intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của các doanh nghiệp sản xuất, chế tạo đối với sự phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Quảng Ninh

Chia sẻ: Huỳnh Mộc Miên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

36
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua bài viết, đưa ra cái nhìn tổng quan về ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, phân tích lợi thế của tỉnh Quảng Ninh, vai trò của doanh nghiệp và các chính sách phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo của tỉnh Quảng Ninh. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của các doanh nghiệp sản xuất, chế tạo đối với sự phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Quảng Ninh

  1. Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Vai trò của các doanh nghiệp sản xuất, chế tạo đối với sự phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Quảng Ninh  Nguyễn Thanh Hằng1,*, Trần Thị Mây1 1 Khoa Kinh tế, Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh * Email: nguyenthanhhang.qn@gmail.com Tel: +840382780089 Tóm tắt: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam hiện nay đang là một trong những lĩnh vực quan trọng, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước và là ngành xuất khẩu chủ đạo. Ngành công nghiệp chế biến chế tạo phát triển tích cực phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành, là ngành công nghiệp chủ lực, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội và nâng thứ hạng về năng lực cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam. Quảng Ninh với nhiều lợi thế về tài nguyên, mặt bằng, cảng biển, cửa khẩu và giao thông thuận tiện để phát triển mở rộng ngành công nghiệp chế, biến chế tạo. Thông qua bài viết, tác giả đưa ra cái nhìn tổng quan về ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, phân tích lợi thế của tỉnh Quảng Ninh, vai trò của doanh nghiệp và các chính sách phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo của tỉnh Quảng Ninh. Từ khóa: Công nghiệp chế biến, chế tạo; Bền vững; Doanh nghiệp; Phát triển nguồn nhân lực. 1. Đặt vấn đề Công nghiệp chế biến, chế tạo đã chứng minh được tầm quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế. Công nghiệp chế biến, chế tạo đã thực sự trỗi dậy và thành công tại Anh trong thế kỷ XIX, tại Mỹ, Đức, Nhật Bản vào giữa thế kỷ XX, tại Trung Quốc và các nước công nghiệp mới vào cuối thế kỷ XX. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển công nghiệp chế biến chế tạo đã đưa các quốc gia này trở thành các nước có thu nhập cao cho thấy công nghiệp chế biến chế tạo là chìa khóa cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Việt Nam trong những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã trở thành động lực tăng trưởng chính của toàn ngành công nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, bình quân mỗi năm tạo thêm khoảng 300.000 việc làm, nâng thứ hạng về năng lực cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong phát triển kinh tế - xã hội, những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. 2. Tổng quan về ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam Ngành công nghiệp chế biến bao gồm tất cả các xí nghiệp công nghiệp, các cơ sở sản xuất thủ công nghiệp chuyên chế biến những sản phẩm của công nghiệp khai thác và sản phẩm của nông nghiệp, ngoài ra công nghiệp chế biến còn bao gồm cả việc sửa chữa máy móc thiết bị và sửa chữa vật phẩm tiêu dùng. Công nghiệp chế biến bao gồm: Công nghiệp nhiệt điện, công nghiệp chế biến nhiên liệu, công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế tạo thiết bị máy móc, công nghiệp hóa chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến gỗ, tre, nứa, lá, mây, song, cói…; Công nghiệp sành, sứ, thủy tinh, đồ gốm, công nghiệp dệt, da, may, nhuộm, công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp sản xuất sản phẩm phục vụ ngành y tế, văn hóa, giáo dục, và các ngành công nghiệp chế biến khác. Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam có sự thay đổi phát triển rõ rệt, là một trong những lĩnh vực quan trọng, đóng góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước và trở thành ngành xuất khẩu chủ đạo. Theo số liệu Tổng cục Thông kê, GDP năm 2020 tăng 2,91%. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông - lâm nghiệp và Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - 2021 41
  2. Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53%; khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%. Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp năm 2020 tăng 3,36% so với năm trước, đóng góp 1,12 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, công nghiệp chế biến chế tạo đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%, đóng góp 1,25 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện tăng 3,92%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,51%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; khai khoáng giảm 5,62% làm giảm 0,36 điểm phần trăm trong mức tăng chung [1] Biểu đồ tăng trưởng ngành công nghiệp, xây dựng Việt Nam năm 2020 Sau 35 năm đổi mới, lĩnh vực công nghiệp của Việt Nam đã tạo được nhiều đột phá. Từ nền công nghiệp không đầy đủ, đến nay Việt Nam đã có nền công nghiệp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng gần 100 triệu dân nội địa. Đặc biệt, hàng hóa “Made in Vietnam” đã phủ sóng khắp các thị trường trong và ngoài nước, điều này nhờ cả một quá trình tái cơ cấu, tập trung phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn. Các ngành sản xuất được coi là chủ lực, có sức mạnh cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu tại Việt Nam hiện nay bao gồm: Dệt may, da giày, điện tử, công nghiệp chế biến nông sản. Các ngành công nghiệp nền tảng như cơ khí, năng lượng, hóa chất, thép, thiết bị điện. Ngoài ra, tỷ trọng ngành công nghệ cao và vừa cũng tăng lên đáng kể, phải kể đến là ngành công nghiệp ô tô. Hiện ngành công nghiệp ô tô đã lắp ráp và sản xuất chiếm 80% dung lượng thị trường, qua đó có bước phát triển cả về lượng và chất, đóng góp hàng tỷ USD mỗi năm và chất lượng xe từng bước được khẳng định, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 44,3% năm 2016 lên 49,8% năm 2020 [1] Tuy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam hiện nay đang có sự phát triển và thay đổi theo hướng tích cực, nhưng vẫn đối diện với nhiều thách thức. Cụ thể, phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn thực sự có sức mạnh cạnh tranh thế giới cao. Mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế, chưa tạo được nhiều mối liên kết phát triển giữa các ngành theo hướng hợp tác chuyên môn hoá phù hợp với cơ chế thị trường. Đòi hỏi trong thời gian tới, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển công nghiệp, quy hoạch phát triển công nghiệp, điều chỉnh cơ cấu công nghiệp theo lãnh thổ, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong phát triển công nghiệp, hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp theo lợi thế của các địa phương và phát triển nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp. 3. Ngành công nghiệp chế biến chế tạo tại Quảng Ninh Quảng Ninh có diện tích đất liền rộng trên 6.100km2 kéo dài từ Đông sang Tây, với đa Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - 2021 42
  3. Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dạng nguồn tài nguyên; là địa phương nằm trong top những tỉnh có nhiều Khu công nghiệp nhất miền Bắc, có 11 khu công nghiệp với nguồn lao động trẻ chiếm 60%. Quảng Ninh được Trung ương đánh giá là một trong những địa phương thành công nhất trong phát triển hạ tầng giao thông kết nối, sở hữu đa dạng các loại hình giao thông từ đường cao tốc, cảng biển quốc tế đến sân bay quốc tế. Tỉnh cũng sở hữu hệ thống các cặp cửa khẩu song phương với Trung Quốc, tạo thành chuỗi dây chuyền, liên kết khép kín... Với các điểm nổi bật trên, theo nhiều chuyên gia kinh tế, Quảng Ninh có lợi thế vượt trội để phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Theo thống kê của cơ quan chức năng, năm 2010 Quảng Ninh mới có 291 doanh nghiệp chế biến, chế tạo, đến năm 2020 đã tăng lên thành 841 doanh nghiệp, chiếm 81,8% số doanh nghiệp toàn ngành công nghiệp của tỉnh. Tổng nguồn vốn đầu tư ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2010-2020 đạt gần 69.000 tỷ đồng, chiếm 13,29% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh, chiếm 28,7% tổng vốn toàn ngành công nghiệp. Ngành đã tham gia giải quyết công ăn việc làm cho trên 54.000 lao động mỗi năm; trong đó các doanh nghiệp dệt thu hút 11.678 lao động; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan 8.134 lao động; chế biến thực phẩm 2.133 lao động; khoáng phi kim loại 11.839 lao động. Hiện nay, một số lĩnh vực chế biến, chế tạo có nhiều lợi thế của Quảng Ninh như: dệt may, chế biến thực phẩm, cơ khí, chế biến vật liệu xây dựng... đang phát triển theo hướng bền vững, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong sản xuất, nâng cao hiệu suất, bảo vệ môi trường; từng bước xây dựng được thương hiệu sản phẩm và khẳng định uy tín trên thị trường [2]. Tại cuộc họp ngày 24 tháng 3 năm 2021, HĐND tỉnh Quảng Ninh đã thông qua Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư dự án đường ven sông nối cao tốc Hạ Long - Hải Phòng với thị xã Đông Triều giai đoạn 1. Tuyến đường này dài 41,2km, gồm 10 làn, trong đó có 6 làn xe chạy tốc độ cao. Tổng số vốn cho tuyến đường này là 9.436 tỉ đồng, được đầu tư bằng nguồn ngân sách, sẽ mở ra một không gian phát triển mới cho Quảng Ninh, mà mục tiêu chính là nhằm thu hút các dự án lớn chuyên về sản xuất, chế biến, chế tạo đẳng cấp. Tuyến đường này cũng góp phần kết nối các khu công nghiệp lớn, như khu công nghiệp Amata và khu công nghiệp Cảng biển Đầm Nhà Mạc; thúc đẩy phát sự phát triển cho tam giác kinh tế Quảng Ninh - Hà Nội - Hải Phòng và khu vực Đồng bằng sông Hồng. Trước đó, khởi động cho hướng đi mới, Quảng Ninh đã cấp giấy phép đầu tư cho một tổ hợp sản xuất các linh kiện ôtô của Tập đoàn Thành Công tại khu công nghiệp bên bờ vịnh Cửa Lục; 9 dự án FDI sử dụng công nghệ cao tại khu công nghiệp Đông Mai và đón chào lô sản phẩm thiết bị điện tử công nghệ cao đầu tiên của tập đoàn Foxcon cũng tại khu công nghiệp này. Để đón các nhà đầu tư chuyên về chế biến, chế tạo, sản xuất công nghệ cao, Quảng Ninh đang tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình giao thông động lực vào các khu công nghiệp, khu kinh tế. Xung quanh vịnh Cửa Lục, hai cây cầu Cửa Lục 1 và 3 đang tiếp tục được hoàn thành để kết nối các khu đô thị, khu công nghiệp với cao tốc Hạ Long - Vân Đồn. Tuyến đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả, dự kiến khánh thành vào năm tới - sẽ mở ra một không gian mới về phát triển kinh tế biển nữa cho Quảng Ninh. Cao tốc Vân Đồn - Móng Cái cơ bản đã hình thành sẽ giúp kết nối nhanh với Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh Nguyễn Xuân Ký khẳng định nhiệm kỳ 2020-2025, Quảng Ninh xác định phải đạt được 3 đột phá trong phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, gồm đột phá về thu hút tổng vốn đầu tư, tốc độ giá trị gia tăng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đột phá về tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo trong GRDP (tổng sản phẩm) và thu ngân sách địa phương; đột phá về thu hút lao động chất lượng cao gắn với tăng quy mô, chất lượng dân số thông qua phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo. Đặc biệt, Quảng Ninh chú ý đến 4 giải pháp cốt lõi là Quy hoạch mặt bằng sản xuất; hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ; nguồn nhân lực sẵn có, dễ tiếp cận; cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường sống an ninh, an toàn, văn minh, thân thiện. Năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Quảng Ninh đã tập trung chỉ đạo tháo dỡ khó khăn tạo điều kiện để các ngành công nghiệp than, điện, xi măng, vật liệu xây dựng, dệt may, bột mỳ, dầu thực vật…tăng tối đa công suất, năng lực sản xuất và tiêu thụ sản Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - 2021 43
  4. Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phẩm, hỗ trợ kịp thời để các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Tỉnh sớm đưa ra một số dự án công nghiệp chế biến chế tạo sản xuất linh kiện điện tử, thiết bị âm thanh, sản xuất sợi, dệt kim, khăn vải, trang phục vào hoạt động, đẩy tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp tăng cao đạt 10,4%, góp phần bù đắp sự sụt giảm của khu vực dịch vụ. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 7,1% chiếm 17,7% GRDP; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng gần 17% so với cùng kỳ, chiếm 9,8% GRDP [3]. Quảng Ninh đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong GRDP của tỉnh đạt 15%; đến năm 2030 đạt 20%. Thu hút vốn đầu tư trong giai đoạn 2020-2025 đạt trên 45.000 tỷ đồng (bình quân trên 9.000 tỷ đồng/năm); giai đoạn 2025-2030 đạt trên 30.000 tỷ đồng (bình quân trên 6.000 tỷ đồng/năm). Tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2020-2025 đạt 15-17%/năm; giai đoạn 2025- 2030 đạt 17-20%/năm [3]. Với mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và ngành công nghiệp chế biến chế tạo nói riêng của tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới, Quảng Ninh cần kết hợp chặt chẽ phát triển nhanh, bền vững công nghiệp chế biến, chế tạo với thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng, tăng nhanh quy mô và chất lượng dân số, bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa. Để tạo được nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của ngành công nghiệp chế biến chế tạo, ngoài vai trò quan trọng của các cơ sở đào tạo thì việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp tại Quảng Ninh cũng đóng góp vai trò to lớn, quyết định đến thành công của doanh nghiệp. 4. Vai trò của các doanh nghiệp sản xuất, chế tạo đến sự phát triển bền vững ngành CN chế biến chế tạo ở Quảng Ninh Từ những chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Tỉnh, các doanh nghiệp đóng vai trò quyết định đến sự phát triển phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Quảng Ninh. Đầu tiên phải kể đến vai trò đầu tàu và nền tảng của các doanh nghiệp FDI đầu tư tại Quảng Ninh. Nguồn vốn là yếu tố ban đầu không thể thiếu trong việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, nguồn này chủ yếu được thu hút bởi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo số liệu thống kê của Ban Quản lý KKT Quảng Ninh, trên địa bàn tỉnh hiện có 5 KKT, 10 KCN, trong đó 6/10 KCN đã có dự án thứ cấp; 4/10 KCN có chủ đầu tư hạ tầng đang triển khai công tác chuẩn bị đầu tư, GPMB, nhưng chưa có dự án thứ cấp. Tính đến thời điểm này, các KCN, KKT trên địa bàn có 72 dự án FDI còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký trên 3,2 tỷ USD, chiếm 56,25% tổng số dự án FDI toàn tỉnh và chiếm 44,44% tổng vốn FDI đăng ký trên địa bàn toàn tỉnh còn hiệu lực. Riêng trong giai đoạn 2015-2020, tỉnh đã thu hút được 37 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1.421 USD, chiếm 43,83% tổng vốn FDI trên địa bàn KCN, KKT còn hiệu lực. Các KCN, KKT của tỉnh bước đầu đã thu hút được một số nhà đầu tư FDI lớn, có năng lực, kinh nghiệm đến từ 15 quốc gia, vùng lãnh thổ như: Amata (Thái Lan), Rent A Port (Bỉ); TCL (Trung Quốc), Foxconn (Đài Loan), Bumjin (Hàn Quốc), Toray, Yazaky (Nhật Bản), Wilmar (Singapore)... Các dự án FDI trong KCN, KKT của tỉnh chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực, ngành nghề như: Kinh doanh bất động sản (hạ tầng KCN, nhà xưởng cho thuê), dệt may, cơ khí chế tạo, lắp ráp thiết bị điện, điện tử; chế biến thực phẩm và một số ngành nghề khác. [4] Nếu như các doanh nghiệp FDI đóng vai trò đầu tàu và nền tảng cho phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo thì các doanh nghiệp trong nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm. Các doanh nghiệp phụ trợ đóng vai trò kết nối với các doanh nghiệp FDI đa quốc gia, sản xuất vật liệu, linh kiện, phụ liệu cung cấp cho các doanh nghiệp FDI thay thế hàng nhập khẩu đặc biệt trong tình hình đại dịch Covid 19 còn diễn biến phức tạp, nguồn nguyên liệu nhập khẩu khó khăn. Cuối năm 2020, dự án đầu tư xây dựng tổ hợp phụ trợ ô tô Thành Công Việt Hưng chính thức được khởi động tại Thành phố Hạ Long cho thấy sự vào cuộc của các địa phương và doanh nghiệp trong việc thực hiện Chiến lược phát triển Công nghiệp hỗ trợ cũng như Chiến lược phát triển ngành ô tô Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - 2021 44
  5. Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Những sản phẩm của Tổ hợp sẽ không dừng lại là nguồn cung cho các hoạt động sản xuất kinh doanh ô tô hiện tại của Tập đoàn Thành Công, mà còn hướng tới xuất khẩu, giúp ngành công nghiệp phụ trợ ô tô Việt Nam tiếp cận tới các thị trường khu vực và thế giới. Ngoài ra, các doanh nghiệp chế biến, chế tạo của Tỉnh không ngừng đổi mới, đa dạng hóa ngành nghề sản phẩm, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, phát huy vai trò tiên phong đổi mới sáng tạo, chủ động lợi thế sẵn có để tăng năng lực cạnh tranh, chủ động nghiên cứu công nghệ mới góp phần phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Một số ví dụ về doanh nghiệp chế biến chế tạo tiên phong trong đổi mới, sáng tạo trong địa bàn tỉnh như công ty Cổ phần gốm Đất Việt là một trong những doanh nghiệp được tỉnh công nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ, công ty không ngừng cải tiến, sáng tạo cho ra sản phẩm mới chất lượng tính năng ưu việt đáp ứng được thị hiếu của khách hàng, tiên phong đi đầu trong thực hiện phong trào năng suất, chất lượng của tỉnh, áp dụng thành công mô hình quản lý chất lượng ISO90012015, hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 1400012015 và công cụ 5S. Cộng đồng các doanh nghiệp chế biến chế tạo là môi trường và nơi định hướng đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực công nghiệp. Để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo đòi hỏi nguồn nhân lực phải chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của ngành. Việc đào tạo tại các trường Đại học ngày nay có nhiều đổi mới nhưng để có tay nghề vững vẫn cần có sự đào tạo tại các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tạo điều kiện đưa người lao động đi giao lưu học hỏi, rèn luyện tay nghề phù hợp với nhu cầu thực tế, góp phần tạo nên nguồn nhân lực có chất lượng. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp đóng góp tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Quảng Ninh là các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp này chủ yếu dùng thiết bị máy móc, công nghệ, nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài, làm giảm giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu. Thêm vào đó, trong 24 mã ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của tỉnh, nhiều mã ngành chưa đáp ứng được kỳ vọng, theo kịp xu hướng phát triển của thế giới, như: Công nghiệp chế biến nông, thủy sản; đóng tàu; sản xuất máy móc thiết bị mỏ. Riêng đối với ngành công nghiệp chế biến nông, thủy sản, cơ bản các doanh nghiệp chỉ dừng lại ở sơ chế và chế biến thô, chưa có chiến lược phát triển sản phẩm chế biến sâu phục vụ cho xuất khẩu; chưa tạo được mối liên kết có hiệu quả và ổn định giữa các doanh nghiệp chế biến với cơ sở sản xuất nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra. Với những tồn tại đó, để tạo động lực cho các doanh nghiệp phát huy được vai trò quan trọng cho sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp chế biến chế tạo cần có chính sách, định hướng phù hợp tạo điều kiện và thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động. 5. Thúc đẩy và phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Quảng Ninh Để thúc đẩy và phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo tại Quảng Ninh cần có sự kết nối giữa chính sách và các doanh nghiệp. Tỉnh đưa ra các chính sách phù hợp thúc đẩy, tạo điều kiện cho phát triển của các doanh nghiệp chế biến chế tạo, đồng thời các doanh nghiệp cần có những giải pháp đúng đắn cho doanh nghiệp mình phát triển một cách bền vững, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tiếp tục phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư, đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo. Tập chung nguồn lực xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, chuẩn bị nền tảng về hạ tầng Trong đó, tạo sự bứt phá về hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông, nhất là hạ tầng kết nối số; phát triển các mô hình sản xuất thông minh, quản lý thông minh. Đồng thời, tập trung phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng cường bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, hợp tác trong nước và quốc tế về phát triển, ứng dụng, chuyển giao sản phẩm Khoa học và Công nghệ; cải cách hành chính, phối hợp, hướng dẫn các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp nghiên cứu, phát triển các công nghệ có khả năng ứng dụng cao vào thực tiễn để phát triển các sản phẩm cụ thể; hỗ trợ các tổ chức thiết kế, chế tạo, thử nghiệm, hoàn Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - 2021 45
  6. Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thiện công nghệ tại doanh nghiệp; thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn. Tạo điều kiện cho nhà đầu tư giải phóng mặt bằng, xây dựng môi trường làm việc an toàn, đầy đủ cho công nhân, chuyên gia làm việc tại các khu công nghiệp chế biến, chế tạo. Đồng thời, thực hiện công khai, minh bạch hệ thống thông tin kinh tế - xã hội, pháp luật, chính sách, các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phát triển ngành, lĩnh vực, danh mục các dự án kêu gọi, thu hút đầu tư; chủ động hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhất là các doanh nghiệp mới tham gia thị trường về thủ tục hành chính, tiếp cận đất đai. Cùng với đó là quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, đảm bảo chất lượng, hiệu quả; kiên quyết không cho phép các công nghệ thâm dụng nhiều năng lượng tài nguyên, khoáng sản, công nghệ lạc hậu vào địa bàn tỉnh; tăng cường hoạt động bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy khai thác thông tin sở hữu công nghiệp. Xác định ngành công nghiệp ưu tiên như dệt may, chế biến thực phẩm, cơ khí, chế biến vật liệu xây dựng, công nghiệp hỗ trợ…đưa ra các chính sách ưu đãi phù hợp với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của đại dịch Covid, khuyến khích sản xuất sản phẩm trung gian thay thế nhập khẩu. Kết hợp chặt chẽ phát triển nhanh, bền vững công nghiệp chế biến, chế tạo với thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng, tăng nhanh quy mô và chất lượng dân số, bảo đảm quốc phòng-an ninh, bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa. Quảng Ninh đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng ngành công nghiệp CBCT trong GRDP của tỉnh đạt 15%; đến năm 2030 đạt 20%. Với sự chung tay của doanh nghiệp và đường lối phát triển của tỉnh sẽ đưa ngành công nghiệp chế biến chế tạo sẽ đưa công nghiệp chế biến chế tạo trở thành một trong những trụ cột chính trong ngành công nghiệp địa phương. 6. Kết luận Trước sức ép về nguồn tài nguyên than ngày một khan hiếm, cạn kiệt dần, tác động của đại dịch Covid-19 đã khiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gẫy, ngành dịch vụ, du lịch rơi vào tình trạng “đóng băng”. Quảng Ninh cần định vị lại những lợi thế để phát huy đa dạng nền kinh tế, tạo ra giá trị gia tăng, nguồn cung việc làm ổn định trong giai đoạn mới. Việc đánh giá được vai trò của các doanh nghiệp sản xuất, chế tạo đối với sự phát triển bền vững ngành công nghiệp chế tạo tại Quảng Ninh giúp tỉnh Quảng Ninh có định hướng đúng đắn trong các chính sách đầu tư phát triển. Ngoài ra, các doanh nghiệp, cơ sở đào tạo có cơ sở tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của phát triển bền vững ngành chế biến, chế tạo tỉnh Quảng Ninh trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đức Duy, Công nghiệp chế biến, động lực dẫn dắt tăng trưởng nền kinh tế, https://www.vietnamplus.vn/cong-nghiep-che-bien-dong-luc-dan-dat-tang-truong-nen-kinh- te/688321.vnp, trích dẫn 17/01/2021. [2]. Quang Thọ, Đẩy mạnh công nghiệp chế biến chế tạo ở Quảng Ninh, https://nhandan.com.vn/tin-tuc-kinh-te/ay-manh-phat-trien-cong-nghiep-che-bien-che-tao-o- quang-ninh-638163/, trích dẫn 12/03/2021. [3]. Đỗ Phương, “Động lực tăng trưởng”, https://www.quangninh.gov.vn/chuyende/tangtruong/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=95818, trích dẫn 01/01/2021. [4]. Thu Trung, Thu hút vốn FDI vào khu kinh tế, khu công nghiệp, http://baoquangninh.com.vn/kinh-te/202010/thu-hut-von-fdi-vao-cac-kkt-kcn-2504670/, trích dẫn 13/10/2020. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - 2021 46
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
30=>0