghiệp FDI..
- Năm 2016 với khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế, KTTN đã thu hút trung bình khoảng 60% tổng lực lượng lao động trong các doanh nghiệp và giải quyết khoảng 1,2 triệu việc làm mỗi năm góp phần không nhỏ trong công tác an sinh xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp, thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, giải quyết lao động dôi dư từ khu vực nhà nước, từ nông thôn qua tạo việc làm mới cho người lao động.
- Trong các loại hình doanh nghiệp thuộc KTTN, loại hình công ty TNHH thu hút đông đảo lực lượng lao động nhất, chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng số lao động trong các doanh nghiệp thuộc KTTN..
- Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hàng năm và cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế.
- Năm 2015 Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp ngoài nhà nước .
- Doanh nghiệp FDI .
- Nguồn: Tổng cục Thống kê Bên cạnh đó, mức thu nhập cho người lao động trong các doanh nghiệp thuộc KTTN được cải thiện đáng kể.
- Tốc độ tăng lương này cao hơn h n khu vực doanh nghiệp FDI (4 lần) và thấp hơn không.
- loại hình doanh nghiệp tư nhân có mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất với 37,40 triệu đồng/người/năm..
- Để kinh tế tƣ nhân thực sự là động lực phát triển – còn nhiều bất cập, rào cản.
- Mặc dù KTTN trong giai đoạn vừa qua đã tự chứng minh vai trò của mình trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với những đóng góp ngày càng lớn..
- Hiệu quả hoạt động của KTTN là vấn đề đáng quan tâm: Trong giai đoạn doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng doanh nghiệp, số lao động, doanh thu và nguồn vốn.
- Tuy nhiên, do tốc độ tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp nhanh hơn tốc độ tăng trưởng về lao động dẫn đến sự thu hẹp về quy mô doanh nghiệp theo lao động.
- Lao động bình quân trong một doanh nghiệp đã giảm từ 31 lao động năm 2002 xuống còn 18 lao động năm 2016.
- Doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa chỉ chiếm gần 4% 1 .
- Mặc dù doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế cải thiện, tuy nhiên tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ đã tăng mạnh từ 20,1% năm 2002 lên mức 50% năm 2015..
- Hiệu số giữa tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi với tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ thu hẹp đáng kể từ mức 42,51 năm 2008 xuống mức 0 năm 2015..
- 1 VCCI (2017), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2016.
- Hiệu quả sử dụng nguồn vốn của KTTN chưa thực sự tốt do doanh nghiệp chủ yếu dựa vào các khoản nợ (vay ngân hàng, nợ nhà cung cấp.
- chỉ số vòng quay vốn giảm đáng kể từ mức 3 lần năm 2002 xuống mức 1,2 lần năm 2014, đã phản ánh doanh nghiệp thuộc KTTN không thuận lợi trong huy động vốn và sử dụng vốn chưa thực sự hiệu quả, không bền vững, lãng phí nguồn lực đầu tư, là một phần nguyên nhân dẫn đến chỉ số ICOR của nền kinh tế luôn cao 3.
- Khả năng tạo lợi nhuận từ tài sản, vốn tự có và doanh thu của các doanh nghiệp thuộc KTTN thấp nhất trong ba khu vực doanh nghiệp và theo xu hướng giảm 4 , đã phản ánh thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc khu vực này là chưa hiệu quả..
- KTTN phụ thuộc chủ yếu vào kinh tế cá thể: Hộ kinh doanh cá thể vẫn là thành phần chính yếu trong KTTN thể hiện qua 02 khía cạnh chính sau: (i) Xét về số lượng hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp chiếm trên 92%, các doanh nghiệp thuộc KTTN chỉ chiếm khoảng 8%.
- Phần lớn các doanh nghiệp thuộc KTTN sử dụng công nghệ lạc hậu so.
- 2 Theo tính toán của tác giả: Khả năng thanh toán hiện tại: các doanh nghiệp thuộc KTTN thấp nhất là 3 lần và cao nhất là 6,7 lần, khu vực doanh nghiệp nhà nước duy trì ở mức 2 lần và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xoay quanh mức 3 lần.
- Khả năng thanh toán nhanh: doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước dao động trong khoảng 1,2-1,5 lần.
- doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư Nhân bình quân là 3,6 lần.
- doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dao động trong khoảng 2,2-2,5 lần..
- 4 Hiệu suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) của doanh nghiệp thuộc KTTN theo xu hướng giảm trong giai đoạn 2002-2011 từ mức 6,6% xuống còn 4,3%, sau đó tăng mạnh lên mức 6,4% năm 2012 và tiếp tục xu hướng giảm giai đoạn 2013- 2015.
- Hiệu suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của doanh nghiệp thuộc KTTN giảm trong giai đoạn 2002-2010 từ mức 9,1% xuống còn 6%.
- doanh nghiệp thực hiện) và thị trường nội địa (39% doanh nghiệp thực hiện)..
- Trong khi đó, hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp thuộc KTTN tập trung chủ yếu ở khâu gia công lắp ráp, giá trị gia tăng thấp, doanh nghiệp thuộc KTTN trong các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ còn ít.
- Tỷ lệ doanh nghiệp thuộc khu vực này tham gia liên kết với các doanh nghiệp FDI cũng như chuỗi liên kết sản xuất còn rất khiêm tốn.
- Theo thống kê chỉ có 36% doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất (bao gồm cả xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp) trong khi với Malaysia, Thái Lan thì tỷ lệ này là gần 60%.
- và cũng chỉ có 21% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu so với 30% của Thái Lan, 46% của Malaysia nên việc hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa của vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và nâng cao năng suất là rất thấp..
- Năng lực quản trị của phần lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý kinh tế-xã hội, văn.
- 5 Khảo sát nghiên cứu giữa Viện Khoa học Lao động và Xã hội với tập đoàn Manpower: có 1/4 doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng lao động thiếu hiểu biết về công nghệ và khả năng sáng tạo, 1/5 nhận xét lao động thiếu khả năng thích nghi với công nghệ mới, 1/3 doanh nghiệp không tìm được lao động có kỹ năng mà họ cần.
- Đa số doanh nghiệp quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm chiến lược, thiếu kiến thức quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát triển thương hiệu (Trần Đình Thiên và nhóm nghiên cứu, 2013)..
- Năng lực tài chính yếu, khả năng tiếp cận vốn thấp nên KTTN hạn chế về khả năng tạo nguồn cho hoạt động: KTTN tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (trên 95%) nên nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh không lớn.
- Bên cạnh đó, thời gian phát triển KTTN ở nước ta còn rất ngắn so với các nước tư bản nên quá trình tập trung, tích lũy vốn, tài sản và kinh nghiệm còn yếu vì vậy khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng đối với các doanh nghiệp thuộc KTTN gặp nhiều khó khăn.
- Mặc dù doanh nghiệp thuộc KTTN là đối tượng khách hàng quan trọng của các tổ chức tín dụng với dư nợ gần 4 triệu tỷ đồng, tỷ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp này theo xu hướng tăng lên từ 53% năm 2014 lên tăng 62% năm 2015 và tính đến tháng 4-2017 là 66%.
- Tuy nhiên, theo dữ liệu từ điều tra Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2016 (PCI) khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp thuộc KTTN trong 5 năm gần đây không được cải thiện, tỷ lệ doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vay ngân hàng chỉ tăng nhẹ từ 1-2%/năm.
- Đặc biệt, các doanh nghiệp thuộc KTTN có quy mô nhỏ đang phải đi vay với chi phí “đắt” hơn, thậm chí phải vay nặng lãi, trong khi lãi suất ngân hàng có chiều hướng giảm..
- Đối với vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, DNNN chưa đủ tiềm lực để trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp trong nước với FDI và giúp các doanh nghiệp thuộc KTTN tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- DNNN chưa hỗ trợ được KTTN trở thành động lực của nền kinh tế trong khi lực lượng này chiếm chủ yếu trong các thành phần kinh tế và quy mô nhỏ, yếu về năng lực vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và trình độ quản trị doanh nghiệp..
- Nguyên nhân từ chính sách, thể chế và từ cơ chế quản lý hiện hành Thứ nhất, về tổng thể, hệ thống khung pháp lý - công cụ quản lý quan trọng nhất mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém: Tính đồng bộ, nhất quán giữa văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp chưa cao.
- Pháp luật về doanh nghiệp còn hay thay đổi, tính dài hạn và độ tin cậy không cao.
- Lần đầu tiên danh sách các doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn được ban hành thống nhất, công khai làm cơ sở để các đơn vị triển khai thực hiện, cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư.
- Thứ ba, mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp vẫn chậm được hoàn thiện.
- Đến nay, mô hình quản lý, giám sát vốn nhà nước, doanh nghiệp nhà nước của nước ta vẫn là mô hình phân tán.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã đặt mục tiêu cụ thể “Chậm nhất đến năm 2018, thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp”.
- Bên cạnh đó, việc đánh giá trình độ công nghệ, chủ trương thu hút đầu tư cũng không đồng nhất dẫn đến trường hợp một doanh nghiệp không đủ điều kiện đầu tư ở địa phương này nhưng vẫn được phê duyệt đầu tư ở địa phương khác.
- Hàm ý thách thức để kinh tế tƣ nhân trở thành động lực phát triển Nhìn nhận đúng vai trò của các khu vực doanh nghiệp ngay từ tư duy:.
- Có thể nhận thấy KTTN đã và đang có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh..
- giữa vai trò động lực của KTTN và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (mà trong đó chủ yếu là DNNN) trong phát triển kinh tế xã hội cũng cần tiếp tục làm rõ.
- Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã nhìn nhận về tổng thể, kinh tế nhà nước (trong đó có DNNN) đã có những đóng góp quan trọng, nhưng “vai trò của doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế còn hạn chế”.
- Doanh nghiệp FDI không chỉ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế mà còn là một công cụ để tăng năng lực của khu vực doanh nghiệp trong nước từ sự lan tỏa của chính các doanh nghiệp này.
- 10 Nghị quyết 103/NQ-CP cũng đã chỉ ra việc cần khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với nhau và với doanh nghiệp trong nước..
- chi phí trung gian, chi phí không chính thức cho doanh nghiệp.
- Trước mắt cần tập trung cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp thông qua việc rà soát, cắt giảm các chi phí liên quan đến khởi sự kinh doanh.
- (ii) Tập trung rà soát hoàn thiện khung pháp lý về quản lý nhà nước đối với KTTN theo phù hợp với cơ chế thị trường, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, hạn chế sử dụng công cụ hành chính để can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- (iv) Đổi mới phương thức, công cụ và bộ máy quản lý Nhà nước đối với KTTN theo hướng chuyển mạnh từ vai trò can thiệp trực tiếp sang quản lý và phục vụ phát triển 11 , tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp được tự do kinh doanh theo pháp luật, bình đ ng, cùng có lợi..
- Một thách thức lớn đặt ra đối với thu hút FDI trong giai đoạn này đó là tăng cường thu hút nhưng thu hút có chọn lọc những dự án có chất lượng, mang lại cơ hội và giá trị tối đa cho doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt cho KTTN, lại vừa hạn chế được những bất cập của FDI đã được nhận định.
- Hoàn thiện khung pháp lý có thể là một giải pháp cần được xem xét đầu tiên để đạt mục tiêu, nhưng phương thức, hướng đi và tính toán các yếu tố tác động mang tính quyết định, cùng với xây dựng một lộ trình lâu dài, chính sách có tính ổn định, môi trường cạnh tranh bình đ ng để các khu vực doanh nghiệp cùng phát triển không phải dễ vượt qua..
- Các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ có tiềm lực về tài chính mà còn có thể đem lại những kinh nghiệm quản lý, giám sát và công nghệ vào doanh nghiệp sau khi trở thành cổ đông trong DNNN cổ phần hóa.
- “Cần phải cho họ thấy được một quá trình cổ phần hóa và thoái vốn minh bạch, cung cấp cho họ đầy đủ các thông tin có liên quan về doanh nghiệp” 12.
- 12 Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Hiệp hội doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Hà Nội phát biểu tại hội thảo “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từ góc nhìn của nhà đầu tư nước ngoài”, http://petrotimes.vn .
- lực trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Tuy nhiên, nhìn nhận, đánh giá thực tiễn quá trình phát triển KTTN vẫn còn tồn tại nhiều bất cập “KTTN chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế” 13.
- Để phát triển KTTN đúng nghĩa là một động lực phát triển kinh tế, nhìn nhận đúng thực tế vai trò, vị trí của KTTN cũng như vai trò của DNNN và doanh nghiệp FDI trong phát triển kinh tế đất nước trong năm tới.
- CIEM (2017), Báo cáo về cổ đông chiến lược trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước..
- Nguyễn Đình Luận (2015), Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam..
- Trần Minh Tuấn (2017), Kinh tế tư nhân và những rào cản cần tháo gỡ để trở thành động lực quan trọng..
- World Bank (2014), Báo cáo “Phát triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao động cho một nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam”.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt