intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

16
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu thực trạng tình hình phát triển kinh tế tư nhân tại Đăk Lăk trong quá trình đổi mới; những thành tựu và hạn chế của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế của Đăk Lăk nói chung. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ----------------------------- LÊ THANH TÙNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở ĐĂK LĂK LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Hà Nội- 2007
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ----------------------------- LÊ THANH TÙNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở ĐĂK LĂK Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số : 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN BÍCH Hà Nội- 2007
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 5 1.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế tư nhân 5 1.1.1. Quan niệm chung về kinh tế tư nhân 5 1.1.2. Những đặc trưng của kinh tế tư nhân 6 1.1.3. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường 7 1.2. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam 8 1.2.1. Quá trình nhận thức, đổi mới quan điểm, chính sách của Đảng và 8 Nhà nước về kinh tế tư nhân từ năm 1986 đến nay 14 1.2.2. Tình hình phát triển của kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới 18 1.2.3. Những thành tựu và hạn chế của kinh tế tư nhân ở Việt Nam Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG 25 PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở ĐĂK LĂK 2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk 25 Lăk 25 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 27 2.1.2. Nhân tố văn hoá - xã hội 28 2.1.3. Nhân tố kinh tế. 2.1.4. Chính sách phát triển thành phần kinh tế tư nhân của Nhà nước và 32 của tỉnh Đăk Lăk 36 2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk 2.2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk 36 Lăk 37 2.2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân theo loại hình 43 2.2.3. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân theo ngành nghề
  4. 2.2.4. Vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở 53 Đăk Lăk 2.3. Đánh giá chung về phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk trong 20 54 năm đổi mới 2.3.1. Mức độ ổn định và phát triển kinh tế dẫn đến phát triển văn hoá, xã 54 hội 55 2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, hình thành kinh tế vùng 2.3.3. Hình thành thị trường nông thôn địa phương, từng bước tạo việc 58 làm và tăng thu nhập 59 2.3.4. Những vấn đề phát sinh trong kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở ĐĂK LĂK TRONG THỜI 65 GIAN TỚI 65 3.1. Quan điểm định hướng phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk 68 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển KTTN ở Đăk Lăk 3.2.1. Tiếp tục nâng cao sự đổi mới nhận thức, coi phát triển kinh tế tư nhân là tất yếu khách quan, đồng hành cùng với các thành phần kinh 68 tế khác 3.2.2. Cải cách cơ chế, chính sách cho phù hợp với tình hình chung của 69 cả nước đồng thời mang tính đặc thù của địa phương 3.2.3. Tạo hành lang pháp lý và hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước 74 đối với kinh tế tư nhân 78 3.2.4. Giải pháp về khoa học, kỹ thuật, công nghệ 81 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Trang Bảng 2.1: Số lượng doanh nghiệp và vốn đăng ký kinh doanh của loại hình doanh nghiệp tư nhân 39 Bảng 2.2: Số lượng doanh nghiệp và vốn đăng ký kinh doanh của loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn 41 Bảng 2.3: Số lượng doanh nghiệp và vốn đăng ký kinh doanh của loại hình công ty cổ phần 42 Bảng 2.4: Số lượng doanh nghiệp theo nhóm ngành nghề 43 Bảng 2.5: Giá trị sản xuất nông – lâm nghiệp theo giá so sánh 1994 của tỉnh Đăk Lăk 45 Bảng 2.6: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 của tỉnh Đăk Lăk 48 Bảng 2.7: Số cơ sở tư nhân sản xuất công nghiệp theo địa bàn cấp huyện (tính cả doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể) 49 Bảng 2.8: Giá trị sản xuất xây dựng theo giá so sánh 1994 của tỉnh Đăk Lăk 50 Bảng 2.9: Giá trị sản xuất thương mại – dịch vụ theo giá so sánh 1994 của tỉnh Đăk Lăk 52 Bảng 2.10: Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá so sánh 1994 phân theo thành phần kinh tế của tỉnh Đăk Lăk 54 Bảng 2.11: Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế tại thời điểm ngày 01/7 hàng năm 56 Bảng 2.12: Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế. 57
  6. MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã xác định giải pháp nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, đó là: coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Các kỳ Đại hội từ lần thứ VII đến lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Các thành phần kinh tế là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Những thành tựu đạt được qua 20 năm đổi mới, nhất là lĩnh vực kinh tế đã khẳng định đường lối mà Đảng ta lựa chọn là đúng đắn, hợp quy luật. Đến cuối năm 2006, khu vực kinh tế tư nhân với khoảng hơn 230 ngàn các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp và gần 3 triệu hộ kinh doanh cá thể là khu vực kinh tế có sự đóng góp đáng kể vào những thành tựu kinh tế chung của đất nước, là khu vực có tiềm năng phát triển mạnh nhất trong điều kiện hiện nay, góp phần quan trọng đến sự phát triển và ổn định của nền kinh tế. Đăk Lăk là thủ phủ của Tây Nguyên với diện tích lớn gần nhất nước, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của khu vực Tây Nguyên, khu vực được coi là có tính chiến lược của đất nước. Hoà mình cùng đất nước trong chủ trương phát triển kinh tế chung của Đảng và Nhà nước, Đăk Lăk đã dần dần đi lên với bước khởi đầu là nền kinh tế tự nhiên đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số; dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chuyển mình thành tỉnh phát triển nhất khu vực Tây Nguyên. Trong 1
  7. đó khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn đã phát triển hết sức mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với sự gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam, cùng với các thành phần kinh tế khác khu vực kinh tế tư nhân sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức trong mọi lĩnh vực và khu vực kinh tế tư nhân ở tỉnh Đăk Lăk cũng không thể tránh khỏi những trở ngại đó. Phát triển kinh tế tư nhân là một tất yếu khách quan phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, góp phần cùng với các thành phần kinh tế khác thực hiện thành công nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk nói riêng, chúng ta cần nghiên cứu để phát huy những mặt mạnh, đồng thời khắc phục những mặt yếu kém, đưa ra những giải pháp hợp lý nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân cả nước nói chung và tại tỉnh Đăk Lăk nói riêng, góp phần xây dựng Đăk Lăk thành một tỉnh vững mạnh cả về chính trị, kinh tế và xã hội. Đề tài: “Phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk” mà tác giả lựa chọn xuất phát từ những ý nghĩa nêu trên. 2. Tình hình nghiên cứu: Nghiên cứu về mảng đề tài kinh tế tư nhân không còn là điều mới mẻ, đã có nhiều học giả nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thường tập trung nghiên cứu về kinh tế tư nhân trên quy mô rộng lớn mang tầm quốc gia, có tính chất vĩ mô; Một số đề tài nghiên cứu trên phạm vi nhỏ, chủ yếu tập trung tại các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Hà Tây… Theo tác giả biết thì chưa có đề tài nào nghiên cứu về kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk. Một số đề tài, bài viết liên quan đã được thực hiện: 2
  8. - “Phát triển và quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh” của TS. Nghiêm Xuân Đạt, GS.TS. Tô Xuân Dân, TS. Vũ Trọng Lâm (chủ biên), Nxb. Khoa học và kỹ thuật. - “Kinh tế tư nhân Việt Nam: Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình phát triển” của Đặng Danh Lợi, Tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 4-2003. - “ Kinh tế tư nhân ở Hà Nội – Thực trạng và giải pháp”, UBND TP Hà Nội, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế – xã hội Hà Nội, tháng 11-2001. - “Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa” của Trần Ngọc Bút, Nxb Chính trị quốc gia. - “ Về việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam” của Trần Thị Hạnh – Luận án PTS kinh tế – Hà Nội 1994. - “ Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội” của Tiến sỹ Nguyễn Minh Phong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. - “ Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế” của Nguyễn Huy Oánh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế; 9-2002. Đề tài nghiên cứu không trùng lặp với các đề tài đã thực hiện, tập trung phân tích tình hình phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk để đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở một tỉnh có vị trí chiến lược như tỉnh Đăk Lăk. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích: - Nghiên cứu thực trạng tình hình phát triển kinh tế tư nhân tại Đăk Lăk trong quá trình đổi mới; những thành tựu và hạn chế của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế của Đăk Lăk nói chung. 3.2. Nhiệm vụ: - Xem xét, đánh giá những thuận lợi, khó khăn về cơ chế chính sách của tỉnh Đăk Lăk đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn. 3
  9. - Đề xuất những giải pháp nhằm khai thác, phát huy tiềm năng, đồng thời khắc phục những mặt chưa được của kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển ổn định kinh tế – chính trị – xã hội trên toàn tỉnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp phân tích, nghiên cứu tài liệu và khảo sát thực tế kinh tế tư nhân ở tỉnh Đăk Lăk. 6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn: - Đánh giá thực trạng về tình hình phát triển và những hạn chế của kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk. - Đề xuất những giải pháp, kiến nghị cũng như quan điểm nhằm phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk. 7. Bố cục của Luận văn: Luận văn có cấu trúc như sau:  Mở đầu.  Chương 1: Một số vấn đề chung về phát triển kinh tế tư nhân  Chương 2: Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk.  Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Đăk Lăk trong thời gian tới.  Kết luận. 4
  10. Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 1.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế tư nhân. 1.1.1. Quan niệm chung về kinh tế tư nhân. Ở Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế thị trường được chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp nên có các quan niệm khác nhau về kinh tế tư nhân: - Kinh tế tư nhân là một trong ba khu vực của nền kinh tế (nhà nước, tư nhân, nước ngoài). Kinh tế tư nhân bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã. - Kinh tế tư nhân là kinh tế ngoài quốc doanh. Bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các liên doanh. - Kinh tế tư nhân bao gồm hai thành phần kinh tế là kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân (là quan niệm dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất). Tuy nhiên, các quan niệm trên cũng chưa hoàn toàn phân loại triệt để kinh tế tư nhân vì tính đặc thù của nền kinh tế nước ta. Cụ thể, đối với các công ty cổ phần được thành lập dưới hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần sau khi cổ phần hoá thì nên đưa vào khu vực nào? Nếu quan niệm theo cách thứ nhất và thứ hai ở trên thì toàn bộ phần vốn Nhà nước hiện đang nằm tại công ty cổ phần là của tư nhân; còn nếu hiểu theo cách thứ ba thì công ty cổ phần loại này lại không phải thuộc kinh tế tư nhân. Theo tác giả, với những trường hợp như trên thì khu vực nào chiếm cổ phần chi phối (>50%) trong công ty thì công ty được xếp vào khu vực ấy. Hoặc có những trường hợp các doanh nghiệp nhà nước cùng góp vốn để thành lập công ty cổ phần (ví dụ như PJICO có 7 cổ đông là các tổ chức, 5
  11. doanh nghiệp nhà nước chiếm 80% cổ phần) thì công ty cổ phần loại này không thể xếp vào khu vực kinh tế tư nhân được. Trong phạm vi bài viết này, kinh tế tư nhân được hiểu gần giống với cách thứ nhất. Cụ thể như sau: Kinh tế tư nhân bao gồm toàn bộ hoạt động của các loại hình doanh nghiệp đang hoạt động theo luật doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu là của các thể nhân hoặc pháp nhân trong nước, với trường hợp pháp nhân thuộc về Nhà nước thì vốn Nhà nước trong doanh nghiệp phải
  12. - Với mục đích chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận nên các doanh nghiệp tối thiểu hoá chi phí, sử dụng lao động một cách linh hoạt với chi phí thấp nhất, sử dụng máy móc thiết bị một cách có hiệu quả nhất nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao. - Chủ sở hữu vốn đồng thời là người đứng đầu các doanh nghiệp nên năng động, nhạy bén và tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dễ dàng thích nghi với sự thay đổi thường xuyên của thị trường. - Có khả năng thu hút lao động cao, phong phú và đa dạng. - Không muốn hoặc không tham gia vào thị trường hàng hoá công cộng do mang lại nhuận ít. Chủ yếu đầu tư vào những lĩnh vực phổ biến, ít rủi ro, đầu tư ít… - Dễ bị khủng hoảng khi có biến động của thị trường do phần lớn hạn hẹp về tài chính. 1.1.3. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ nền kinh tế, vai trò của nó được thể hiện trên nhiều khía cạnh của đời sống xã hội. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy động vốn trong xã hội, tạo được nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho Nhà nước, sản xuất hàng xuất khẩu, tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế – xã hội, tạo môi trường cạnh tranh và động lực cho hội nhập kinh tế thế giới. Cụ thể như sau: + Góp phần vào sự tăng trưởng GDP: Khu vực kinh tế tư nhân huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, tạo việc làm, thu nhập cho người dân, điều này làm tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP). + Tăng khả năng huy động vốn trong xã hội: 7
  13. Do đặc tính qui mô vừa và nhỏ của các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân nên có thể dễ dàng huy động được những đồng vốn dư thừa trong dân cư dù là nhỏ nhất để đưa vào các hoạt động kinh tế. + Tạo việc làm và cải thiện đời sống nhân dân: Tạo việc làm là nhu cầu của mọi quốc gia. Cũng như các doanh nghiệp trong những thành phần kinh tế khác việc tăng nhu cầu thuê, mướn lao động của doanh nghiệp tư nhân luôn đi cùng với quá trình mở rộng qui mô sản xuất. Đặc biệt hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp tư nhân nước ta chủ yếu sử dụng lao động ở dạng thủ công, mà loại lao động này ở các nước đang phát triển dư thừa rất nhiều. Do vậy sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân sẽ tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Nhờ huy động được nhiều nguồn lực đưa vào sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân. + Tăng thu ngân sách cho Nhà nước: Nguồn thu từ đóng thuế của doanh nghiệp khối tư nhân cũng là một nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Ở nhiều quốc gia, doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân luôn đóng góp một khoản thuế tương đối lớn. + Tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Sự phát triển của doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân sẽ tạo điều kiện cho chúng ta thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý hơn, tạo ra sự phát triển đồng bộ giữa các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như các thành phần kinh tế. + Tạo môi trường cạnh tranh: Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại của doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân cùng với các loại hình doanh nghiệp khác sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Bởi muốn tồn tại trên thị trường, các doanh nghiệp đều phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, càng có nhiều 8
  14. doanh nghiệp tham gia vào cạnh tranh thì việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực càng hiệu quả. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 1.2.1. Quá trình nhận thức, đổi mới quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân từ năm 1986 đến nay. Một thời kỳ dài do nhận thức sai lầm, nóng vội đã coi kinh tế tư nhân là đối tượng phải cải tạo, không được khuyến khích phát triển, không được pháp luật bảo vệ, quá trình sản xuất kinh doanh thuộc khu vực này bị trói buộc, kìm hãm, chèn ép; mục đích là muốn biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được sự sai lầm đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) với thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”1 đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn, khởi đầu cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan”2. Đại hội VI cũng đã khẳng định: “Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”3. Xác định giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là sử dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mô và trình độ sản xuất, lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế được xếp thành hai nhóm: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb, Sự 1, 2: thật, Hà Nội, 1987, Tr. 12, 30. 3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1987, Tr. 30, 65. 9
  15. - Kinh tế xã hội chủ nghĩa: bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó. - Các thành phần kinh tế khác, bao gồm: + Kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); + Kinh tế tư bản tư nhân; + Kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức (công tư hợp doanh); + Kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác. Xác định vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế, trong đó coi nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đặt ra cho chặng đường đầu tiên là lấy kinh tế xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo phải giành được vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể là chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông, thể hiện được tính ưu việt và chi phối được các thành phần kinh tế khác thông qua liên kết kinh tế. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (năm 1989) chủ trương phát triển đan xen nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết các hình thức sở hữu với kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo. Hội nghị khẳng định: “cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề. Những ngành nghề, hoạt động nào mà kinh tế hợp tác xã, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì nên tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế ấy phát triển”4. Tư nhân được kinh doanh không hạn chế về quy mô, địa bàn hoạt động trong những ngành nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, dịch vụ mà pháp luật không cấm. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) nêu rõ nền kinh tế nước ta có 5 thành phần: - Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; 4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, Nxb Sự thật, 1989, tr.14. 10
  16. - Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng; - Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi; - Kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định; - Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên khẳng định: “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”5 tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Đại hội tiếp tục khẳng định chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là có tính chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó xác định cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Lần đầu tiên đề cập đến việc từng bước thành lập các xí nghiệp, các công ty cổ phần. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (năm 1994), lần đầu tiên Đảng ta phân biệt sở hữu nhà nước với hình thức doanh nghiệp nhà nước và chủ trương tập trung xây dựng doanh nghiệp nhà nước ở những ngành, lĩnh vực và những khâu trọng yếu; thực hiện các hình thức cổ phần hoá ở mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, trong đó sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) lại xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành phần kinh tế là: - Kinh tế nhà nước; - Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã; 5 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, 1991, tr.21. 11
  17. - Kinh tế tư bản nhà nước; - Kinh tế cá thể, tiểu chủ; - Kinh tế tư bản tư nhân. Xu hướng phát triển các thành phần kinh tế được xác định: Khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thay cho vai trò của kinh tế quốc doanh trước đây, coi doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng của của kinh tế nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài, có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý...của các nhà tư bản. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng lâu dài. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài. Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) xác định có 6 thành phần kinh tế như sau: - Kinh tế nhà nước; - Kinh tế tập thể; - Kinh tế cá thể, tiểu chủ; - Kinh tế tư bản tư nhân; - Kinh tế tư bản nhà nước; - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội IX khẳng định thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. 12
  18. Sự khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển được thể hiện khá rõ trong Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ năm khoá IX như sau: “Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là một vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”6. Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định “phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo...”7. Trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010, Đại hội X đã chỉ đạo cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân “tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư phát triển theo quy định của pháp luật, không hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn. Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử; bảo đảm thật sự bình đẳng, tạo thuận lợi để các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh được tiếp cận các nguồn vốn tại các tổ chức tín dụng của Nhà nước, kể cả quỹ hỗ trợ phát triển; được đáp ứng thuận lợi nhu cầu sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn của tư nhân, các tập đoàn kinh tế tư nhân có nhiều chủ sở hữu với hình thức công ty cổ phần”8. Từ những quan điểm trên, các cơ chế chính sách của Nhà nước đối với phát triển kinh tế tư nhân trong những năm qua đã có sự chuyển hướng rõ rệt. 6 Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.57. 7 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.77. 8 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.236-237. 13
  19. Từ Nghị quyết số 27/CP ngày 09/3/1988 của Chính phủ chính thức xác nhận quyền hoạt động của doanh nghiệp tư nhân, đến Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty được công bố ngày 21/12/1990, Nghị định số 66/HĐBT ngày 02/3/1992 của Hội đồng Bộ trưởng. Hiến pháp năm 1992 cũng quy định: “công dân Việt Nam có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Tiếp theo đó, liên tục các chính sách, luật pháp được ban hành, thay đổi, phát triển cho phù hợp với tình hình mới như: Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994), Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi (1998), Luật doanh nghiệp (1999) và Luật doanh nghiệp (2005) (luật chung doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh) và hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành các luật. Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp (1999), phương thức quản lý theo lối “năng lực quản lý đến đâu thì mở đến đó” đã từng bước được thay thế bằng “năng lực quản lý phải được xây dựng, tăng cường đủ mức thúc đẩy và quản lý được quá trình phát triển”. Phương thức quản lý nhà nước theo hướng kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu đang từng bước được thay thế bằng phương thức hợp tác và tạo điều kiện là chủ yếu, hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngày càng được nâng cao. Những thay đổi nói trên thúc đẩy thêm công cuộc cải cách hành chính và nâng cao năng lực bộ máy hành chính nhà nước phù hợp hơn với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường. Tất cả các văn bản luật, nghị định ... nói trên đã tạo cơ sở hành lang pháp lý quan trọng, tạo ra một sân chơi bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với các loại hình doanh nghiệp, tạo động lực mạnh mẽ cho các thành phần kinh tế phát triển, trong đó có các thành phần thuộc kinh tế tư nhân. Nhìn chung, từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ X của Đảng, nhận thức về nền kinh tế nhiều thành phần đã không ngừng phát triển, cả về tư duy kinh tế, cơ chế quản lý nền kinh tế dẫn đến khái niệm về mô hình tổng quát nền kinh tế nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. 14
  20. Qua đó có thể nhận thấy rằng đây là bước ngoặt lịch sử trong tư duy kinh tế của Đảng, từ chỗ chỉ thừa nhận nền kinh tế có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang thực hiện nhất quán và lâu dài phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tạo một luồng sinh khí mới cho nền kinh tế nước ta phát triển hoà nhập vào nền kinh tế chung toàn cầu. 1.2.2. Tình hình phát triển của kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương đổi mới của Đại hội VI của Đảng đã thổi một luồng sinh khí mới thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Sự phát triển của kinh tế tư nhân của nước ta từ năm 1986 đến nay có thể chia thành ba giai đoạn: a. Giai đoạn từ năm 1986 – 1990 (giai đoạn từ khi bắt đầu đổi mới đến trước khi Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty được ban hành): Đây là giai đoạn khởi đầu công cuộc đổi mới, các quan điểm đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng VI đề ra dần dần được cụ thể hoá. Nghị quyết 10 ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng khoá VI “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (hay còn gọi là khoán 10) đã khẳng định các hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài đã có tác dụng như một cuộc cách mạng trong tư duy phát triển nông nghiệp của Đảng. Về phía Nhà nước, cũng đã bắt đầu soạn thảo và ban hành một số đạo luật cho kinh tế tư nhân phát triển, nhưng vẫn chưa cụ thể hoá các hình thức hoạt động của các thành phần kinh tế; mặt khác trong khi hậu quả của những sai lầm cũ chưa được khắc phục thì chúng ta lại gặp phải những khó khăn mới do những khuyết điểm mới nảy sinh trong những năm đầu đổi mới như: giá, lương, tiền; vỡ tín dụng, tranh chấp đất đai trong nông nghiệp...Trong khi đó, tình hình quốc tế lại có những biến động lớn, tác động trực tiếp đến công cuộc phát triển kinh tế và bảo vệ chủ nghĩa xã hội của nước ta. Do vậy, kinh tế tư nhân của nước ta trong giai đoạn này chỉ mới bắt đầu được tái lập, chưa phát triển rõ nét. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
57=>0