intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam thời kỳ hội nhập, những vấn đề đặt ra

Chia sẻ: ViSteveballmer ViSteveballmer | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

30
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết cho thấy hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang, sẽ là một xu hướng lớn mà bất kỳ một quốc gia nào trên con đường phát triển đều phải trải qua. Trong quá trình đó việc để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần tạo dựng cho đơn vị mình một mô hình văn hóa kinh doanh phù hợp nhằm tối ưu hóa lợi nhuận.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam thời kỳ hội nhập, những vấn đề đặt ra

  1. Nguyễn Duy Quý 167 XÂY DỰNG VĂN HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM THỜI KỲ HỘI NHẬP, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐĂT RA Nguyễn Duy Quý Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang, sẽ là một xu hướng lớn mà bất kỳ một quốc gia nào trên con đường phát triển đều phải trải qua. Trong quá trình đó việc để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần tạo dựng cho đơn vị mình một mô hình văn hóa kinh doanh phù hợp nhằm tối ưu hóa lợi nhuận. Xây dựng văn hóa kinh doanh là mục tiêu nhưng lại là thách thức lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ những hạn chế, bất cập trong văn hóa kinh doanh trong giới doanh nghiệp Việt Nam, từ đó tìm ra hướng đi cho doanh nghiệp, doanh nhân để có thể phát huy vai trò tích cực, chủ động của lực lượng này trong hội nhập, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững nền kinh tế đất nước trong thời gian tới. Từ khóa: Văn hóa kinh doanh, kinh tế thị trường, hội nhập, thách thức, doanh nghiệp 1. Kinh doanh là một hoạt động cơ bản mục đích sinh lợi1”. Đối với chủ thể kinh của xã hội loài người xuất hiện và đồng hành tế thì văn hóa tồn tại tiềm ẩn trong họ như cùng với kinh tế hàng hóa và thị trường. một hệ giá trị, nguồn lực. Để khơi dậy, phát Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện một tầng lớp huy vai trò của các giá trị văn hóa trong hoạt những người làm nghề kinh doanh (doanh động kinh doanh cần có thời gian, môi trường nhân). Nếu ta xem xét dưới góc độ công nghệ cũng như sự tác động phù hợp. Bên cạnh đó, - kỹ thuật thì hoạt động kinh doanh bao gồm cần nhìn nhận văn hóa kinh doanh là một bộ nhiều công đoạn trong một quá trình: đầu tư, phận, cái đặc thù so với văn hóa chung của sản xuất, marketing, dịch vụ bảo hành; mục dân tộc, do vậy cần tránh đồng nhất văn hóa đích cuối cùng của kinh doanh với tư cách là kinh doanh với văn hóa dân tộc, cũng như một nghề là đạt được, đem lại lợi nhuận cho phân biệt một cách rõ rang các đặc trưng văn chủ thể kinh doanh. Xã hội kinh doanh cần hóa mà các chủ thể kinh tế khác nhau tạo ra. cho cuộc sống cũng như cuộc sống cần kinh Có thể hiểu: “Văn hóa kinh doanh là việc doanh; kinh doanh là một nghề chính đáng sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt xuất phát từ nhu cầu cầu phát triển của xã hội, động kinh doanh của chủ thể, là văn hóa mà do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình đề kinh doanh như thế nào, đem lại lợi ích kinh doanh, hình thành nên kiểu kinh doanh cho ai? Đó chính là vấn đề của văn hóa kinh ổn định và đặc thù của họ2”. doanh “kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình 1. Luật doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1999, tr 7. đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc 2 . Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh, Nxb cung ứng các dịch vụ trên thị trường nhằm Chính trị quốc gia, HN, 2001, tr 71.
  2. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 168 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2. Ngày nay, vai trò của các nhân tố văn táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp hóa trong hoạt động kinh doanh ngày càng lên mọi luật lệ của loài người; được 300 phần lớn, hầu hết các doanh nghiệp, tập đoàn trong trăm thì không còn tội ác nào là nó không chiến lược phát triển của đơn vị đều quan dám phạm3”. Có thể thấy, những lời nhận xét tâm đến. Có thể thấy, văn hóa kinh doanh là nói trên không chỉ đúng với những nhà tư bản nguồn lực quan trọng, một dạng tài sản vô thời kỳ đầu của xã hội cộng nghiệp mà còn rất hình và là cách thức phát triển bền vững đối chuẩn xác với nhiều trường hợp, nhiều chủ với các chủ thể kinh tế. Chúng ta nhận thấy thể kinh doanh ngày nay. rằng, giữa văn hóa và kinh tế có sự tương tác Thực tế cho thấy, hiện nay chỉ có kinh với nhau, không thể có văn hóa suy đồi mà doanh một cách có văn hóa mới đạt được hiệu kinh tế lại phát triển cao. Văn hóa bao giờ quả cao và sự phát triển bền vững của các chủ cũng là động lực quan trọng đối với sự phát thể kinh tế. Đây cũng được xem là phương triển kinh tế, bên cạnh đó, kinh tế phát triển là thức kinh doanh của tương lai, bởi vì khi hoạt môi trường thuận lợi cho sự phát triển của văn động kinh doanh ngày càng phát triển, trong hóa, xã hội. Nói cách khác, văn hóa và kinh tế thời đại công nghệ thông tin, khách hàng ngày có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong càng được tiếp cận nhiều hơn các thông tin đó, kinh tế đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt tối xác thực về nhà kinh doanh, doanh nghiệp, thiểu của con người, sau đó là đảm bảo điều và đặc biệt là các thông số về sản phẩm thì kiện cho văn hóa phát triển, kinh tế khó có lối kinh doanh vô văn hóa sẽ mất dần không thể phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, văn gian tồn tại. hóa không chỉ phản ánh hoạt động kinh tế mà Các nhân tố văn hóa đã, đang tác động còn là yếu tố tác động đến hoạt đọng này. Với tích cực tới hoạt động kinh doanh, mặt khác mối quan hệ như vậy, sự phát triển của mỗi kinh doanh phát triển bền vững cũng có sự tác quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động hiệu động trở lại cổ vũ cho hoạt động văn hóa phát quả, có tốc độ cao, chỉ có được khi quốc gia triển. Dễ dàng nhận thấy điều đó qua việc đó đạt được sự phát triển hài hòa giữa kinh tế mua bản quyền truyền hình của các chương và văn hóa. Thực tế cho thấy hiện nay trong trình ăn khách hiện nay, hoặc qua giá trị của hoạt động kinh doanh đang tồn tại hai hình các thương hiệu hàng đầu. Mặt khác, hiện nay thức kinh doanh: kinh doanh có văn hóa và nhiều loại hình văn hóa, thể thao đang nhận kinh doanh không (vô, phi) văn hóa. được nhiều nguồn tài trợ của các tập đoàn, doanh nghiệp thành đạt. Chính những chủ Kinh doanh có văn hóa là lối kinh doanh thể kinh doanh khi quyết định tài trợ cho sự có mục đích và theo phương thức cùng đạt phát triển văn hóa đều đã nhận thức được vài đến cái lợi ích, cái thiện và cái đẹp, trong thực trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã tế có nhiều nhà kinh doanh đã dung tài sản hội nói chung, với kinh tế và kinh doanh nói của mình để làm từ thiện, lập các quỹ phát riêng; họ hiểu rằng kinh doanh cần dựa vào triển văn hóa, khoa học, công nghệ…quỹ Bill văn hóa và hướng tới các mục tiêu có tính & Melinda Gates; quỹ Ford…. văn hóa, mục tiêu nhân văn và phát triển bền Trái lại, lối kinh doanh vô văn hóa sẵn vững. sàng chà đạp lên mọi giá trị và khồng từ bất 3. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế kỳ thủ đoạn nào để kiềm lời. “Với một lợi hiện nay, có không ít doanh nghiệp Việt Nam nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. đã trưởng thành, trụ vững và phát triển mạnh Được bảo đảm 10 phần trăm lợi nhuận thì mẽ, mà nguyên nhân sâu xa chính là do các người ta có thể dung tư bản vào đâu cũng được; được 20 phần trăm thì nó hoạt bát hẳn 3 . C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc lên; được 50 phần tram thì nó trở nên thật sự gia, HN, 1993, t,23, tr1056.
  3. Nguyễn Duy Quý 169 doanh nghiệp này đã và đang coi trọng đúng không… ồ ạt vào kinh doanh tại Việt Nam mức việc xây dựng văn hóa kinh doanh cho trong thời gian tới đây. đơn vị mình. Tuy nhiên, hiện còn không ít 3.2. Thiếu minh bạch, nặng về “quan hệ”, doanh nhân, doanh nghiệp chưa nhận thức “dựa dẫm”, chạy chọt. Một thực tế, ở nước ta, được vai trò, động lực của văn hóa kinh doanh đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng trong hội nhập nên trong quá trình kinh doanh cá nhân hóa các mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại đã bộc lộ những bất cập, ảnh hưởng tiêu cực vào sự bảo hộ của Nhà nước vẫn tồn tại khá đến năng lực cạnh tranh, làm giảm hiệu quả phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời hoạt động của doanh nghiệp. Có thể chỉ ra gian và tiền bạc cho một hoặc một số nhân một số bất cập trong quá trình xây dựng văn vật quan trọng của đối tác, coi các mối quan hóa kinh doanh ở nước ta hiện nay. hệ cá nhân giữa người kinh doanh mà cụ thể 3.1. Trong làm ăn doanh nghiệp nước ta hơn là người bán hoặc mua với người có thẩm còn xem nhẹ chữ “Tín”. “Một lần bất tín- vạn quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc lần bất tin”, là bài học cho bất cứ ai muốn trở bán. Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào thành một doanh nhân thành đạt. Trong thời mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào thực lực khắc khó khăn hiện nay của doanh nghiệp nó kinh doanh. Xu hướng dựa vào quan hệ rộng không chỉ biểu hiện cho triết lý kinh doanh như là một chủ bài, mạnh hơn cả năng lực bền vững mà xa hơn còn là nhân cách của của chủ thể kinh tế. Những cái lợi mà việc người làm nghề doanh nhân. Kinh doanh thân quen đem lại là một cám dỗ lớn hơn rất phải biết giữ chữ “tín”, đó chính là biểu hiện nhiều so với cái cực nhọc phải đầu tư để đổi VHKD được hình thành từ khi thị trường mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. hình thành, khẳng định được thương hiệu của Đa phần các nhà kinh doanh dường như hiển doanh nghiệp. Giữa các doanh nghiệp, giữ nhiên công nhận mối quan hệ tốt hay xấu có chữ “tín” chính là thực hiện đúng những cam tính chất quyết định tới sự thành bại trong kết chính là Hợp đồng kinh tế, nó bao gồm làm ăn. Họ cho rằng, nếu “thân quen” được nhiều điều khoản mà quan trọng nhất (với với sếp của đối tác thì về cơ bản là đã thành doanh nghiệp thực hiện) là giá cả, số lượng, công, lúc này thì mọi trở ngại về chất lượng chất lượng và thời hạn giao hàng. Do chịu sản phẩm, dịch vụ, thậm chí giá cả cũng chỉ ảnh hưởng của nền kinh tế tiểu nông nhiều là chuyện “nhỏ”. Cám dỗ về đặc quyền, đặc doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa đề cao lợi, dựa dẫm đang là lực cản rất lớn. Cuộc chữ “tín”. Theo nhiều doanh nghiệp, nhà kinh đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng và làm doanh nước ngoài, các doanh nhân Việt Nam trong sạch bộ máy công quyền sẽ là một trong không coi trọng chữ tín, thường viện dẫn các những yếu tố có tính quyết định trong việc lý do khách quan để khước từ việc thực hiện xóa bỏ tình trạng đi cửa sau và phục hồi luật cam kết đã ghi trong hợp đồng, gây nhiều chơi minh bạch trên thương trường. phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước 3.3. Các doanh nghiệp nước ta còn thiếu ngoài. Thậm chí, bản thân các chủ thể kinh tính liên kết trong việc làm ăn, kinh doanh. doanh người Việt chưa tin người Việt. Nếu Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài có chọn lựa thì người Việt sẽ làm ăn với các có sức mạnh và tiềm lực lớn về vốn, kinh công ty ngoại quốc, nhất là của các nước Âu, nghiệm quản lý, lại hơn chúng ta cả trăm năm Mỹ, hơn là Việt Nam. Đây là hiểm họa cho kinh nghiệm mà doanh nghiệp Việt Nam lại các cơ sở kinh tế Việt Nam về lâu về dài khi vốn liếng chưa nhiều, năng lực cạnh tranh mà các hiệp ước kinh tế mở cửa thị trường chưa cao thì chúng ta rất cần đến sự liên kết, Việt Nam cho các cơ sở kinh tế của châu Âu, đoàn kết, sự chia sẻ. Nhưng một thực tế, hiện Mỹ như ngân hàng, bảo hiểm, tín dụng, hàng nay không ít doanh nghiệp lại không cởi mở,
  4. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 170 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam liên kết với nhau, thậm chí có khi còn chơi kết hợp với hệ thống siêu thị Nguyễn Kim… xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Tại sân nhà, rất nhiều sản phẩm của chúng Hệ quả là không những không nâng cao được ta đang bị áp đảo và phải cạnh tranh gay gắt sức cạnh tranh mà còn yếu đi vì sự tranh trước sức mạnh liên kết của các công ty, tập mua, tranh bán, thậm chí hạ uy tín của nhau. đoàn nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay, Trên thực tế, vấn đề liên kết doanh nghiệp đã hợp tác với nhau và với nhà đầu tư nước được đặt ra rất nhiều lần ở tất cả các hiệp hội, ngoài là một cách tốt để doanh nghiệp tồn tại ngành nghề. Tuy nhiên, những nhà điều hành, và nâng cao khả năng cạnh tranh. cơ quan có thẩm quyền cũng “bó tay” trước 3.4. Cách thức sản xuất – kinh doanh của thói quen cố hữu của rất nhiều doanh nghiệp các doanh nghiệp nước ta còn thể hiện sự là “mạnh ai nấy làm”; “thân ai nấy lo”. Xét thiếu tầm nhìn, tư duy ngắn hạn. Xuất thân về khía cạnh liên kết, hợp tác của các doanh từ nền kinh tế tiểu nông với lối làm ăn nhỏ nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh lẻ, manh mún con người Việt Nam thường để cùng phát triển và theo nguyên tắc cùng có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và có lợi, tính cộng đồng của doanh nhân Việt muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi Nam còn quá rời rạc và ở mức thấp, thể hiện kết quả lâu dài. Bên cạnh đó, xuất phát điểm ở ngay trong phạm vi một ngành nghề, một từ trình độ công nghệ và văn minh thấp cộng địa phương và rộng hơn là trong phạm vi cả với phương thức sản xuất nhỏ lẻ, vẫn nặng nước. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nước tính tự cung tự cấp, tính thương mại và thị ta chưa có thói quen trọng luật pháp quốc tế, trường còn yếu. Do ảnh hưởng bởi tư duy am hiểu về đối tác, kết quả là doanh nhân, ngắn hạn nên các doanh nghiệp nước ta chưa doanh nghiệp Việt Nam dễ bị thua thiệt khi quan tâm đúng mức vào chất lượng của sản làm ăn với các đối tác nước ngoài. phẩm, dẫn đến tình trạng chất lượng hàng nội Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thường thấp, tính cạnh tranh không cao trước thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế những sản phẩm cùng loại của nước ngoài. Vì do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo vậy, thói quen sính đồ ngoài ngày càng phát lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện triển gây nen nhiều bất lợi cho các nhà sản chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn xuất trong nước. Mặt khác, các doanh nghiệp đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước nước ta hiện đang thiếu chiến lược kinh đầu, sau đó, các doanh nghiệp thường tìm doanh dài hạn, nóng vội muốn đạt thành công cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình nhanh chóng, vì không có tầm nhìn dài hạn để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối nên các doanh nhân Việt Nam thường không phó lẫn nhau và sẵn sàng giành giật quyền lợi xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến đầu tư thích hợp. Những năm vừa qua xã hội cục diện chung. Nhiều doanh nghiệp không ghi nhận nhiều trường hợp các chủ thể kinh có khả năng tổ chức sản xuất và kinh doanh tế nước ta chạy theo xu hướng “ăn xổi”, đầu ở quy mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp tư cả vào những lĩnh vực không thuộc chuyên ứng nhu cầu thị trường. môn, thế mạnh của mình. Trong khi các nhà Trái với phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, đầu tư nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi vào làm tư và lợi ích kinh doanh dài hạn tại Việt Nam ăn tại thị trường Việt Nam đã biết kết hợp với thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam lại các doanh nghiệp trong nước để thâm nhập đang tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư và chiếm lĩnh thị trường. Có thể kể đến như mang tính đầu cơ ngắn hạn như kinh doanh trường hợp Hãng Pepsi kết hợp với Kinh Đô; bất động sản, chứng khoán… mà quên đi các các hãng điện tử như Samsung, LG, Toshiba lĩnh vực kinh doanh cốt lõi. Hậu quả là có quá
  5. Nguyễn Duy Quý 171 nhiều vốn đổ vào những lĩnh vực nói trên, khi dắt doanh nghiệp đi đến thành công. Họ luôn thị trường bất động sản, chứng khoán “hạ khiến cho toàn thể nhân viên của mình nhận nhiệt” thì khả năng quay vòng vốn gặp nhiều thấy rằng con đường doanh nghiệp họ đang khó khăn, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động đi sẽ dẫn đến một tương lai đầy tươi sáng. Ở của các doanh nghiệp. đó tất cả những đóng góp, nỗ lực lao động và 3.5. Các chủ thể kinh tế ở nước ta thường sự sáng tạo sẽ có được thành quả xứng đáng có thói quen thích quy mô lớn, coi trọng được công ty đãi ngộ và trân trọng, được xã những cái đồ sộ, mà xem nhẹ triết lý sản xuất hội ghi nhận và tôn vinh. Họ biết cách tạo ra “cái nhỏ là cái đẹp”, thiếu truyền thống đầu tư một môi trường lành mạnh với những nguyên sản xuất theo chiều sâu và cách thức phát triển tắc ứng xử đầy tính khoa học và nhân văn để bền vững. Mặt khác, cơ chế quản lý vĩ mô nền khích lệ sự cống hiến trên nền tảng giá trị và kinh tế còn phức tạp, với bộ máy cồng kềnh, niềm tin mãnh liệt của người lao động đối với thủ tục hành chính rườm rà với nhiều giấy tờ đơn vị. cũng đã góp phần kìm hãm sự phát triển kinh Thách thức lớn nhất đối với doanh nhân doanh của doanh nghiệp nước ta trong thời kỳ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế hội nhập. Bên cạnh đó, với lối quản lý “nặng quốc tế đó là tầm nhìn và ý thức hội nhập tình nhẹ luật” dẫn đến thói chủ quan, cảm tính chứ không phải là vốn hay công nghệ. Thiếu và tệ nạn tham nhũng cũng đã góp phần kéo vốn có thể vay được, thiếu công nghệ có thể lùi sự phát triển của xã hội nói chung và của mua nhưng thiếu tầm nhìn, thiếu ý thức thì các doanh nghiệp sản xuất nói riêng. rất khó cạnh tranh và thành công trên trường 4. Văn hóa kinh doanh ngày càng đóng kinh doanh quốc tế. Điều kiện quyết định để một vai trò quan trọng trong sự phát triển ổn giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh, định, bền vững của mỗi chủ thể kinh tế. Nếu hội nhập kinh tế quốc tế chính là nâng cao thiếu nó, doanh nghiệp khó thể tồn tại và phát tư duy và tầm nhìn của mỗi doanh nhân. Khi triển được trong bối cảnh khó khăn của nền có một tầm nhìn đủ rộng, đủ xa và thực hiện kinh tế hiện nay. Từ thực tiễn những bất cập bằng cái đạo kinh doanh, nghĩa là dùng sản nói trên chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp mình giải pháp dành cho doanh nghiệp Việt Nam như là phương tiện để giải quyết các vấn đề trong quá trình xây dựng văn hóa kinh doanh của xã hội, doanh nghiệp Việt Nam ắt hẳn sẽ trong thời kỳ hội nhập. có một vị thế xứng đáng trong cuộc đua tranh 4.1. Trước hết, để xây dựng nền tảng văn toàn cầu. hóa kinh doanh vững mạnh cần thiết phải chú 4.2. Để xây dựng được văn hóa kinh doanh trọng xây dựng văn hóa doanh nhân. Doanh đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế nhất thiết nhân là một nghề, xã hội ghi nhận vai trò của Việt Nam cần cải thiện hơn nữa môi trường lực lượng này đối với sự phát triển, họ cũng kinh doanh. Nền kinh tế hội nhập chỉ thành là những nhà quản lý, nhà điều hành doanh công khi doanh nghiệp, doanh nhân được giải nghiệp, do đó, xây dựng văn hóa doanh nhân phóng, được tập trung trí tuệ của mình cho tư có thể coi là nền tảng để xây dựng văn hóa duy sáng tạo, cho việc tìm và nắm bắt cơ hội, kinh doanh. Doanh nhân có văn hóa phải là cho sự thành công của sự nghiệp kinh doanh. người làm giàu bằng tri thức, bằng trí tuệ Để doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam hội thực sự của mình. Họ luôn xác lập rõ mục nhập kinh tế thành công, chúng ta phải xây tiêu, tầm nhìn, sứ mệnh của doanh nghiệp và dựng môi trường kinh doanh minh bạch, hạn hoạch định các chiến lược phát triển một cách chế nảy sinh tiêu cực; phải có một hệ thống bài bản chính xác, sử dụng các nguồn lực một pháp luật đủ mạnh và có tính khả thi cao và cách hiệu quả thực hiện các mục tiêu để dẫn quan trọng đó là thực hiện hiệu quả hơn nữa
  6. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 172 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam công tác cải cách hành chính, loại bỏ những nghiệp; tính sáng tạo, đổi mới, sẵn sàng hợp thủ tục rườm ra gây cản trở cho hoạt động sản tác. Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việt Nam cần phải thay đổi theo hướng sẵn Trong quá trình phát triển doanh nghiệp sàng liên kết, hợp tác để đôi bên cùng có lợi Việt Nam rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước thay vì chỉ nghĩ đến quyền lợi của bản thân trong việc cải tạo môi trường kinh doanh mình. ngày càng phát triển, tạo thuận lợi cho hoạt 4.4. Các doanh nghiệp nước ta cần coi động của doanh nghiệp như: Cơ sở hạ tầng trọng chữ “tín” trong kinh doanh, trong đó đồng bộ, hệ thống pháp luật, các chính sách, các doanh nghiệp cần có trách nhiệm với đối chế độ liên quan; hệ thống thông tin quốc gia. tác cũng như tích cực xây dựng thương hiệu Nhà nước cần có chính sách, chiến lược phát của đơn vị mình. Tinh thần hợp tác, cùng làm triển kinh tế phù hợp, nhất quán, đặc biệt là ăn, cùng có lợi và cùng làm giàu phải được các chính sách tài chính, tiền tệ, lãi suất, tỷ xem trọng và đặt chữ tín lên hàng đầu để thay giá hợp lý, linh hoạt. Chính phủ cũng cần tiếp đổi một hình ảnh doanh nghiệp Việt Nam chỉ tục đẩy mạnh các mối quan hệ ngoại giao để thích làm ăn riêng lẻ, nghĩ đến quyền lợi của thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, tạo cơ mình thay vì quyền lợi của cả cộng đồng. Mặt hội cho doanh nghiệp, doanh nhân vươn ra khác, cần có lối tư duy, dám đổi mới, dám thế giới; tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho làm, chấp nhận mạo hiểm, rủi ro. Chỉ những các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp và doanh nhân, doanh nghiệp dám chuyển đổi gián tiếp vào Việt Nam. những ý tưởng sáng tạo thành những hoạt 4.3. Trong quá trình xây dựng văn động đổi mới, luôn tìm kiếm và nắm bắt cho hóa kinh doanh, các chủ thể kinh tế nước ta bằng được các cơ hội do công nghệ và thị cũng cần am hiểu, thích ứng với tập quán trường mang lại; dám đối diện với các tập kinh doanh quốc tế. Nhân loại đang sống đoàn hùng mạnh nước ngoài, hợp tác và cạnh trong một “thế giới phẳng”, các doanh nghiệp tranh với họ, cùng suy nghĩ và hành động với phải vượt qua chính mình, phải hiểu biết và họ mới có thể trưởng thành và phát triển. Khi thành thạo “luật chơi” mới, biết liên kết với hội nhập, yếu tố sáng tạo, trở thành yêu cầu những đối tác đáng tin cậy. Kinh doanh quốc quan trọng nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh tế nhất thiết phải dựa trên một loạt thông lệ mới. Khi sáng tạo có nghĩa là “đi những con và quy chuẩn. Các thông lệ và quy chuẩn này đường người khác chưa đi, làm những việc là thành tựu chung của loài người. Chúng cấu mà người khác chưa làm” thì cũng có nghĩa là thành nên một phần không thể thiếu của văn sự rủi ro trong kinh doanh sẽ tăng lên, và bao hóa kinh doanh Không nắm vững các thông giờ cũng đi liền với mạo hiểm. lệ và quy chuẩn thì khó có thể được coi là có 4.5. Văn hóa kinh doanh cũng là sản phẩm văn hóa trong kinh doanh, và cũng rất khó của con người, do đó quá trình xây dựng văn kinh doanh. Khi hội nhập, văn hóa doanh hóa kinh doanh thì yếu tố con người cần được nghiệp sẽ thay đổi và trở thành thách thức, quan tâm nhiều hơn, do đó cần xây dựng mọi nhân viên trong doanh nghiệp sẽ phải chiến lược đầu tư cho con người để phát huy thay đổi để thích nghi với các quy trình kinh tài năng và sức sáng tạo lao động của mỗi doanh mới, được chuẩn hóa. Trên thực tế, các cá nhân trong doanh nghiệp qua đó nâng cao doanh nghiệp Việt Nam dường như vẫn còn hiệu quả sản xuất kinh doanh. Con người rất “bỡ ngỡ” với các tiêu chuẩn của hội nhập là trung tâm, là động lực của sự phát triển. như: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Để doanh nhân tăng cường tố chất sáng tạo, an toàn vệ sinh lao động và hệ thống quản đổi mới, phải phát triển các cơ sở đào tạo, lý môi trường; phong cách làm việc chuyên cung cấp cho xã hội kiến thức kinh doanh nói
  7. Nguyễn Duy Quý 173 chung và cung cấp cho các nhà kinh doanh ta phải nâng cao trình độ văn minh (công những kiến thức kinh doanh chuyên nghiệp. nghệ, trình độ quản lý, chất lượng sản phẩm), Cho nên, việc phát triển các cơ sở đào tạo bên cạnh đó cần phải thể hiện được cái riêng, những nhà kinh doanh, những nhà quản lý bản sắc của mình trong làm ăn kinh doanh kinh tế chuyên nghiệp là một việc cấp bách cũng như tăng cường hợp tác với những đối cần phải làm ngay. Bên cạnh đó, vấn đề nâng tác đến từ nhiều nền văn minh khác nhau. cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các trường Trong bối cảnh đó việc phát huy vai trò của Đại học, Cơ sở dạy nghề cũng là nhiệm vụ các nhân tố văn hóa vào trong lĩnh vực kinh trọng tâm, nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn doanh không những sẽ tạo ra một nguồn nội nhân lực trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. lực mạnh mẽ mà đó còn là một lợi thế kinh Sau gần 30 năm đổi mới, môi trường kinh doanh lớn không thể bỏ qua của các doanh doanh ở nước ta đã và đang diễn ra sự thay nghiệp Việt Nam. Để hình thành văn hóa đổi sâu sắc. Quá trình hội nhập kinh tế với kinh doanh cần thời gian và cũng cần sự đầu khu vực và thế giới đang mở ra nhiều cơ hội tư thích đáng, với một lộ trình phù hợp, để nhưng cũng lắm thách thức. Việc kinh doanh VHKD ngày càng đóng góp nhiều hơn cho sự đòi hỏi giới doanh nhân, doanh nghiệp nước phát triển của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1999, tr 7. 2. Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2001, tr 71 3. C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1993, t,23, tr1056. 4. Những vấn đề đạo đức trong nền kinh tế thị trường, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1996
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
70=>1