« Home « Kết quả tìm kiếm

Bàn về nâng cấp chuỗi giá trị của các doanh nghiệp may vùng kinh tế trọng điểm miền Trung


Tóm tắt Xem thử

- BÀN VỀ NÂNG CẤP CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MAY VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG.
- Bài báo này nhằm tổng hợp lý thuyết về chuỗi giá trị, tập trung vào đặc điểm và các khả năng nâng cấp chuỗi giá trị.
- Kết hợp với các nghiên cứu thực tế, chuỗi giá trị của các doanh nghiệp may trong vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ sẽ được phân tích theo những đặc điểm cơ bản, đồng thời làm sáng tỏ mối quan hệ giữa chuỗi giá trị của các doanh nghiệp may trong vùng với nhau và với chuỗi giá trị may toàn cầu.
- Từ các nghiên cứu khái quát về cơ hội và thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp may trong vùng trong thời gian tới, bài báo sẽ đề cập đến một số các định hướng nâng cấp chuỗi giá trị mà các doanh nghiệp may trong vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ có thể lựa chọn, tuỳ thuộc vào thị trường mà họ nhắm đến, mục tiêu mà họ theo đuổi và nguồn lực mà họ nắm giữ..
- Từ khóa: Chuỗi giá trị.
- Lý thuyết và thực tế đều cho thấy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp (DN) nói chung, DN may nói riêng phụ thuộc rất lớn và chuỗi giá trị nằm trong lòng DN và vị trí trong chuỗi giá trị tổng thể của sản phẩm mà họ tham gia.
- cao năng lực cạnh tranh của các DN may, nâng cấp chuỗi giá trị có thể được xem là một trong những giải pháp cơ bản..
- Nền tảng lý luận về chuỗi giá trị:.
- Chuỗi giá trị được đưa ra đầu tiên bởi Porter (1985), sau này có nhiều học giả nghiên cứu như: tiếp cận “filière” (phân tích ngành hàng – CCA).
- 2003) và Korzeniewicz (1994)…Theo Kaplinsky (1999), chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động cần thiết của một chu trình sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ kể từ giai đoạn nghiên cứu, sáng chế, qua các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng, cũng như xử lý rác thải sau khi sử dụng.
- chuỗi giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ nào đó diễn ra qua nhiều nước trên phạm vi toàn cầu thì chuỗi giá trị đó được gọi là chuỗi giá trị toàn cầu..
- Hình1: Bốn mắt xích cơ bản trong một chuỗi giá trị đơn giản.
- Đặc điểm của chuỗi giá trị.
- Một chuỗi giá trị thường có 4 đặc điểm cơ bản [3]:.
- Sản xuất.
- Thực tế có các chuỗi giá trị của cà phê, của vải, chuỗi giá trị của ô tô, chuỗi giá trị hàng may mặc….
- Phạm vi địa lý: Chuỗi giá trị vươn tới phạm vi, không gian địa lý nào..
- Cấu trúc quản trị chuỗi có cả cơ chế phân chia giá trị giữa các mắt xích, quyền lực các thành viên tham gia trong chuỗi..
- Khi giá trị ở một mắt xích nào đó lớn điều đó cho thấy vị thế của nó mang tính quyết định so với các mắt xích khác trong chuỗi..
- Các nhà đầu tư thâm nhập vào một mắt xích trong chuỗi cần đáp ứng đầy đủ các qui định này, các qui định được xem là những rào cản xâm nhập vào chuỗi giá trị.
- Một ví dụ điển hình là gần đây liên minh EU đã đi đến dỡ bỏ các qui định thắt chặt trong sản xuất và tiêu dùng, nhằm tạo điều kiện phát triển trở lại sản xuất của các nước EU trong chuỗi giá trị toàn cầu..
- Nâng cấp chuỗi giá trị.
- Các mối quan hệ trong chuỗi giá trị đóng vai trò quan trọng và năng lực cạnh tranh không chỉ phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của một DN mà của toàn bộ chuỗi giá trị.
- Vì vậy, việc nâng cấp chuỗi giá trị luôn mở ra các cơ hội cho các DN tham gia trong chuỗi.
- Có các kiểu nâng cấp chuỗi giá trị sau [3][9]:.
- Điều này liên quan đến việc thay đổi quá trình phát triển sản phẩm mới cả ttrong từng mắt xích, cũng như trong mối quan hệ giữa các mắt xích khác nhau của chuỗi giá trị..
- iii) Nâng cấp chức năng: Tìm cách gia tăng giá trị bằng cách thay đổi tổ hợp các chức.
- hoặc chuyển sự tập trung khâu nghiên cứu và thiết kế rồi sử dụng gia công bên ngoài thay vì tự sản xuất …Như vậy doanh nghiệp đã chuyển sang mắt xích khác trên chuỗi giá trị..
- iv) Nâng cấp chuỗi giá trị mới: Nỗ lực của các doanh nghiệp mà đã có những kỹ năng và sự thành thạo chuyển qua một chuỗi giá trị mới.
- Chuỗi giá trị của các DN may vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ.
- Chuỗi giá trị may cơ bản.
- Về cơ bản, chuỗi giá trị may có cấu trúc như trong hình 2, trong đó các mắt xích cơ bản tạo ra giá trị của sản phẩm may bao gồm: 1) Nghiên cứu và phát triển sản phẩm, 2) Thiết kế, 3) Sản xuất các nguyên phụ kiện may 4) May (Cắt-May-Trang trí/hoàn tất), 5) Logistic (mua nguyên vật liệu và phân phối), 6) Marketing và Thương hiệu.
- Sáu giai đoạn cơ bản này đóng góp khác nhau vào sự gia tăng giá trị của sản phẩm may..
- Hình 2: Chuỗi giá trị thu nhỏ của ngành may Hiện nay, chuỗi giá trị hàng may đã vươn đến phạm vi toàn cầu.
- Trong toàn bộ chuỗi, mỗi mắt xích lại có khả năng tạo giá trị gia tăng không giống nhau..
- Bảng 2: Đặc trung của các mắt xích trong chuỗi giá trị may.
- Dựa trên các thông tin trên ta thấy các doanh nghiệp may Việt Nam nói chung và Miền Trung nói riêng đang tham gia trong chuỗi mắt xích giá trị thấp nhất- may, số liệu thống kê cho thấy giá trị mắt xích may chỉ chiếm <5% giá trị chung của chuỗi.
- Hình 4:Mức độ tạo giá trị gia tăng của các mắt xích trong chuỗi (Nguồn: Nguyễn Thị Hường .
- Đặc điểm chuỗi giá trị của các DN may.
- Sản phẩm của các DN may trong vùng khá đa dạng: Trang phục ngoài (thông thường và chuyên dụng), nội y, giày dép, túi xách, đồ gia dụng (chăn màn, các loại khăn…) trong đó, phổ biến nhất vẫn là trang phục ngoài (với mã ngành trong thống kê là 14100).
- Phần lớn sản phẩm trang phục của các DN may trong vùng thuộc nhóm low-end (hàng phổ thông, chuẩn hoá cao), tỷ trọng hàng hi-end (hàng cao cấp) không cao.
- Những sản phẩm xuất khẩu chủ đạo là áo sơ mi, áo jacket, quần âu… Thị trường quan trọng nhất của các DN may trong vùng là Mỹ, EU và Nhật.
- Trong thời gian gần đây, nhiều DN may trong vùng đã cố gắng mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu sang những thị trường nhiều tiềm năng như Hàn Quốc, Nam Mỹ, Trung Đông… Bên cạnh đó, thị trường nội địa cũng ngày càng được các DN may quan tâm.
- dẫn đối phẩm trang phục ngoài của các DN may trong vùng nói riêng và cả nước nói chung..
- Sản phẩm của các DN may trong vùng được sản xuất từ các nguyên liệu truyền thống bao gồm vải từ dệt kim và dệt thoi.
- c) Mức độ tham gia vào chuỗi giá trị may.
- Mức độ tham gia của các DN may trong vùng vào chuỗi giá trị sản phẩm may hoàn chỉnh thể hiện ở các mắt xích trong chuỗi mà họ tham gia hay nói cách khác là ở phương thức sản xuất hàng may mà họ áp dụng.
- mức độ tham gia mà DN lựa chọn sẽ ảnh hưởng đến phần giá trị gia tăng mà DN được hưởng.
- Phần lớn các DN may trên địa bàn vùng kinh tế trọng điểm miền Trung lựa chọn phương thức nhà thầu phụ hay Cut-Make-Trim.
- Trong khoảng 2-3 năm gần đây, nhiều DN may, nhất là các DN quy mô lớn có xu hướng chuyển sang phương thức OEM và ODM.
- Bảng 2: Phương thức sản xuất của các DN may vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ năm 2011.
- ODM: Original Design Manufacturer OIM: Original Idea Manufacturer OBM: Original Brand Manufacturer Bảng dữ liệu trên cho thấy hầu hết các DN.
- Mặc dù giá trị gia tăng được hưởng thấp nhưng phương thức này ít đòi hỏi vốn để đầu tư vào dự trữ nguyên liệu, các hoạt động logistic và Marketing, nhân lực có trình độ để tham gia vào các công đoạn đòi hỏi chất xám nhiều như thiết kế, Marketing và các hoạt động phối hợp, kiểm soát…cũng như ít phải chiếm dụng vốn của các nhà cung ứng..
- Trong khi đó, phần lớn các DN may quy mô lớn trên địa bàn đã.
- nâng tỷ trọng giá trị sản phẩm sản xuất theo phương thức OEM và một số công ty còn sản xuất theo phương thức ODM và OBM mà điển hình là công ty cổ phần (Cty CP) Dệt-may Hoà Thọ, Cty CP Dệt-May 29-3…Những phương thức sản xuất này đều đòi hỏi nguồn vốn lớn và dùng nợ để tài trợ sẽ trở thành giải pháp tất yếu để bù đắp sự thiếu vốn.
- Vì vậy, điều này cũng giải thích cho một thực tế là ROA và ROE của các DN may quy mô vừa và.
- nhỏ, nhìn chung, thường thấp hơn so với nhóm các DN may quy mô lớn..
- Trong các công đoạn sản xuất cơ bản ngoài công đoạn may, tất cả các DN may trong vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ đều cơ giới hoá công đoạn cắt (bao gồm cả vẽ mẫu trên vải và cắt).
- Trình độ cơ giới hoá của các DN may trong.
- Đi đầu trong đầu tư chiều sâu hiện đại hoá công nghệ may phải kể đến các DN như Tổng Công ty Dệt may Hoà Thọ (Đà nẵng) với những dây chuyền sản xuất hàng may khép kín hiện đại.
- Chuỗi giá trị sản phẩm may mà tất cả các DN may trong vùng tham gia đều có phạm vi rộng từ cấp quốc gia trở lên..
- Với các DN theo phương thức CMT, họ có thể là thầu phụ trực tiếp cho các nhà kinh doanh hàng may ở các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc… hoặc có thể là thầu phụ cho các nhà thầu phụ hoặc OEM, ODM, OBM khác trong vùng hoặc ở hai đầu đất nước..
- Với các DN theo phương thức OEM, người mua của họ thường ở Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc, vùng Vịnh, Nam Mỹ…Họ là những nhà sản xuất hàng may tự lo cung ứng nguyên liệu..
- Trong số các DN sản xuất nguyên phụ liệu ít ỏi đó, phần lớn tập trung ở hai đầu đất nước.
- Nguồn phụ liệu trong nước như chỉ, khoá kéo, khuy áo, tấm bông lót, bao bì…có thể đáp ứng được phần nào nhu cầu nhưng nguyên liệu chính là vải thì vẫn khó đáp ứng, đặc biệt là đối với các DN may hàng xuất khẩu.
- Chính vì vậy, chuỗi giá trị của sản phẩm may của các DN trong vùng trải rộng từ phạm vi quốc gia trở lên, đặc biệt là ở đầu trên của chuỗi.
- Điều này cũng đồng nghĩa là tỷ lệ nội địa hoá của các DN may đạt thấp (khoảng 48%)..
- Đối với các DN sản xuất theo phương thức ODM và OBM, thị trường có thể là nội địa và nhiều nước khác.
- Tuy nhiên, xét về khâu nguyên vật liệu, các DN may trong nhóm này cũng phải đối mặt với các vấn đề như những DN thực hành phương thức ODM..
- Chuỗi giá trị hàng may là chuỗi giá trị điển hình định hướng người mua do người mua là người đưa ra yêu cầu về sản phẩm (chủng loại, số lượng và chất lượng) và kiểm soát việc sản xuất loại sản phẩm đó.
- Với chuỗi giá trị may toàn cầu, phần lớn các công ty mua lớn là ở Mỹ, EU và Nhật.
- Với chuỗi giá trị may quốc.
- gia, người mua trực tiếp của các DN may trong vùng thường là các siêu thị, hệ thống cửa hàng, shop quần áo.
- Các DN trực tiếp sản xuất thường nhận về phần lợi nhuận ít ỏi..
- Trong thời gian qua, chính sách của các cấp chính quyền trong và ngoài nước cũng như của Hiệp hội Dệt may Việt nam đã tác động mạnh mẽ vào chuỗi giá trị mà các DN may trong vùng tham gia.
- Một mặt, chủ trương khuyến khích các DN xuất khẩu, các Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với Nhật, với Hàn Quốc đã khuyến khích sự mở rộng phạm vi địa lý của chuỗi giá trị của các DN may trong vùng.
- Mặt khác, các DN may lại có nhiều cơ hội nâng cao tỷ lệ nội địa hóa khi Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/2/2011 về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ và sau đó là chủ trương hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành may ở các địa phương Bình Định, Đà nẵng, Thừa Thiên Huế..
- Như vậy, mặc dù chuỗi giá trị ngành dệt may Miền Trung ngày càng được cải thiện, và mặc dù vị trí của các DN may của vùng trong chuỗi giá trị may toàn cầu và quốc gia cũng đạt được điều tương tự nhưng những sự hạn chế trong quan hệ so sánh về năng lực cạnh tranh của các DN may trong vùng so với các DN may ở hai vùng kinh tế trọng điểm miền Nam và miền Bắc vẫn bộc lộ rõ rệt khiến họ gặp khó khăn khi đương đầu với cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong lĩnh vực này.
- Đó là chưa kể đến sự so sánh với các DN ở một số nước lân cận như Thái Lan, Trung Quốc, Malaisia…Do đó, nâng cấp chuỗi giá trị trở một thành vấn đề cấp thiết..
- Một số định hướng nâng cấp chuỗi giá trị của các DN may trong vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ.
- Với thực trạng về chuỗi giá trị may trong vùng như đã trình bày ở trên, nâng cấp chuỗi giá trị của các DN may trong vùng có thể được thực hiện theo 3 định hướng: nâng cấp quá.
- Giảm chi phí: Giải pháp này bao gồm nhận dạng và giảm thiểu các hoạt động không tạo giá trị gia tăng, đổi mới các phương pháp sản xuất và tổ chức sản xuất hàng may, đổi mới trang thiết bị và tin học hoá các hoạt động sản xuất, nâng cao trình độ và năng suất của lao động..
- Nâng cao giá trị cảm nhận của sản phẩm thông qua đầu tư chiều sâu vào thiết kế nhằm đưa ra các mẫu mã độc đáo và thật sự sáng tạo.
- Về nguyên tắc, các phương thức sản xuất càng bao phủ nhiều giai đoạn tạo giá trị hoặc hướng đến các giai đoạn tạo giá trị cao trong chuỗi giá trị thì càng đem lại nhiều giá trị gia tăng cho DN.
- Tuy nhiên thực tế cho thấy, không phải rằng phương thức càng cao càng nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN may..
- Định hướng trong thời gian tới cho các DN may vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ nên như sau:.
- Phần lớn các DN kinh doanh may mặc trên các thị trường này là theo phương thức OBM và ODM nên họ sẽ tìm kiếm các OEM và CMT ở các nước có giá lao động rẻ.
- Vì vậy, nếu các DN đi theo các phương thức này thì dễ được lựa chọn hơn..
- 2) Nhóm các DN quy mô lớn có định hướng xuất khẩu sang các thị trường như Nam Mỹ, Nga, Đông và Trung Âu, ASEAN: đây là những thị trường có sự phân hoá đáng kể..
- Vì vậy, các DN may quy mô lớn trong vùng có thể áp dụng phương thức OBM, ODM hoặc làm OEM và CMT cho các nhà kinh doanh trang phục trong các thị trường này..
- 3) Nhóm các DN quy mô lớn hướng vào thị trường nội địa, với nguồn lực của mình, có thể áp dụng phương thức OBM và ODM: cung.
- cấp các sản phẩm có nhãn hiệu riêng của mình cho những nhóm khách hàng có xu hướng sử dụng hàng Việt nam nhưng có quan tâm đến đẳng cấp sản phẩm hay giá trị cảm nhận.
- Phát triển thị trường trong nước là hướng tốt để phát triển ngành may, nâng cao giá trị tham gia của các doanh nghiệp may Miền Trung nói riêng và Việt Nam nói riêng..
- 4) Nhóm các DN vừa và nhỏ có định hướng xuất khẩu nên chỉ chấp nhận phương thức OEM hoặc/và CMT..
- 5) Nhóm các DN vừa và nhỏ hướng vào thị trường nội địa có thể áp dụng phương thức ODM khi nhắm đến những nhóm khách hàng có thu nhập thấp hoặc nhu cầu chuyên biệt, hoặc cũng có thể trở thành các OEM, CMT của chính các DN may trong nước mà thích đảm nhiệm vai trò ODM, OBM hơn..
- Như vậy, trong xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế, chuỗi giá trị may của các DN may trong vùng kinh tế miền Trung đã ngày càng mở rộng về phạm vi địa lý và không ngừng nâng cấp trên mọi phương diện.
- Tuy nhiên, thực tế cho thấy năng lực cạnh tranh của các DN may trong vùng vẫn còn nhiều hạn chế nếu so với các DN may ở 2 vùng kinh tế trọng điểm miền Nam và miền Bắc, và càng hạn chế hơn nếu so với các DN may ở một số nước lân cận như Trung quốc, Thái Lan, Malaisia… Vì vậy, tiếp tục nâng cấp chuỗi giá trị của các DN may trong vùng vẫn là được coi là nhiệm vụ trọng tâm của các DN.
- Các định hướng nâng cấp chuỗi như đã trình bày ở trên gợi ý cho các DN may trong vùng những khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình dựa trên việc hoàn thiện hơn việc tham gia và các hoạt động tạo giá trị trong chuỗi.
- Và hiệu quả thực sự của các định hướng phụ thuộc nhiều vào sự lựa chọn hợp lý từ các DN may trong vùng./..
- [6] Mỹ Hạnh (2011), TPP-Được và mất của Việt Nam, Sài gòn Giải phóng Online Hoa Minh (2012), Tăng giá trị trong chuỗi dệt may thế giới,

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt