intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hoạt động sàng lọc trong công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh một số trường THPT tại thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

36
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này nhấn mạnh hoạt động đánh giá là “xương sống” của mô hình “3 tầng” cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần trong bối cảnh học đường cho học sinh với bước đầu tiên là việc sàng lọc. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hoạt động sàng lọc trong công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh một số trường THPT tại thành phố Hồ Chí Minh

  1. HOẠT ĐỘNG SÀNG LỌC TRONG CÔNG TÁC CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN CHO HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG THPT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Hứa Vĩnh An1, Phạm Hải Lâm2 Tóm tắt Bài viết này nhấn mạnh hoạt động đánh giá là “xương sống” của mô hình “3 tầng” cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần trong bối cảnh học đường cho học sinh với bước đầu tiên là việc sàng lọc. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vẫn chưa có sự đầu tư thỏa đáng về nội dung này làm cơ sở cho các hoạt động phòng ngừa, can thiệp hay chuyển gửi tiếp theo. Vấn đề này đặc biệt quan trọng ở cấp phổ thông trở lên, khi những khó khăn của các em không đơn thuần ở một phương diện riêng biệt về trí tuệ hay cảm xúc – hành vi. Theo đó, các hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần cho các em cũng cần tham chiếu một cách tổng hòa nhiều khía cạnh hơn. Từ những trải nghiệm công việc trong vai trò là một chuyên viên tâm lý học đường, bằng phương pháp nghiên cứu tài liệu, sử dụng kết quả có sẵn của một số bài viết, chúng tôi muốn đề cập đến thực trạng hoạt động đánh giá sàng lọc cho học sinh cấp THPT và đề xuất một công cụ sàng lọc về nhân cách cho học sinh cấp 3 để tích hợp vào các chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần của các trường cấp 3 tại Việt Nam hiện nay. Từ khoá: đánh giá, hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần, học sinh THPT, sàng lọc SCREENING ACTIVITIES OF MENTAL HEALTH CARE FOR STUDENTS OF SOME HIGH SCHOOL IN HO CHI MINH CITY Abstract This study emphasizes that assessment activities are the “backbone” of the “3-tier” model of providing mental health care in the school context for 1 Cử nhân, CERM – Phòng Tham vấn tâm lý, giáo dục & định hướng nghề nghiệp. 2 Thạc sĩ, CERM – Phòng Tham vấn tâm lý, giáo dục & định hướng nghề nghiệp. 684
  2. students with the first step is screening. However, in Vietnam, due to many objective and subjective factors, there has not been a satisfactory investment in this content as a basis for further prevention, intervention, or transfer activities. This issue is especially important at the high school level and above when children’s difficulties are not merely a single intellectual or emotional- behavioral aspect. Accordingly, mental health care activities for children also need to refer to more holistically. From the work experience as a school psychologist, by document research method, using available results of some articles, we would like to mention the current reality of screening assessment activities for high school students and proposing a personality screening tool for high school students to integrate into the mental health care programs of high schools in Vietnam today. Keywords: assessment, mental health care activities, high school students, screening I. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo NASP (2006) đưa ra về việc hướng dẫn chương trình đào tạo và thực hành Tâm lý học trường học (TLH TH) của Hiệp hội quốc gia các nhà tâm lý học trường học Mỹ, “các chuyên viên Tâm lý học đường (TLHĐ) phải thông thạo nhiều phương pháp đánh giá khác nhau; các hoạt động đánh giá được tiến hành phải gắn liền với mục tiêu hỗ trợ và can thiệp nhằm phát triển năng lực nhận thức và các kỹ năng học tập, cũng như các kỹ năng xã hội và năng lực sống nói chung của người học”. Hướng dẫn này dựa trên một thời gian dài sử dụng và phát triển không ngừng các trắc nghiệm về trí tuệ nói riêng và các công cụ đánh giá cho lĩnh vực tâm lý, tâm thần nói chung ở Hoa Kỳ – nơi ngành Tâm lý học rất phát triển. Điều này nhấn mạnh TLH TH không thể tách rời các hoạt động phòng ngừa, can thiệp khỏi các hoạt động đánh giá, sàng lọc. Nhóm tác giả Trần Thị Lệ Thu, Trần Thành Nam, Nguyễn Thị Phượng trong Cẩm nang tâm lý học đường có đề cập công việc của một chuyên gia Tâm lý học đường có thể thực hiện một hoặc nhiều bao gồm: “Sàng lọc, đánh giá, chẩn đoán các vấn đề về nhận thức, học tập, cảm xúc, hành vi và xã hội ở trẻ em, thanh thiếu niên; Xây dựng và thực hiện các chương trình phòng ngừa khó khăn, rối nhiễu tâm lý ở trẻ em, thanh thiếu niên; Tham 685
  3. vấn, trị liệu tâm lý cho cá nhân hoặc nhóm học sinh; Đào tạo và tư vấn tâm lý – giáo dục cho phụ huynh, giáo viên, cán bộ nhân viên, ban giám hiệu và các nhà quản lý trường học; Thực hiện các chương trình giáo dục và tư vấn, tham vấn hướng nghiệp cho học sinh; Nghiên cứu và lượng giá các chương trình tâm lý học đường; Tham gia giám sát, đào tạo chuyên gia tâm lý học đường, chuyên gia tâm lý học ứng dụng” (Trần & cộng sự, 2018, tr.13). Như vậy, nhiệm vụ được xem là nền tảng và cần thiết của hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần trong bối cảnh học đường là công tác đánh giá (bao gồm các cấp độ từ sàng lọc đến chẩn đoán) khi được đề cập đầu tiên và nhấn mạnh trong mô tả chức năng công việc của một chuyên viên TLHĐ. Sàng lọc là một khâu không thể thiếu để xây dựng các chương trình phòng ngừa chăm sóc sức tâm thần cho cộng đồng; đánh giá là hoạt động bắt buộc và là tiền đề của hoạt động can thiệp, tham vấn trị liệu cho bất kỳ đối tượng nào ở bối cảnh từ trường học cho đến bệnh viện, phòng khám. Trong thực tế, công tác và nhân lực của phòng tư vấn tâm lý tại trường học khi Thông tư 31/2017/TT-BGDĐT ra đời thúc đẩy hơn hoạt động hỗ trợ tâm lý cho học sinh trong các trường học hiện nay. Một số trường công lập và dân lập đã có mô hình phòng tư vấn tâm lý và vẫn duy trì cho đến thời điểm hiện tại, điển hình là Phòng tâm lý của trường THPT Marie Curie TP Hồ Chí Minh, đã được thành lập 10 năm và vẫn duy trì hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh của mình. Hay một số trường học trong cả nước cũng có bề dày kinh nghiệm làm việc từ 5 năm trở lên (Phạm, 2018). Đến năm 2020, mã nghề Tâm lý học 2634 được đưa ra trong Quyết định số 34/2020/QĐ-TTg về Danh mục nghề nghiệp Việt Nam càng góp phần đẩy mạnh việc thành lập các phòng tâm lý với nhiệm vụ chính yếu là hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho học sinh. Người làm tâm lý trong bối cảnh học đường nhờ đó cũng nhận được sự quan tâm nhiều hơn từ các bên, cả trong lẫn ngoài nhà trường (Ban giám hiệu, giáo viên, cán bộ công nhân viên, học sinh, phụ huynh học sinh, ban ngành đoàn thể, tổ chức xã hội v.v.). Dù vậy, nhìn nhận thực tế về lực lượng nhân sự chuyên nghiệp để làm công tác này, được đào tạo bài bản như một chuyên viên tâm lý học đường hiện nay vẫn còn rất hạn chế về nhiều mặt (Huỳnh & cộng sự, 2019, tr.151). Các lực lượng kiêm nhiệm và/hoặc chuyên trách được đào tạo qua các khóa ngắn hạn cũng chủ yếu là tập trung vào những kỹ năng tư vấn (lắng nghe, an ủi, tìm giải pháp,…) cho học sinh (thường 686
  4. thấy ở các trường công lập). Chính vì vậy mà hoạt động đánh giá nói chung và sàng lọc nói riêng chưa có nguồn nhân lực là những người làm tâm lý, được đào tạo chính quy, bài bản về đánh giá tâm lý để triển khai có hiệu quả và đúng với chức năng của hoạt động này. Đặc biệt, khi các lứa tuổi được phân theo các cấp học tại Việt Nam như Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở (THCS) có xu hướng bộc lộ vấn đề của mình đa số về mặt hành vi – cảm xúc hay trí tuệ, còn lứa tuổi Trung học phổ thông (THPT), không đơn thuần ở một khía cạnh riêng biệt nào về hành vi, cảm xúc hay suy nghĩ, mà cần có cái nhìn tổng hòa đa chiều hơn, thì vẫn còn bỏ ngỏ, có thể do chưa có công cụ đánh giá phù hợp. Thế nên, một công cụ sàng lọc về nhân cách dành cho học sinh cấp 3 cũng sẽ được giới thiệu sơ lược để người đọc tham khảo thêm ở cuối bài. Tóm lại, là người thực hành tâm lý trong bối cảnh học đường, từ những trải nghiệm trong công việc và qua những phân tích trên, chúng tôi muốn tìm kiếm lời đáp cho những câu hỏi “Tại sao hoạt động đánh giá sàng lọc hiện nay vẫn chưa được xem là “cốt lõi”, là “xương sống” trong mô hình “3 tầng” vốn vẫn đang được vận dụng?”; “Hoạt động sàng lọc là làm gì, cho ai?”; “Hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh trong bối cảnh học đường với ba khâu phòng ngừa, can thiệp và chuyển gửi đang được dựa trên tiền đề nào để vận hành và hiệu quả như thế nào?”. Qua bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày một số cơ sở lý luận để khẳng định tính cấp thiết và tầm quan trọng của hoạt động đánh giá nói chung, trong đó tập trung ở khâu sàng lọc, đối với công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh trong bối cảnh học đường. Bài viết cũng sử dụng kết quả của một số nghiên cứu đã có để nói lên thực trạng của hoạt động sàng lọc, từ đó đề xuất một công cụ sàng lọc về nhân cách cho học sinh cấp 3 nhằm mở ra hướng nghiên cứu sâu hơn, tích hợp công cụ vào các chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần hiện có của các trường học tại Việt Nam. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu dựa trên các bài báo, tài liệu chuyên khảo của các tác giả đã được phân tích và chắt lọc với những chủ đề trong bối cảnh học đường về mô hình hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần, đánh giá, sàng lọc và công cụ đánh giá sàng lọc nhân 687
  5. cách của Việt Nam và thế giới, sau đó lựa chọn 15 tài liệu để làm tổng quan cho bài viết này. 2.1. Bối cảnh thực hành tâm lý học đường tại Việt Nam hiện nay TLHĐ là một ngành vẫn còn rất mới tại Việt Nam nếu so sánh với một số quốc gia khác trên thế giới đã hình thành nửa thế kỷ (NASP, 1969). Việc học hỏi những học thuyết, lý luận hay những hướng dẫn thực hành là một điều dễ hiểu. Nhưng, khi những nội dung này đưa vào bối cảnh Việt Nam, có thể thấy sự khác biệt về mặt văn hoá, xã hội, bối cảnh và con người. Theo mô hình chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh trong bối cảnh học đường đã được giới thiệu trong các chương trình đào tạo và đang dần trở nên phổ biến tại Việt Nam – “mô hình hỗ trợ 3 tầng” (the 3-tier support model), công việc của một chuyên viên tâm lý học đường bao gồm ba mảng chính là Phòng ngừa – Can thiệp – Can thiệp sâu. Đã có nhiều bài viết tại Việt Nam đề cập đến mô hình này. Trong tài liệu hướng dẫn về Tham vấn học đường, Trần Thị Minh Đức (2016, tr.27- 29) đã trình bày Mô hình dịch vụ 3 cấp độ như sau: Cấp độ 1: Can thiệp tất cả học sinh, mang tính định hướng ban đầu, chủ động phòng ngừa (các chương trình nâng cao kiến thức, kỹ năng, hoạt động tăng cường sức khỏe tâm thần mang tính dự phòng), học sinh không có vấn đề khó khăn học đường chiếm 80% nên việc can thiệp mang tính chất hướng dẫn; Cấp độ 2: Tham vấn cho 15% học sinh có căng thẳng tâm lý, nguy cơ rối nhiễu tâm lý bằng các hình thức cá nhân hoặc nhóm nhỏ giúp giải quyết được tức khắc các vấn đề liên quan đến học tập, cá nhân và xã hội của các em; Cấp độ 3: Can thiệp chuyên môn sâu, chiếm 5% trong tổng số học sinh có nguy cơ cao có rối nhiễu tâm lý (rối loạn lo âu, trầm cảm, stress sau sang chấn) trong trường học gây ảnh hưởng đến kết quả học tập, rối loạn nhịp sinh hoạt nên can thiệp cần nhiều thời gian và đòi hỏi chuyên môn sâu (nhà tâm lý lâm sàng, bác sĩ tâm thần), học sinh có thể được giới thiệu, chuyên viên TLHĐ có nhiệm vụ đánh giá sơ bộ, chuyển học sinh đến nơi thích hợp và hỗ trợ học sinh trở lại trường. Trong bài viết chia sẻ “Kinh nghiệm mười năm xây dựng phòng tâm lý học đường trường THPT Marie Curie Thành phố Hồ Chí Minh”, Phạm Thị Bích Phượng (2018) cũng đã giới thiệu mô hình hoạt động của Phòng tâm lý học đường Hoa Kỳ đang 688
  6. được vận dụng tại Phòng Tâm lý học đường trường THPT Marie Curie là mô hình “3 tầng” và hoạt động đánh giá sàng lọc được đề cập tới thông qua việc sử dụng Bảng Liệt kê Hành vi trẻ em tuổi 6-18 (The Child Behavior Checklist-CBCL/6-18). Ở bài viết “Mô hình tham vấn tâm lý tại một số trường học trên địa bàn Hà Nội – khó khăn đặt ra và định hướng phát triển” của Vũ Thị Thanh Nga (2018), “mô hình 3 tầng” cũng được nhắc đến đến khi được trường THCS Ngô Sĩ Liên vận dụng. Và bài viết “Using the 3-tier support model for students’ mental health: the case of Tue Duc high school” (Nguyen & Nguyen, 2019) càng chú trọng hơn việc sử dụng “mô hình 3 tầng” này trong các hoạt động của phòng Tâm lý học đường tại các trường học Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, nên lưu ý rằng, mô hình này không phải là mô hình của TLHĐ tại Việt Nam mà đang được vận dụng không chính thức nhằm tiếp nhận cơ bản cách vận hành hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần trong nhà trường. Về “mô hình 3 tầng”, đây là mô hình RtI (Response to Intervention) của Hoa Kỳ xây dựng cho các chuyên viên tâm lý học đường (NASP), mỗi một bang hay một khu vực cũng có sự thích nghi khác nhau. Mô hình “3 tầng” này có nhiều phiên bản, có nơi “4 tầng” bổ sung công tác Chuyển gửi. Trong bài viết này, chúng tôi nhấn mạnh ở điểm đánh giá như một “trục xương sống” xuyên suốt qua các “tầng” và sàng lọc (tương ứng với bậc đầu tiên, dành cho học sinh toàn trường để làm cơ sở cho hoạt động phòng ngừa trên diện rộng) là yếu tố có nhiệm vụ thu thập dữ liệu cho các hoạt động của các tầng tiếp theo như phòng ngừa, can thiệp và can thiệp sâu hoặc tìm kiếm sự hỗ trợ từ các đơn vị bên ngoài (còn gọi là Chuyển gửi) nằm ở bậc 4 đối với một số nơi áp dụng mô hình “4 tầng” theo các tài liệu về thực hành mô hình RtI của NASP. Cần lưu ý rằng “Điều quan trọng là phải hiểu rằng một khi trẻ chuyển từ cấp thấp hơn lên cấp cao hơn, các dịch vụ hỗ trợ từ cấp trước đó sẽ tiếp tục được thực hiện.” (Gresham & cộng sự, 2013, tr.22), từ nhận định này để thấy tầm quan trọng của việc đánh giá sàng lọc cho toàn học sinh cần có sự bổ trợ xuyên suốt khi tiến lên các bậc 2 và 3 trong mô hình. Tuy nhiên, việc vận dụng khâu đánh giá sàng lọc được xem là xuyên suốt này vẫn chưa được xem trọng. Và trong thực tế tại các trường có phòng tâm lý, nó chỉ đang là khảo sát nhu cầu hỗ trợ tâm lý học sinh để thực hiện những 689
  7. chương trình trình phòng ngừa hình thức sinh hoạt chuyên đề dưới sân cờ, giáo dục kỹ năng mà chưa có nhiều thông tin về khía cạnh tâm lý chuyên sâu để có thể can thiệp tham vấn cá nhân hay nhóm hoặc hỗ trợ chuyển gửi học sinh. Khi đại dịch COVID-19 vừa mới xuất hiện, việc xét nghiệm sàng lọc là một công việc được ưu tiên thực hiện hàng đầu và trên bình diện hàng loạt để nhận biết và phân loại người được xét nghiệm vào nhóm chưa nhiễm bệnh hay nhóm nhiễm bệnh để có thể được các nhân viên y tế hỗ trợ các bước tiếp theo. Sau đó, các hoạt động đối với người nhiễm sẽ được diễn ra như thăm khám để đánh giá tình trạng sức khỏe, xem xét cho cách ly tại nhà hay vào các khu cách ly tập trung. Có thể thấy, để tiến hành các hoạt động như cách ly, chữa bệnh hay hỗ trợ người nhiễm COVID-19 thì việc đầu tiên cần làm đó chính là phải thực hiện xét nghiệm sàng lọc. Hoạt động sàng lọc có thể cho biết kết quả ngay tức thì tình trạng sức khỏe, nhu cầu và mong muốn được chữa bệnh và đáp ứng mục tiêu đúng người đúng bệnh, đúng khu vực. Nếu không có việc xét nghiệm sàng lọc xảy ra, khả năng phát hiện người bệnh sẽ bị hạn chế và gặp nhiều khó khăn do không thể xác định đúng người. Điều này gây hoang mang cho các y bác sĩ và cả cộng đồng, càng không thể nào chờ đợi người nhiễm bệnh chủ động tìm đến các cơ sở y tế khi đây là dịch bệnh truyền nhiễm. Bên cạnh đó, việc tiêm ngừa vaccine cũng cần được các bác sĩ thăm khám sàng lọc để xem xét người được tiêm có thể sử dụng vaccine hay không. Thực tế này đang xảy ra ở khắp nơi trên thế giới không chỉ riêng Việt Nam. Có thể thấy những kế hoạch phòng chống dịch cũng có sự tương tự như mô hình hỗ trợ chăm sóc sức khỏe tinh thần được trình bày ở trên, Xét nghiệm sàng lọc – Thăm khám đánh giá sức khỏe – Cách ly cũng đi từ các tầng thấp nhất như Phòng ngừa – Can thiệp – Can thiệp sâu và trước hết phải có sự sàng lọc phân loại với đánh giá người bệnh là xuyên suốt các tầng. Về xét nghiệm sàng lọc hay khám sàng lọc cho việc tiêm vaccine khẳng định rằng, hoạt động sàng lọc trong thực tế là cần thiết và quan trọng ở bước đầu tiên để tạo cơ sở vững chắc thực hiện các bước tiếp theo. 2.2. Cơ sở lý thuyết về hoạt động sàng lọc Từ bối cảnh được nêu trên với nhiều vấn đề còn đang hiện diện, chúng tôi sẽ đưa ra những khái niệm cơ bản nhất cho hoạt động đánh giá 690
  8. sàng lọc cũng như phân biệt với một số thuật ngữ nhằm tránh sự nhầm lẫn hay nhập nhằng, từ đó làm rõ hơn vai trò, nhiệm vụ của hoạt động đánh giá sàng lọc. 2.2.1. Khái niệm đầu tiên về sàng lọc trong các lĩnh vực Năm 1951, Hội nghị Uỷ ban về Bệnh mãn tính về các khía cạnh phòng ngừa của bệnh mãn tính đã định nghĩa sàng lọc là “việc xác định giả định bệnh hoặc khiếm khuyết chưa được phát hiện bằng cách áp dụng các xét nghiệm, kiểm tra hoặc các thủ tục khác có thể được áp dụng nhanh chóng. Các xét nghiệm sàng lọc phân loại rõ ràng những người có thể mắc bệnh so với những người có thể không mắc bệnh. Xét nghiệm sàng lọc không nhằm mục đích chẩn đoán. Những người có kết quả dương tính hoặc nghi ngờ phải được chuyển đến bác sĩ để chẩn đoán và điều trị cần thiết” (Wilson & Junger 1968, tr.11). Một mục đích khác của sàng lọc là kiểm soát sự lây lan bệnh truyền nhiễm ở các nước kém phát triển. Năm 1968, Tổ chức y tế Thế giới (WHO) đã cung cấp 10 nội dung hướng dẫn để hoạt động sàng lọc trong lĩnh vực sức khỏe thể lý (tầm soát bệnh lý) được diễn ra hiệu quả. Tại Hoa Kỳ, lịch sử của hoạt động sàng lọc đầu tiên nói chung và sàng lọc liên quan đến sức khỏe tâm thần nói riêng sau này trải dài ở các lĩnh vực như sau: – Trong quân đội, một trong những chương trình kiểm tra lâu đời nhất được ghi lại đã được Phòng Tâm lý học thuộc Bộ Y tế của Quân đội Hoa Kỳ sử dụng trong Thế chiến I. Sang giai đoạn Thế chiến II, một bài kiểm tra giấy và bút chì tiêu chuẩn có tên là bài kiểm tra hỗ trợ sàng lọc tâm thần kinh (NSA) được phát triển nhằm xác định những cá nhân bị rối loạn tâm thần và loại họ khỏi nghĩa vụ quân sự, hiện tại vẫn đang tiếp tục triển khai các chương trình kiểm tra sức khỏe tâm thần. – Vào những năm 1960, chương trình sàng lọc trẻ sơ sinh quy mô lớn đầu tiên do nhà nước bắt buộc đã được thực hiện để xác định sự hiện diện của rối loạn chuyển hóa di truyền. Sau khi các kỹ thuật sàng lọc mới được phát triển và các gen bệnh riêng lẻ đã được xác định, việc phát triển các chương trình sàng lọc thí điểm đã bắt đầu đối với nhiều tình trạng di truyền và trước khi sinh bao gồm hội chứng Down, bệnh xơ nang,… (Baily & Murray, 2008, tr.25). 691
  9. – Năm 1957, Uỷ ban về bệnh mãn tính chỉ ra rằng sàng lọc (tầm soát) có thể hiệu quả đối với các tình trạng y tế như lao phổi, tăng huyết áp, ung thư,… (Wilson & Junger, 1968). Tuy nhiên, việc sàng lọc một số bệnh không còn phù hợp nữa do sự thành công của các chương trình sàng lọc trước đây trong việc loại trừ những bệnh này khỏi cộng đồng trên diện rộng như bệnh giang mai, lao phổi, tiểu đường,… Những hướng dẫn hay thực hành trong các lĩnh vực khác nhau đã có những đóng góp quan trọng trong việc định hình cho quá trình sàng lọc về sức khỏe tâm thần sau này. Phải phân biệt được rằng, khái niệm về sàng lọc mà chúng tôi đang đề cập đến là về hoạt động chăm sóc sức khỏe tinh thần trong bối cảnh học đường. Hiển nhiên sẽ có một vài điểm khác biệt với sàng lọc của một số lĩnh vực khác. 2.2.2. Khái niệm về sàng lọc trong hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần Sàng lọc trong hoạt động chăm sóc sức khỏe tinh thần được chúng tôi nêu ra trong bài viết này như sau: “Hoạt động sàng lọc (screening) cung cấp một loại nhân dạng tiết kiệm được áp dụng cho tất cả đối tượng được sàng lọc, trong khi đánh giá (assessment) là bước tiếp theo sau khi sàng lọc, cung cấp sự xác định chi tiết hơn và cá nhân hoá hơn về những nhu cầu sức khỏe tâm thần mà những đối tượng có kết quả sàng lọc cho thấy “nguy cơ” đã hiện hữu” (Grisso & cộng sự, 2005). Có thể hiểu, hoạt động sàng lọc được áp dụng với mọi học sinh khi được nhập học (toàn thể học sinh khối 10 bắt đầu năm học tại trường cấp 3). Và hoạt động sàng lọc tập trung vào việc xác định các dấu hiệu cảnh báo của một nhu cầu tiềm tàng cho một số loại phản ứng tức thời (nguy cơ tự sát, bị bạo hành, lạm dụng, xâm hại,…). Sàng lọc và đánh giá không nhất thiết phải là hai hoạt động khác nhau vì điểm chung là cả hai đều có thể xác định một tình trạng sức khỏe tâm thần nào đó hay có thể tìm cách để hiểu hơn về sự hiện diện và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. Tuy nhiên, điểm khác biệt của sàng lọc là thường xác định những tình trạng này một cách dự kiến (tiên liệu) nhiều hơn so với đánh giá; kết quả của hoạt động sàng lọc vì thế có giá trị trong một khoảng thời gian ngắn hơn đánh giá; cung cấp quan điểm ít cá nhân hơn về bản chất và nhu cầu sức khỏe tâm thần của thanh thiếu niên. 692
  10. Hoạt động đánh giá, được hiểu “là việc thu thập, phân tích thông tin để xác nhận, lượng giá các hiện tượng, các vấn đề tâm lý ở cá nhân theo những tiêu chí nhất định, làm cơ sở cho việc tiến hành các hoạt động tiếp theo” (Nguyễn, 2015, tr.8). Điểm cần lưu ý ở đánh giá là có thể được thực hiện một cách chọn lọc với một số cá nhân chứ không phải với tất cả đối tượng trên diện rộng như hoạt động sàng lọc. Trong quá trình sàng lọc, các dấu hiệu được phát hiện và hoạt động đánh giá đáp ứng với các tín hiệu này, cho thấy nhu cầu về sức khỏe tâm thần được cá nhân hoá và xác định kỹ lưỡng hơn so với những thông tin được cung cấp bởi hoạt động sàng lọc. Có thể hình dung, hoạt động sàng lọc là một hoạt động đầu tiên, mang tính chất vào một thời điểm nhất định và dành cho tất cả học sinh, từ đó sẽ có những chương trình phòng ngừa cho toàn thể học sinh dựa trên những thông tin mang tính dự kiến. Sau khi hoàn tất hoạt động sàng lọc, hoạt động đánh giá sẽ được thực hiện dựa trên một số thông tin mang tính tiên liệu để bắt đầu xem xét một cá nhân nào đó một cách chi tiết hơn trong nhóm đã được sàng lọc. Và tất cả các thông tin thu được từ cả 2 hoạt động này luôn có mục tiêu phục vụ cho công tác phòng ngừa và can thiệp. Bên cạnh đó, khi nhắc đến hoạt động đánh giá hay sàng lọc, một số khái niệm khác thường được đề cập đi kèm như đo lường (measurement), chẩn đoán (diagnose),… và mỗi thuật ngữ đều mang khái niệm khác nhau. Đo lường là một khái niệm chung nhất, rộng nhất mang tính phổ quát; còn trắc nghiệm (testing) là một hành động cụ thể, là một phương thức thực hiện trong quá trình sàng lọc hay đánh giá. Còn chẩn đoán được xem như một dạng đặc biệt và chuyên sâu hơn của hoạt động đánh giá; có nhiệm vụ xác định, làm rõ bản chất của một rối nhiễu, lệch lạc hay bệnh lý ở một cá nhân cụ thể; mục tiêu của chẩn đoán hẹp hơn và sâu hơn. Chính vì vậy, với mục tiêu của bài viết này, chúng tôi sẽ không trình bày chi tiết thêm về những khái niệm này nhưng một cách cơ bản và sơ lược giúp người đọc phân biệt được các thuật ngữ khác nhau, tránh nhầm lẫn trong cách sử dụng. Để có thể tiến hành một chương trình sàng lọc hiệu quả và hạn chế khả năng mỗi người mỗi cách hiểu như trong thực trạng thì việc hiểu tường tận và phân biệt được những khái niệm của các thuật ngữ hay sử 693
  11. dụng khi được nhắc kèm với sàng lọc là một điều cần được chú ý. Từ đó, việc hình dung cách triển khai hay xác định đối tượng để thực hiện sàng lọc là vô cùng quan trọng trong bối cảnh học đường tại Việt Nam. 2.2.3. Hoạt động sàng lọc trong bối cảnh học đường Từ các khái niệm ban đầu làm cơ sở cho khái niệm của hoạt động sàng lọc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần được đề cập ở trên, trong đó có những hướng dẫn về mặt y tế, thì trong các cơ sở y tế, mỗi bệnh nhân khi đến sẽ được phân loại (đôi khi được gọi là “tầm soát”) ban đầu thành ba nhóm tùy theo vấn đề sức khỏe hay bệnh lý họ đang có ở mức độ khẩn cấp nào. Và theo nghĩa này, quá trình sàng lọc trong bối cảnh học đường cũng tương tự như hoạt động phân loại. Hoạt động sàng lọc mang lại hữu ích trong các hệ thống học đường (đặc biệt là hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần trong bối cảnh học đường của Việt Nam chúng ta hiện nay), nơi có nguồn lực hạn chế và do đó không thể đáp ứng một cách toàn diện hoặc ngay lập tức nhu cầu cụ thể của mọi cá nhân. Trong những trường hợp này, việc xác định những người có thể cần nhất và khẩn cấp nhất không chỉ là một vị trí có thể bảo vệ được, mà là vị trí tốt nhất (Grisso, Vincent & Seagrave, 2005). Phải luôn nhấn mạnh rằng, hoạt động sàng lọc là quan trọng trong bối cảnh học đường với học sinh THPT. Nhiệm vụ của hoạt động sàng lọc là thực hiện việc “phân loại” (sorting) các học sinh ban đầu thành ít nhất hai nhóm: một nhóm rất khó có những đặc điểm mà chuyên viên TLH TH muốn xác định như nhu cầu sức khỏe tâm thần hay nguy cơ gây tổn hại cho mình và người khác; và một nhóm có số lượng ít hơn nhưng có nhiều khả năng hiện diện những đặc điểm đó. Giá trị của việc sàng lọc là giúp xác định được một học sinh có nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần cao hơn những học sinh còn lại trong nhóm được sàng lọc. Dù chỉ có một số học sinh được sàng lọc có thể có các rối loạn cấp tính mà mục tiêu sàng lọc nhắm tới như nguy cơ về tự tử, trầm cảm, bị bắt nạt hay lạm dụng,… nhưng tỷ lệ này trong “nhóm có nguy cơ sau sàng lọc” chắc chắn sẽ lớn hơn rất nhiều nếu so tỷ lệ này trong tất cả học sinh lớp 10 vừa được nhận vào trường. Do đó, việc sàng lọc cho phép hệ thống tâm lý học đường tập trung nỗ lực các nguồn lực “khan hiếm” của mình vào nhóm có tỷ lệ thanh thiếu niên có nhu cầu cao hơn này. 694
  12. Các phương pháp sàng lọc, bên cạnh việc mang lại những sự hữu ích thì hiển nhiên cũng đòi hỏi một sự đánh đổi. Hầu hết, các phương pháp sàng lọc đều phân loại học sinh thành các nhóm, nhưng không nhằm cung cấp đầy đủ chi tiết về tình trạng của học sinh để đưa ra quyết định cá nhân về nhu cầu của học sinh đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần cụ thể. Chẳng hạn, một công cụ sàng lọc về nhân cách sẽ phân loại học sinh thành những người không có triệu chứng đáng chú ý và những người có triệu chứng đáng kể, nhưng kết quả này sẽ không cung cấp chẩn đoán cho các đối tượng được nó phân loại vào nhóm những người có triệu chứng đáng kể. Phần trình bày này khẳng định, chúng ta đang đề cập đến hoạt động sàng lọc trong bối cảnh học đường với đối tượng là học sinh THPT. Thông qua việc sàng lọc và có được kết quả, các dấu hiệu của vấn đề ở mỗi học sinh được làm rõ, từ đó nhận diện được những học sinh có vấn đề liên quan đến các bước phòng ngừa, can thiệp hay chuyển gửi cho các chuyên gia thuộc mảng lâm sàng sẽ được tập trung chú ý hơn. Nhờ vậy hạn chế việc rơi lại một số học sinh có nhu cầu nhưng chưa được tiếp cận hoặc cách tiếp cận chưa phù hợp. Khi có được việc sàng lọc trong bối cảnh học đường một cách nghiêm túc, việc một chuyên viên TLH TH với số lượng khoảng 500 đến 1000 em học sinh sẽ không còn là khó khăn khi phải dùng hết sức lực và nguồn lực cả trường gồm ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm và bộ môn hay kể cả tổ giám thị để quan sát, theo dõi và đánh giá học sinh của trường mình. 2.3. Thực trạng về hoạt động sàng lọc trong công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh ở các trường THPT công lập tại TP HCM Theo khảo sát của Phạm Hải Lâm (2020) trong luận văn “Đánh giá sàng lọc nhân cách cho học sinh một số trường Trung học phổ thông tại Thành phố Hồ Chí Minh bằng bảng kiểm nhân cách thanh thiếu niên”, nhìn nhận về hoạt động đánh giá nói chung và sàng lọc nói riêng của người làm tâm lý trong bối cảnh học đường được phân tích xoay quanh bốn khía cạnh: – Cách hiểu về khái niệm “sàng lọc” của các chuyên viên chưa có một nhìn nhận thống nhất về bản chất và mục đích của các hoạt động sàng lọc. Từ cách hiểu chưa được thống nhất đó khiến một số chuyên viên nhầm 695
  13. lẫn giữa hoạt động sàng lọc và hoạt động thăm dò, khảo sát. Chính vì vậy mà một số chuyên viên gắn liền việc sàng lọc với các bài trắc nghiệm vừa là một công cụ, vừa là một hoạt động tương đương với sàng lọc mà không xem nó chỉ thuần về mặt công cụ; từ đó dẫn đến việc chưa sàng lọc chi tiết các khía cạnh như nhận thức, hành vi, cảm xúc hay khó khăn học tập, điều kiện gia đình,… mà vẫn ở mức chung như vấn đề, khó khăn trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần của học sinh. Dù nhìn nhận về hoạt động đánh giá sàng lọc vẫn còn ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng các nhận định của các chuyên viên đều nhìn nhận tầm quan trọng của hoạt động này cho mục tiêu làm sao để có thể hỗ trợ phát hiện các nan đề, vấn đề của học sinh để từ đó có sự can thiệp, hỗ trợ kịp thời. – Kinh nghiệm trong quá trình sàng lọc nhìn chung khá tản mạn, thậm chí lệch khỏi cách hiểu ban đầu về sàng lọc và thiên về khảo sát lấy ý kiến, khảo sát nhu cầu hay giám sát, giám thị. Từ việc không xác định và thống nhất mục tiêu dẫn đến phạm vi của đối tượng sẽ sàng lọc, nguồn lực cho hoạt động sàng lọc hay việc lựa chọn công cụ sàng lọc lẫn quy trình đều rời rạc, khó tiếp cận dẫn đến những khó khăn trong quá trình sàng lọc. – Khó khăn trong việc thực hiện hoạt động sàng lọc phần lớn được ghi nhận ở mức độ tổ chức như thời gian, tài chính, nhân lực, công cụ,… hay cả khó khăn do số lượng học sinh lớn. Tuy nhiên, nếu số lượng học sinh ít hơn hay số lượng chuyên viên TLH TH ở mức tương đối với số lượng học sinh thì đã thành hoạt động đánh giá, thậm chí là chẩn đoán tâm lý như khi học sinh thăm khám ở các bệnh viện chứ không còn là hoạt động sàng lọc nữa. Bên cạnh đó, xuất hiện sự thiếu nhất quán và thiếu liên kết trong nhận định về vai trò của hoạt động sàng lọc trong hệ thống hoạt động tâm lý học đường. Vì vậy mà những vấn đề của học sinh được tách ra khỏi phụ huynh, những cộng đồng xã hội của học sinh ngoài gia đình và nhà trường cùng chung tay hỗ trợ cho học sinh và trở thành câu chuyện cá nhân học sinh với từng người xung quanh (nhà trường, giáo viên, chuyên viên TLH TH). Ngoài ra, khó khăn cho hoạt động sàng lọc còn nằm ở chính khó khăn của học sinh như ngại nói, tính phòng vệ cao,... Chính vì vậy khi có hoạt động sàng lọc, chuyên viên tâm lý sẽ hạn chế được những tình huống này mà vẫn thu thập thông tin và hỗ trợ kịp thời cho học sinh của mình. 696
  14. – Kỳ vọng để thực hiện các chương trình sàng lọc ở các chuyên viên TLH TH có rất nhiều cho một chương trình hỗ trợ phòng tâm lý học đường thực hiện hoạt động sàng lọc như một lời “kêu gọi trợ giúp”. Điều này cho thấy các chuyên viên TLH TH vẫn luôn nhắc nhở về tầm quan trọng và tính cấp thiết của hoạt động sàng lọc cho học sinh trong bối cảnh học đường được diễn ra một cách bài bản, nghiêm túc và hiệu quả. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy rằng nguồn lực chuyên môn dành riêng cho công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần trong bối cảnh học đường vẫn còn nhiều hạn chế. Các trường học mỗi năm học đều tiếp nhận hàng trăm học sinh mới bên cạnh hàng trăm học sinh đang học tập tại trường, nhưng số lượng chuyên viên TLH TH hay người kiêm nhiệm chỉ có từ 1 đến 2 người (Huỳnh & cộng sự, 2019, tr.150-151). Việc đặt kỳ vọng cao vào những người làm tâm lý học đường là điều khó tránh. Những người được xem là có chuyên môn và hiệu quả công việc của họ ảnh hưởng trực tiếp đến mong muốn, nhu cầu của các bên: học sinh, phụ huynh và nhà trường. Khi các chuyên viên bắt đầu kiệt sức vì công việc, việc sáng tạo ra nhiều phương thức khác nhau để được xem là một cách phù hợp hỗ trợ công việc của mình sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Nhận định này chứng minh, đã đến lúc hoạt động sàng lọc cần được hiểu đúng và đủ về tầm quan trọng và tính cấp thiết để làm cơ sở tiến hành các công tác chăm sóc hỗ trợ tiếp theo. Theo đó, chúng tôi muốn đề xuất một công cụ mà chúng tôi đang thực hiện trong chương trình đánh giá sàng lọc của hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần tại trường THPT Marie Curie Thành phố Hồ Chí Minh. 2.4. Giới thiệu công cụ sàng lọc về nhân cách cho học sinh cấp ba – Bảng kiểm nhân cách thanh thiếu niên (Personality Inventory for Youth – PIY): Lứa tuổi học sinh cấp 3 hay THPT (15-18 tuổi) là lứa tuổi khá đặc biệt, chuyển giao từ khi quá trình dậy thì vừa hình thành cho đến khi kết thúc và bước sang tuổi thanh niên. Ở lứa tuổi này có những đặc điểm hay được gọi là tuổi ương bướng, bốc đồng. Tuy nhiên, khác với giai đoạn THCS (11-14 tuổi), lứa tuổi THPT không còn bộc lộ những khó khăn hay biểu hiện những vấn đề của mình qua cảm xúc – hành vi một cách tự nhiên, thuần túy và không có kiểm soát. Lứa tuổi này bắt đầu điều chỉnh, thích 697
  15. nghi những khó khăn mình gặp hướng về bản thân mình hơn và hạn chế bộc lộ ra bên ngoài – nội hoá (internalizing). Bên cạnh đó, một số thang đo đánh giá về cảm xúc – hành vi cũng có độ chênh lệch trong việc tự khai, kể cả thông qua quan sát bởi giáo viên hay bạn bè cùng lớp. Đó là chưa đề cập đến khía cạnh những đánh giá về mặt trí tuệ hầu như không còn hiệu quả khi các em đã học được đến cấp 3. Chính vì vậy, để có một cái nhìn tổng quan nhiều khía cạnh đối với một lứa tuổi không còn đơn thuần, chúng tôi đề xuất một công cụ sàng lọc về nhân cách cho học sinh cấp ba: Bảng kiểm nhân cách dành cho thanh thiếu niên (Personality Inventory for Youth) gọi tắt là PIY (Lachar & Gruber, 1995). Đây là một bài trắc nghiệm gồm 270 tiểu mục phù hợp cho thanh thiếu niên có trình độ từ lớp 4 đến lớp 12 trả lời theo dạng nhị phân (Đúng – Sai). Việc hoàn thành bản kiểm được cho là có thể thực hiện trong vòng 30 đến 60 phút. Các thang đo của PIY gồm có 9 thang đo lâm sàng: Yếu kém về nhận thức (cognitive impairment), bốc đồng và khó kiểm soát (impulsivity and distractibility), phạm pháp (delinquency), rối loạn chức năng gia đình (family dysfunction), tiếp nhận hiện thực méo mó (reality distortion), dạng cơ thể (somatic concern), không thoải mái về tâm lý (psychological discomfort), rút lui xã hội (social withdrawal) và thiếu hụt kỹ năng xã hội (limited skill deficit).  Tại Việt Nam, bảng kiểm này lần đầu tiên được lược dịch và sử dụng cho 33 học sinh lớp 6 tại Hà Nội. Bài báo “Đánh giá sàng lọc nhân cách học sinh Trung học cơ sở bằng bảng kiểm PIY” (2013) của Nguyễn Đức Sơn trình bày và phân tích kết quả sử dụng PIY để đánh giá sàng lọc nhân cách học sinh trên một số thang đo của bảng kiểm cho thấy ứng dụng của thang đo này. Năm 2015, PIY được trình bày đầy đủ nội dung, báo cáo kết quả đánh giá sàng lọc của bài báo trên và giới thiệu 270 tiểu mục được lược dịch trong tài liệu “Giáo trình đánh nhân cách” với cùng tác giả. Năm 2020, luận văn “Đánh giá sàng lọc nhân cách cho học sinh một số trường Trung học phổ thông tại Thành phố Hồ Chí Minh bằng bảng kiểm nhân cách thanh thiếu niên” của Phạm Hải Lâm đã một lần nữa thích nghi lại 270 tiểu mục của thang đo PIY này và tiến hành nghiên cứu tại trường THPT Marie Curie Thành phố Hồ Chí Minh gồm 10 lớp (gần 500 học sinh 698
  16. lớp 10) với mục đích sàng lọc nhân cách, so sánh kết quả đồng thời với 10 lớp sử dụng công cụ sàng lọc Bảng tự báo cáo của thanh thiếu niên từ 11- 18 (gọi tắt là YSR 11-18). Cho đến thời điểm hiện nay, PIY vẫn đang được vận dụng tại trường THPT Marie Curie như một công cụ sàng lọc chính của chương trình chăm sóc sức khỏe tinh thần của trường. Để có những trình bày chi tiết hơn về tính hiệu quả hay các vấn đề về việc thích nghi PIY trong tiếng Việt, liên quan đến độ hiệu lực, độ tin cậy, độ thích nghi,… của PIY, chúng tôi xin phép sẽ trình bày những điều đó trong khuôn khổ của một bài viết khác và kết hợp việc so sánh với các công cụ đang được dùng để đánh giá sàng lọc trong các trường THPT hiện nay. III. BÀN LUẬN Hoạt động đánh giá, từ lâu, đã là một nhiệm vụ quan trọng đối với học sinh trong bối cảnh học đường. Khi nhu cầu cung cấp các dịch vụ đánh giá tiền học đường (khả năng đọc, viết, làm toán) được hình thành nhằm phân loại học sinh bình thường đủ khả năng theo học chương trình tại các trường học và học sinh khuyết tật với những chương trình giáo dục đặc biệt và đã có những hướng dẫn cho công việc này (NASP). Và cũng theo NASP, từ những thập niên 90, các nhà TLH TH tại Hoa Kỳ cũng đã nhận thấy sự thay đổi qua từng thời kỳ, việc đánh giá học sinh không chỉ dừng lại ở mức độ phân loại mà phải gắn được với các chương trình phòng ngừa và can thiệp. Rất may mắn khi hầu hết, các nhà TLHĐ tại Việt Nam cũng đã nhận ra điều đó, và việc đề cập đánh giá như hoạt động nền tảng xuyên suốt và sàng lọc là hoạt động khởi đầu luôn được đưa ra trong các chương trình đào tạo cử nhân hay trong những tài liệu nói về công việc của một chuyên viên TLHĐ. David Lachar, người đã xây dựng bộ công cụ PIY cho thanh thiếu niên và trước đó là PIC cho trẻ em tiền tiểu học cũng đã nhìn thấy tầm quan trọng của việc sàng lọc học sinh một cách chính xác các vấn đề của học sinh và đáp ứng các dịch vụ phù hợp từ những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi ai cũng nhận thấy điều đó, vậy thì họ sẽ làm gì? Trong thực tế mà chúng tôi đã trải qua, việc đánh giá hầu như ít có tiền lệ được chủ động thực hiện. Hoạt động này chỉ xuất hiện chỉ khi nào có một học sinh bộc lộ nhu cầu cần được hỗ trợ khi học sinh chủ động, 699
  17. hoặc có những biểu hiện nhưng không có nhu cầu và “được” các thầy cô giáo đưa đến gặp chuyên viên TLHĐ với mong muốn xem em học sinh “bị” cái gì và làm sao cho cái “bị” đó không còn nữa. Lúc này, hoạt động đánh giá chỉ mang tính cá nhân, và nếu như học sinh đó có vấn đề về các bệnh lý tâm thần thì có lẽ, những điều này đang vượt quá xa chức năng, nhiệm vụ của một nhà TLH TH. Nhu cầu về một công cụ để có thể nắm bắt hết tất cả nhu cầu, phát hiện sớm vấn đề của học sinh là điều dễ hiểu khi “chờ đợi”. Câu hỏi mới lại xuất hiện thách thức các nhà TLH TH “Dùng cái gì để nắm bắt hết tất cả học sinh?”. Việc thực hiện các “bảng hỏi tự xây dựng” – phiếu khảo sát với các câu hỏi không mang ý nghĩa lâm sàng được các nhà TLH TH vận dụng và xem như mình đang tìm hiểu nhu cầu học sinh. Sau đó thì các chương trình sinh hoạt dưới cờ, phong trào thi đua,… được triển khai dựa trên kết quả khảo sát ấy. Công việc gì tiếp theo sẽ xuất hiện? Phòng ngừa trên diện rộng để nắm bắt được nhu cầu hỗ trợ tiếp theo của 20% học sinh không đáp ứng đủ với các chương trình đó và tâm thế bị động, chờ đợi lại xuất hiện, việc “bỏ sót” học sinh lại xuất hiện. Từ đó, có thể thấy hoạt động sàng lọc như một yêu cầu tất yếu khi một số trường bắt đầu đưa vào sử dụng các trắc nghiệm vào chương trình tâm lý học đường để thu thập thông tin hiệu quả hơn. Đơn cử là trắc nghiệm “CBCL”, luôn được nhắc tới khi hỏi về công cụ được thực hiện giúp sàng lọc học sinh ban đầu và đánh giá sau đó tại một số trường THPT hiện nay. Chúng ta dường như vẫn đang “mượn” những câu hỏi, đề mục để chuyển ngữ rồi sử dụng do tại Việt Nam vẫn chưa có những công cụ nào được tạo ra dành riêng cho nước mình, và việc học hỏi những công cụ này của các nước trên thế giới là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, từ “mượn” có thể được hiểu chưa qua đào tạo của những chuyên gia về công cụ hay về mặt bản quyền vẫn là một vấn đề. Lúc này, một câu hỏi tiếp theo được đặt ra, “Ai sẽ là người có đủ năng lực để thực hiện các công cụ đó?” khi các công cụ này cần được đào tạo và hướng dẫn bài bản về việc sử dụng. Khúc Năng Toàn (2014) cũng đặt ra câu hỏi bàn luận về việc đào tạo sử dụng các công cụ để không bị chính các công cụ “đánh lừa”. Ngay cả “CBCL” cũng có những câu hỏi hoàn toàn không phù hợp nếu dành cho học sinh cấp 3 tại Việt Nam vì có những hành vi, ở văn hoá nước ta là điều bình thường nhưng văn hoá phương 700
  18. Tây lại khác. “CBCL” là một trong ba thang đo của hệ thống đánh giá dựa trên thực chứng của Achenback có tên là Bảng Liệt kê Hành vi trẻ em tuổi 6-18 (The Child Behavior Checklist – CBCL/6-18); Mẫu báo cáo dành cho giáo viên (Teacher’s Report Form for Ages 5-18 – TRF/5-18) và dành cho học sinh tự khai (YSR/11-18). Khi được triển khai với phiên bản tiếng Việt, nhiều nơi vẫn quen thuộc gọi là “CBCL” mà chẳng cần quan tâm đây là bảng hỏi dành cho đối tượng nào trả lời, trong độ tuổi bao nhiêu… Trường THPT Marie Curie Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012 đã sử dụng “CBCL” cho công tác sàng lọc. Tuy nhiên, khi đối chiếu thì công cụ đang được dùng là YSR/11-18, nhưng cho tới nay vẫn gọi là “CBCL”. Chứng tỏ, việc đưa vào một công cụ sàng lọc nào đó thì ít nhất ta phải được đào tạo bài bản – một giải pháp hàng đầu để hạn chế những khác biệt văn hoá và những sai sót khi vận dụng và cơ bản hơn, là hiểu đúng công cụ cũng như tên gọi để tránh nhầm lẫn. Nhưng đào tạo sao cho đúng thì vẫn chưa trả lời được vì cho đến lúc này, các công cụ trắc nghiệm tại Việt Nam hầu như phần nhiều chỉ được thích nghi trong một phạm vi nhỏ. Hay phương thức đào tạo theo kiểu truyền đạt kinh nghiệm, trước làm sau thì truyền đạt lại mà không hiểu những nền tảng hay nguồn gốc của công cụ cũng mang tính “rủi ro”. Điểm tích cực lớn nhất có thể thấy ở đây là mong muốn có một công cụ hỗ trợ cho công tác sàng lọc trong hoạt động phòng ngừa và đánh giá trong can thiệp, chuyển gửi đã được đáp ứng phần nào. Tuy nhiên, bên cạnh đó là những rủi ro to lớn khi cho học sinh làm trắc nghiệm, thu thập và diễn giải những gì có được theo cách bất chấp là mình đã không được đào tạo, chuyển giao để nắm rõ về công cụ mình đang làm hay chưa. Và càng hạn chế khi những người làm TLHĐ hiện nay vẫn có số lượng kiêm nhiệm và việc có kiến thức nền tảng về tâm lý để được đào tạo về việc sử dụng công cụ vẫn là một khoảng trống lớn trong bức tranh đánh giá nói chung và sàng lọc nói riêng. Từ đây, mở ra một vấn đề cần quan tâm hơn bao giờ hết, rằng đi đôi với nhận thức, hiểu biết về hoạt động đánh giá nói chung và sàng lọc nói riêng, việc đưa một công cụ sàng lọc vào hoạt động thực tiễn sẽ có hiệu quả như thế nào? Đâu là cách để lượng giá hiệu quả? Những công cụ mới như PIY mà chúng tôi đề xuất sẽ có những khác biệt nào với công cụ đang phổ biến được nhiều người áp dụng hơn là “CBCL” hay YSR/11-18? Hàng loạt những vấn đề mở ra những tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo của chúng ta. 701
  19. IV. KẾT LUẬN Với những nội dung được trình bày từ bối cảnh, khái niệm, thực trạng và đề xuất một công cụ trong hoạt động sàng lọc, có thể thấy hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh tại các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều sự học hỏi và trải nghiệm qua thời gian. Tuy nhiên, những học hỏi và trải nghiệm ấy vẫn có phần chưa đầy đủ và phù hợp với bối cảnh học đường tại Việt Nam. Chính vì vậy, thực trạng về một công tác nền tảng cho các hoạt động khác trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh THPT hiện đang bị bỏ ngỏ hoặc hiểu chưa đầy đủ khiến bức tranh của hoạt động đánh giá nói chung và sàng lọc nói riêng đa dạng nhưng cũng nhiều thiếu sót. Vì những trăn trở đó, những người hiện đang dấn thân trong lĩnh vực TLH TH như chúng tôi nhận thấy cần nói lên những gì đang hiện diện về công tác sàng lọc trong các phòng tâm lý tại các trường THPT, từ đó nhấn mạnh một lần nữa tầm quan trọng và sự cần thiết của hoạt động sàng lọc cũng như đưa ra những nhận định về sàng lọc không bị thiên lệch hay hiểu sai nhằm hạn chế thực trạng hiện hữu. Việc đề xuất một công cụ như để trả lời cho “lời kêu gọi trợ giúp”, một sự hỗ trợ chương trình hoạt động sàng lọc về sau sẽ được chúng tôi phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Huỳnh Văn Sơn, Nguyễn Thị Tứ, Nguyễn Thị Diễm My, Đặng Hoàng An (2019). Thực trạng đội ngũ làm công tác tham vấn học đường hiện nay. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, 01(49), 145-153. Khúc Năng Toàn (2014). Định hướng đào tạo và sử dụng trắc nghiệm trí tuệ trong Tâm lý học trường học Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo tâm lý học học đường lần thứ IV, 301-310. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Đức Sơn (2013). Đánh giá sàng lọc nhân cách học sinh THCS bằng bảng kiểm PIY. Tạp chí Tâm lý học, số 3/2013. Nguyễn Đức Sơn (2015). Giáo trình đánh giá nhân cách. NXB ĐHSP. Phạm Hải Lâm (2020). Đánh giá sàng lọc nhân cách cho học sinh một số trường Trung học phổ thông tại Thành phố Hồ Chí Minh bằng bảng kiểm nhân cách thanh thiếu niên. Luận văn thạc sĩ tâm lý học trường học, ĐHSP HN. 702
  20. Phạm Thị Bích Phượng (2018). Kinh nghiệm mười năm xây dựng phòng tâm lý học đường trường THPT Marie Curie Thành phố Hồ Chí Minh. Kỷ yếu hội thảo quốc tế Đạo đức nghề nghiệp và mô hình dịch vụ trong thực hành tâm lý. NXB ĐHQG TPHCM. Trần Thị Lệ Thu, Trần Thành Nam, Nguyễn Thị Phượng (2018). Cẩm nang tâm lý học đường. NXB Văn hoá – Nghệ thuật. Trần Thị Minh Đức (2016). Tham vấn học đường. NXB Hồng Đức. Vũ Thị Thanh Nga (2018). Mô hình tham vấn tâm lý tại một số trường học trên địa bàn Hà Nội – khó khăn đặt ra và định hướng phát triển. Kỷ yếu hội thảo quốc tế Đạo đức nghề nghiệp và mô hình dịch vụ trong thực hành tâm lý. NXB ĐHQG TPHCM. Tiếng Anh Frank M. Gresham , Katherine K. Hunter , Emily P. Corwin & Aaron J. Fischer (2013). Screening, Assessment, Treatment, and Outcome Evaluation of Behavioral Difficulties in an RTI Model. Exceptionality: A Special Education Journal, 21(1), 19-33. http://dx.doi.org/10.1080/09362835.2013.750115 Grisso, T., Vincent, G., & Seagrave, D. (eds.) (2005). Handbook of mental health screening and assessment in juvenile justice. New York: Guilford Press. J. M. G. Wilson & G. Jungner (1968). Principles and Practice Of Screening For Disease. World Health Organization (WHO) Geneva. Keenan, P., & Lachar, D. (1988). Screening preschoolers with special problems: Use of the personality inventory for children (PIC).  Journal Of School Psychology, 26(1), 1-11. https://doi.org/10.1016/0022-4405(88)90027-1 Mary Ann Baily, Thomas H. Murray (2008). Ethics, Evidence, And Cost in Newborn Screening. The Hastings Center Report, 38(3), 23-31. Matthew K. Burns và Melissa Coolong-Chaffin (2006). Response to Intervention: The Role of and Effect on School Psychology. School Psychology Forum: Research in Practice, 1(1), 3-15. Nguyen Anh Khoa, Nguyen Van Tuong (2019). Using the 3-tier Support model for students’ Mental Health: The case of Tue Duc High school. Proceedings of International Scientific Conference: Healthy Behavior in Modern Society, Vietnam National University Press, Hanoi, 309-316. W. David Tilly III (2008). The Evolution of School Psychology to Science-Based Practice: Problem Solving and the Three-Tiered Model. Best Practices in School Psychology V, 2(1), 17-36. 703
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
72=>0