intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011 – 2020

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn là trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản lý luận về KTTN trong nền KTTT, thực trạng phát triển KTTN ở Đồng Nai từ đó đưa ra những giải pháp phát triển KTTN tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 2011 – 2020. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011 – 2020

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH  NGUYỄN THỊ HẬU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BẠN TỈNH ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2011-2020 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60.31.01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LƯU THỊ KIM HOA TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012
  2. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) với nhiều thành phần, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (KTTN), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã góp phần làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển năng động. Trong đó, KTTN (kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ) là một trong những khu vực kinh tế mới nổi và phát triển khá năng động, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân (KTTN) là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Lực lượng tham gia thành phần KTTN khá đông đảo, bao gồm: nông dân, thợ thủ công cá thể, người buôn bán nhỏ, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Ở thành phần này thì chủ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, phân phối sản phẩm. KTTN là một thành phần kinh tế như các thành phần khác, đuợc pháp luật bảo vệ và bảo đảm tính pháp lý cho sự phát triển của nó. KTTN có tác dụng là góp phần tích cực khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước; tạo ra nhiều việc làm, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực của đất nước; tạo ra nhiều của cải cho xã hội; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, xuất khẩu của xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực của KTTN thì nó cũng có những hạn chế như: tính tự phát, phát triển thiếu tính kế hoạch, yếu kém về vốn, công nghệ, thị trường, tính cạnh tranh, trình độ tổ chức, quản lý, v.v.. Trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần nên
  3. 2 KTTN sẽ tồn tại lâu dài cùng với công cuộc đổi mới đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình KTTN ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn KTTN và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước (KTNN)” (ĐCSVN,2011,tr.209). Vai trò của KTTN ở Việt Nam ngày càng đóng góp to lớn vào kết quả phát triển chung của nền kinh tế. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng của KTTN luôn luôn cao hơn tốc độ tăng của các khu vực khác, về số lượng lao động chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88,8%), vốn đầu tư cũng chiếm gần 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong thời gian qua, sự tăng trưởng của KTTN là một trong những nhân tố quan trọng đối với sự phát triển chung của kinh tế cả nước. Sự tồn tại lâu dài của KTTN đã được Đảng ta nhất quán khẳng định trong các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X và được Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn KTTN và tư nhân góp vốn vào tập đoàn KTNN” (ĐCSVN,2011,tr.209). Chủ trương của Đảng sẽ thúc đẩy nhanh sự phát triển của KTTN, chính vì vậy nghiên cứu sự phát triển KTTN hiện nay có ý nghĩa cấp thiết, nhằm cung cấp cơ sở lý luận cho hoạch định chính sách phát triển cho thành phần kinh tế này ở nước ta. Sau 35 năm xây dựng và phát triển, Đồng Nai đã vươn lên, trở thành một trong những tỉnh có GDP bình quân đầu người khá cao so với các tỉnh trong cả nước, đạt 1.629 USD./người (29,6 triệu đồng) và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đạt 14,4%/năm (2005 – 2010). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, đúng định hướng và đạt mục tiêu đề ra. Cơ cấu GDP theo ngành được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm 2010; dịch vụ từ 28% lên
  4. 3 34,1% và giảm ngành nông lâm thủy từ 14,9% còn 8,7% vào năm 2010. Cơ cấu theo thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước trong GDP (từ 24,7% năm 2005 xuống còn 19,2% năm 2010) và tăng tỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực kinh tế ngoài nhà nước (từ 75,3% lên 80,8%). Bên cạnh những đóng góp, KTTN Đồng Nai còn gặp những khó khăn, thách thức, hiện nay KTTN Đồng Nai phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó, vì vậy cần có những giải pháp để hỗ trợ KTTN Đồng Nai phát triển trong thời gian tới. Đó chính là lý do vì sao tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011 – 2020” làm luận văn thạc sỹ kinh tế - chính trị. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề phát triển KTTN ở nước ta là một trong những vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập về tính tất yếu khách quan của nền KTTN, vai trò, vị trí, những giải pháp phát triển KTTN trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hứớng xã hội chủ nghĩa. Ở Đồng Nai cũng có nhiều đề tài nghiên cứu về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và KTTN nói riêng. Hiện nay, qua tham khảo, tác giả thấy có một số tài liệu viết về những vấn đề liên quan đến KTTN ở Việt Nam, nhìn chung có các hướng sau đây: * Hướng thứ nhất là các sách tham khảo về kinh tế tế tư nhân như: - Sở hữu lý luận và vận dụng ở Việt Nam của Nguyễn Văn Thức do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 2004, tác phẩm trình bày và phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. - Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới thực trạng và những vấn đề của Đinh Thị Thơm (chủ biên), tác phẩm chủ yếu nhấn mạnh đến quá trình tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam sau hai mươi năm đổi mới, phân tích những thành tựu đạt được, những yếu kém cần khắc
  5. 4 phục, nêu giải pháp phát triển kinh tế tư nhân. - Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập của PGS.TS.Trịnh Thị Hoa Mai, trong công trình nghiên cứu này tác giả đã phân tích đánh giá vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với tiến trình hội nhập, đồng thời đề xuất những giải pháp phát triển KTTN Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. - Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của GS.TS.Nguyễn Thanh Tuyền, PGS.TS.Nguyễn Quốc Tế, TS.Lương Minh Cừ (đồng chủ biên, năm 2003), tác phẩm này tập hợp 46 bài viết hội thảo khoa học nhằm phân tích và làm rõ những luận cứ khoa học về sự tồn tại khách quan của sở hữu tư nhân và KTTN, từ đó đề ra những giải pháp phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Kinh tế tư nhân trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện thông tin khoa học xã hội, tác phẩm phân tích những đặc điểm của toàn cầu hóa, và chỉ ra sự biến đổi trong nhận thức về phát triển KTTN trong giai đoạn toàn cầu hóa. - Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội của TS.Nguyễn Minh Phong (chủ biên), tác phẩm phân tích đặc điểm, thực trạng và những vấn đề đặt ra, những quan điểm và giải pháp cho sự phát triển KTTN ở Hà Nội. * Hướng thứ hai là các đề tài khoa học đã nghiệm thu như: - Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do PGS.TS.Hồ Trọng Viện chủ nhiệm. Đề tài đề cập đến thực trạng những giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với KTTN trên địa bàn TP.HCM. - Vai trò, thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, do TS.Nguyễn Minh Tuấn làm chủ nhiệm, đề tài phân tích, đánh giá những đóng
  6. 5 góp của KTTN vào phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM, những khó khăn, hạn chế trong quá trình phát triển đồng thời chỉ ra giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn TP.HCM. * Hướng thứ ba là các hội thảo, các bài viết trên các tạp chí khoa học như: - Hội thảo khoa học, chủ đề: Các giải pháp khuyến khích và phát triển Kinh tế tư nhân trên địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam của Ủy ban nhân dân TP.Hồ Chí Minh – Khoa Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM. - Hàng loạt các bài viết: Phát triển đội ngũ doanh nhân khu vực kinh tế tư nhân hiện nay của Đoàn Hiền (TCCSĐT); Mấy suy nghĩ về Đảng viên làm kinh tế tư nhân của Đàm Kiếm Lập; Một số suy nghĩ về việc đảng viên làm kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Lê Minh Phụng; Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Phạm Chi Lan v.v… Nhìn chung các công trình đã nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến KTTN và phát triển KTTN, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống, toàn diện về phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong những năm tới. Nội dung nghiên cứu trong luận văn là những cơ sở lý luận về KTTN trong nền kinh tế thị trường (KTTT), thực trạng phát triển KTTN cũng như dự báo xu hướng và những giải pháp phát triển của nó trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đây là nội dung có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước mà luận văn lựa chọn nghiên cứu. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục tiêu Mục tiêu của luận văn là trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản lý luận về KTTN trong nền KTTT, thực trạng phát triển KTTN ở Đồng Nai từ đó đưa ra những giải pháp phát triển KTTN tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 2011 – 2020.
  7. 6 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn phải thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản sau: - Thứ nhất là, trình bày khái quát, hệ thống những cơ sở lý luận về KTTN trong nền KTTT ở Việt Nam. - Thứ hai là, trên cơ sở kết quả khảo sát, trình bày và phân tích thực trạng phát triển KTTN ở Đồng Nai, từ đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế để nhằm phát triển KTTN trong thời gian tới. - Thứ ba là, dựa vào cơ sở lý luận về KTTN trong nền KTTT, thực trạng phát triển KTTN, luận văn đưa ra những giải pháp phát triển KTTN của Đồng Nai trong những năm 2011 – 2020. 3.3. Giới hạn nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận về KTTN trong nền KTTT, thực trạng và giải pháp phát triển KTTN từ 2011 – 2020 trong phạm vi địa bàn tỉnh Đồng Nai. Thời gian nghiên cứu: KTTN giai đoạn từ đổi mới đến năm 2010 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Để thực hiện những yêu cầu trên, luận văn dựa vào thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển KTTN. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử, đồng thời trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn còn sử dụng các phương pháp như: thống kê; lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch, tác giả luận văn tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ kinh tế - chính trị. 5. Điểm mới của luận văn Luận văn dự báo những cơ hội, thách thức và đưa ra những giải pháp phát triển KTTN ở Đồng Nai từ năm 2011 đến năm 2020.
  8. 7 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Về ý nghĩa khoa học, luận văn góp phần làm rõ nội dung cơ bản của lý luận về KTTN, bài học kinh nghiệm về phát triển KTTN trong giai đoạn hiện nay tại một số nước ở Châu Á và các địa phương lân cận. Về ý nghĩa thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sau khi bảo vệ được Hội đồng công nhận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy và nghiên cứu về kinh tế - chính trị. Đồng thời, những bài học kinh nghiệm, những giải pháp mà luận văn nêu ra có thể nhằm đẩy mạnh phát triển KTTN ở Đồng Nai trong thời gian tới. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về Kinh tế tư nhân trong nền KTTT; Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Đồng Nai trong công cuộc đổi mới đất nước; Chương 3: Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011 – 2020.
  9. 8 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN 1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân Trong quá trình xây dựng học thuyết kinh tế của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã bàn đến KTTN. Trong các tác phẩm, họ đề cập mức độ đậm nhạt khác nhau, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở điểm chung là KTTN là một lĩnh vực kinh tế như các lĩnh vực kinh tế khác cấu thành nền kinh tế quốc dân. Theo đó, KTTN bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Khi bàn về hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ, nhất là tiểu nông, Ph.Ăngghen đã viết: “Tiểu nông là người mà chúng ta nói ở đây, sở hữu hoặc đi thuê – và nhất là người sở hữu – một mảnh ruộng đất không lớn hơn số ruộng đất mà họ thường có thể cày cấy cùng với gia đình họ, và cũng không bé hơn số ruộng đất cần thiết để nuôi gia đình họ. Cũng như người tiểu thủ công, người tiểu nông này là một người lao động, anh ta khác với người vô sản hiện đại ở chỗ là anh ta còn sở hữu những tư liệu lao động, như vậy anh ta là tàn dư của một phương thức đã lỗi thời” (C.Mac-Ph.Angghen,1984,tr.567). Như vậy, theo như Ph.Ăgghen thì kinh tế cá thể, tiểu chủ là một loại hình kinh tế tàn dư của phương thức sản xuất đã lỗi thời trong lịch sử. Tuy nhiên, nó vẫn phát huy tác dụng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, ở đó thể hiện mối quan hệ kinh tế không bóc lột, họ cũng như giai cấp công nhân, đều là những người lao động chân chính. Còn kinh tế tư bản tư nhân là một hình thức kinh tế thuộc phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó không có cùng bản chất với kinh tế cá thể, tiểu
  10. 9 chủ. Đó là một hình thức bóc lột của nhà tư bản đối với người làm thuê. Ph.Ăngghen đã viết như sau: “Vậy sản xuất tư bản tư nhân nghĩa là gì? Là sản xuất của người kinh doanh riêng biệt; và sản xuất ấy há chẳng ngày càng trở thành một ngoại lệ đó sao? Sản xuất tư bản chủ nghĩa của những công ty cổ phần đã không còn là một nền sản xuất tư nhân nữa, mà là một nền sản xuất cho một số đông cổ đông”(V.I.Lênin,1978,tr.493). Như vậy, theo Ph.Ăngghen kinh tế tư bản tư nhân là một hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa mang tính ngoại lệ ở chỗ, đó là phân biệt chủ thể sở hữu của những nhà tư bản đối với tư liệu sản xuất. Theo quan điểm của Mác, bản chất của xoá bỏ chế độ tư hữu là xóa bỏ chế độ kinh tế trong đó một thiểu số người nắm tư liệu sản xuất dùng để bóc lột, nô dịch đa số người lao động làm thuê. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Chủ nghĩa cộng sản không tước của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác” (C.Mac-Angghen,1995,tr.618). Khi nói về KTTN, V.I.Lênin cũng đã bàn nhiều đến vấn đề này, trong đó nhấn mạnh phát triển kinh tế tư bản tư nhân. Hồi đó, ở nước Nga, V.I.Lênin đã chủ trương thực hiện kinh tế NEP, V.I.Lênin cho rằng, từ trình độ xuất phát về kinh tế, kỹ thuật thấp như nước Nga phải học tập các nhà tư bản, phải làm phần việc mà nhà tư bản cần làm là xây dựng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Theo V.I.Lênin, ở Liên Xô là một nước tiểu nông, lực lượng cơ bản là nông dân, vì vậy, mấu chốt cơ bản nhất, cấp thiết nhất là: “phục hồi ngay những lực lượng sản xuất của kinh tế nông dân” (V.I.Lênin,1978,tr.263). Theo Người, không nên xoá bỏ KTTN vì nó có vai trò và tác dụng nhất định, Người viết: “tìm cách ngăn cấm, triệt để mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh khỏi được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn
  11. 10 áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản” (V.I.Lênin,1978,tr.267). Trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã bàn về KTTN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng, trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó vai trò KTTN không kém phần quan trọng, bởi vì nước ta xuất phát từ một nước nông nghiệp kém phát triển. Người viết: “… đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (Hồ Chí Minh,1996,tr.247). Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: A - Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân). B – Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến lên CNXH). C – Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa CNXH). D – Tư bản tư nhân. E – Tư bản nhà nước. Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển cao hơn cả, cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản” (Hồ Chí Minh,1996,tr.247-248). Như vậy, trong năm thành phần kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi KTTN bao gồm: “ C– Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội). D – Tư bản tư nhân.” Đây là những thành phần kinh tế sẽ tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong các thành phần kinh tế, Người đã phân tích rất rõ
  12. 11 mối quan hệ giữa kinh tế quốc doanh, tập thể với KTTN. Người viết: “Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều: 1. Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh là công. Là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới (…). Tư là nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thợ thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên chính phủ cần phải giúp đỡ họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp lợi ích của đại đa số nhân dân. 2. Chủ thợ đều lợi: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ một số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.” (Hồ Chí Minh,1996,tr.247-252). Trong tư tưởng của Người hoàn toàn xa lạ với thái độ đối lập với KTTN, trái lại, Người xác định rất rõ vai trò của KTTN trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời với việc xác định phân loại các thành phần kinh tế, Người cũng xác định các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất: “ - Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân. - Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. - Sở hữu của người lao động riêng lẻ. - Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.” (Hồ Chí Minh,1996,tr.588). Như vậy, trong tư tưởng của Người đã thừa nhận sở hữu về tư liệu sản xuất của thành phần KTTN. Người cũng có thái độ dứt khoát đề ra chủ trương phát triển các thành phần thuộc KTTN như sau:
  13. 12 “ – Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện. - Đối với những nhà tư sản công thương Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác” (Hồ Chí Minh,1996,tr.589). Như vậy, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm rất rõ ràng về vị trí, vai trò của KTTN và Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng chủ trương, chính sách phát triển KTTN góp phần phát triển kinh tế của quốc gia. 1.1.2. Kinh tế tư nhân và Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân 1.1.2.1. Kinh tế tư nhân Kinh tế tư nhân là một phạm trù kinh tế mà trong công cuộc đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm. Để hiểu rõ KTTN chúng ta cần tìm hiểu về sở hữu tư nhân trong mối quan hệ với KTTN. Vì chế độ sở hữu nó có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức kinh tế xã hội. KTTN gắn liến với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên chúng ta cần phải làm rõ về sở hữu tư nhân. Sở hữu là một vấn đề xuất hiện khi lực lượng sản xuất phát triển. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người luôn tìm cách chiếm hữu những của cải tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu của mình. Chiếm hữu những của cải ấy nói lên mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất. Trình độ phát triển của chiếm hữu thể hiện ở cách thức, phương
  14. 13 tiện thực hiện và kết quả mà nó thu được, nói lên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, để mỗi cá nhân chiếm hữu được những tư liệu sản xuất cho mình, con người phải liên kết với nhau tạo thành quan hệ xã hội trong quá trình thực hiện chiếm hữu. Trong quan hệ xã hội ấy, các thành viên trong cộng đồng thừa nhận lẫn nhau về cơ sở và kết quả của sự chiếm hữu của các thành viên trong cộng đồng, đó chính là sở hữu. Như vậy, “sở hữu là hình thức chiếm hữu của cải vật chất do lịch sử quy định, trong đó thể hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội. Sự phát triển của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định” (Từ điển Triết học,1975,1986,tr.507). Phạm trù sở hữu có ba mặt: đối tượng sở hữu, chủ sở hữu, quan hệ sở hữu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” (ĐCSVN,2006,tr.83). Theo đó, chế độ sở hữu quy định việc hình thành các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế. Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng thực tế có ba hình thức sở hữu cơ bản, đó là sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Như vậy, sở hữu tư nhân là một trong những hình thức sở hữu ở nước ta, vậy sở hữu tư nhân là gì? Sở hữu tư nhân có nhiều cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn, trong bộ Luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 211 quy định: “Sở hữu tư nhân là sở hữu cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu cá nhân, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân”. Sở hữu cá nhân là hình thức sở hữu mà có một cá nhân cụ thể và chủ thể này có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tượng sở hữu của mình trong khuôn khổ luật pháp. Sở hữu tư nhân được hiểu là quan hệ sở hữu xác nhận
  15. 14 quyền hợp pháp của tư nhân trong việc chiếm hữu, quyết định cách thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, chi phối và hưởng lợi từ kết quả của quá trình sản xuất - kinh doanh đó. Sở hữu tư nhân ra đời và tồn tại trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau như xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa và cho đến ngày nay thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sở hữu tư nhân vẫn còn tồn tại và phát triển lâu dài. Trên cơ sở tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dẫn đến hình thành thành phần KTTN trong nền kinh tế xã hội. Vậy kinh tế tư nhân là gì? Kinh tế tư nhân là một phạm trù không mới mẻ trong nền kinh tế hàng hóa hiện nay. KTTN là những đơn vị kinh tế được tổ chức dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. KTTN hoàn toàn tự chủ về vốn, về quản lý, phân phối, lựa chọn hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước pháp luật. Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, KTTN là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, KTTN gồm: kinh tế các thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX viết: “Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân…” (ĐCSVN,2002,tr.55). Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng đã xác định KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Như vậy, KTTN là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Theo quan điểm trên KTTN ở Việt Nam có hai loại hình sau: - Một là, kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên cơ sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, với qui mô nhỏ hơn các loại
  16. 15 hình doanh nghiệp của tư nhân, chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình, là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của mình. Kinh tế cá thể, tiểu chủ tồn tại độc lập dưới các hình thức: xưởng thợ gia đình, hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ, hộ làm kinh tế trang trại, hộ sản xuất nông nghiệp hoặc tham gia liên doanh, liên kết với các loại hình kinh tế khác. - Hai là, kinh tế tư bản tư nhân gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên cơ sở tư hữu lớn về tư liệu sản xuất với qui mô lớn hơn cá thể, tiểu chủ, có thuê mướn lao động. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. 1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân Từ khi đổi mới, KTTN chưa được chính thức coi như một thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Nhưng trong nhận thức, Đảng ta khẳng định nhất quán lâu dài xây dựng, phát triển kinh tế nhiều thành phần, và đã thừa nhận những yếu tố, bộ phận cấu thành KTTN. * Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI xác định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ và Văn kiện viết: “Ở nước ta, các thành phần đó là: - Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với các bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với các thành phần đó. - Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác” (ĐCSVN,2006,tr.57-58).
  17. 16 * Văn kiện Đại hội VII: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước; trong đó, kinh tế cá thể tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức” (ĐCSVN,1991,tr.69). Sau đó, trong Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương khoá VII tiếp tục khẳng định: Phát triển kinh tế hộ cá thể, tư nhân trong nông nghiệp là một chính sách nhất quán, lâu dài trong thời kỳ quá độ! * Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII viết: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng lâu dài. Giúp đỡ kinh tế các thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh” (ĐCSVN,1996,tr.96). Từ những chủ trương đúng đắn, phù hợp, KTTN càng có bước phát triển mới góp phần phát triển kinh tế đất nước, giải phóng đáng kể lực lượng sản xuất của cả nước, bộ mặt kinh tế - xã hội ngày càng thay da đổi thịt. Bên cạnh sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, KTTN cũng đóng góp vào tích lũy ngân sách nhà nước. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh: “Kinh tế cá thể tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh
  18. 17 doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng mối quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động” (ĐCSVN,2001,tr.98-99). Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Ban chấp hành trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ hai, nhấn mạnh thêm: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa” (ĐCSVN,2002,tr.57). Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định phát triển KTTN và coi nó là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân. KTTN gồm: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đảng ta nhấn mạnh về vai trò của KTTN như sau: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.” (ĐCSVN,2006,tr.83). Về mặt thực tiễn KTTN là khu vực kinh tế năng động, hiệu quả năm 2005 chiếm 37,7% GDP của cả nước và hiện nay khu vực này phát triển rất hiệu quả trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, khái niệm kinh tế tư nhân được sử dụng dùng để chỉ các bộ phận: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, cách sử dụng khái niệm này có sự linh hoạt hơn, đó là KTTN bao hàm cả kinh tế tư bản tư nhân, tạo điều kiện để chúng ta phát triển mở rộng các lực lượng xã hội có điều kiện tham gia phát triển KTTN. Đến nay, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng tiếp tục khẳng định nhất quán đường lối, chủ trương phát triển
  19. 18 KTTN. Lần này, Đại hội Đảng cũng nhận thấy, trong quá trình xây dựng và phát triển KTTN còn gặp phải những khó khăn về vốn, khoa học công nghệ, pháp lý, v.v… cho nên Đảng và Nhà nước sẽ tiếp tục hỗ trợ cho KTTN phát triển tốt hơn nữa trong giai đoạn phát triển tiếp sau. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI viết: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh KTTN trở thành một trong những động lực mạnh của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện để hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước” (ĐCSVN,2011,tr.209) . Theo đó, KTTN sẽ ngày càng có điều kiện phát triển cùng các thành phần kinh tế khác, KTTN được khuyến khích phát triển thành các tập đoàn kinh tế lớn trên các lĩnh vực, các ngành, có điều kiện nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà với các nền kinh tế thế giới. Như vậy, cả về mặt lý luận và chủ trương đường lối của Đảng ta là thống nhất về phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó KTTN bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, là một bộ phận quan trọng sẽ phát triển lâu dài trong thời kỳ xây dựng CNXH. Trong quá trình cải tạo, xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta đã nhận định: “trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài” (ĐCSVN,1986,tr.23). Sau khi đổi mới, chúng ta đã có những thay đổi về tư duy kinh tế một cách đầy đủ hơn. Mặc dù, thời gian đầu còn chập chững trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, song thực tiễn đổi mới đất nước đã chứng minh đường lối đó là đúng đắn. Các thành phần kinh tế ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình trong cơ cấu nền kinh tế.
  20. 19 1.1.3. Tính tất yếu tồn tại, đặc điểm và vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 1.1.3.1. Tính tất yếu tồn tại: - Thứ nhất là: Theo qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đặt ra yêu cầu quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay trình độ lực lượng sản xuất còn lạc hậu, kém phát triển, không đồng đều giữa các ngành, các vùng và trong nội bộ từng vùng cho nên hình thành nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan, trong đó có KTTN. - Thứ hai là: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong xã hội tồn tại đan xen cả yếu tố cũ và yếu tố mới. Trong quá trình hình thành, phát triển các thành phần kinh tế sẽ xuất hiện những thành phần kinh tế mới, cũng như những bộ phận, những yếu tố của thời kỳ trước để lại. KTTN bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân là những bộ phận có cả trong thời kỳ trước và vừa nảy sinh trong công cuộc đổi mới. - Thứ ba là: Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nền KTTT nói chung và kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thì KTTN càng ngày phát triển và có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. - Thứ tư là: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, sự phát triển KTTN là xu hướng phát triển khách quan của kinh tế thế giới và xu hướng ấy đang tác động vào các nước. Việt Nam trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới thì KTTN là một trong những thành phần rất quan trọng thu hút đầu tư của nước ngoài cũng như thúc đẩy sự phát triển CNH, HĐH đất nước.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
26=>2