« Home « Kết quả tìm kiếm

Ứng dụng google sites trong xây dựng website học tập bộ môn văn học Việt Nam cho sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn


Tóm tắt Xem thử

- ỨNG DỤNG GOOGLE SITES TRONG XÂY DỰNG WEBSITE HỌC T ẬP BỘ MÔN VĂN HỌC VIỆT NAM CHO SINH VIÊN.
- Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích ứng dụng của Google sites trong việc xây dựng website phục vụ học tập bộ môn Văn học Việt Nam cho sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn..
- Với ứng dụng này, giảng viên hướng dẫn sinh viên cộng tác xây dựng được nguồn tài liệu tham khảo khoa học, chính xác, tin cậy.
- Thông qua ứng dụng, sinh viên củ động nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu đồng thời có thể tự điều chỉnh hoạt động học tập của mình và hình thành thêm các kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.
- Ứng dụng của Google sites trong việc xây dựng website cũng giúp giảng viên yên tâm khi giao nhiệm vụ học tập, theo dõi, đánh giá tiến trình học tập của sinh viên..
- Với giảng viên, sinh viên các ngành khoa học xã hội việc sử dụng công nghệ thông tin còn khá nhiều hạn chế.
- Từ thực tế trong 10 năm giảng dạy bộ môn Văn học Việt Nam cho sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết phải đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và học tập.
- xây dựng trang web học tập bộ môn Văn học Việt Nam cho sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn.
- Với ứng dụng, giảng viên có thể hướng dẫn sinh viên cộng tác xây dựng được nguồn tài liệu tham khảo khoa học, chính xác, tin cậy.
- Thông qua ứng dụng, sinh viên nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu đồng thời có thể tự điều chỉnh hoạt động học tập của mình và hình thành thêm các kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.
- Ứng dụng cũng giúp giảng viên giao nhiệm vụ học tập, theo dõi, đánh giá tiến trình học tập của sinh viên..
- Những khó khăn trong giảng dạy, học tập bộ môn Văn học Việt Nam giảng viên và sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn.
- Qua thực tế giảng dạy bộ môn Văn học Việt Nam cho sinh viên Sư phạm Ngữ văn, chúng tôi nhận thấy một số những khó khăn sau:.
- Với hình thức học tập theo tín chỉ, thời gian lên lớp giảng dạy của giảng viên được rút ngắn, thay vào đó tăng thêm thời gian tự học tự nghiên cứu của sinh viên.
- Song để sinh viên có thể tự học, tự nghiên cứu được giảng viên cần cung cấp, hướng dẫn sinh viên cách tìm nguồn tài liệu tham khảo.
- Ở trường Đại học như Đại học Sư phạm Hà Nội 2, giảng viên giảng dạy dựa trên phần mềm trực tuyến LMS, mỗi học phần giảng viên cung cấp tài liệu cho học sinh qua mục tài nguyên, chấm chữa bài qua mục bài tập của sinh viên.
- Vì thế, khi lên lớp chúng tôi gặp tình trạng sinh viên chưa chủ động nghiên cứu nguồn tài liệu đã được cung cấp..
- Thứ hai, khó khăn trong việc quản lí, theo dõi bài tập tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
- Đây là hệ quả của khó khăn thứ nhất, do không có một kênh học chung nên giảng viên không theo dõi được tiến độ học tập của sinh viên từ đó dẫn đến khó khăn trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
- Từ đó, chúng tôi mong muốn tìm kiếm được một ứng dụng học tập đảm bảo được các tính năng: Chia sẻ nguồn tài nguyên, giao bài tập, lưu trữ tài nguyên lâu dài, theo dõi, đánh giá được tiến trình học tập của sinh viên..
- Khó khăn trong học tập của sinh viên.
- Những khó khăn còn đến từ phía sinh viên: Một là, sinh viên còn hạn chế trong cách tìm kiếm, phân tích, hệ thống hóa, đánh giá tài liệu tham khảo.
- Với đặc thù môn khoa học xã hội, để có thể tự học, tự nghiên cứu, sinh viên sư phạm Ngữ văn cần sử dụng nhiều nguồn tài liệu tham khảo.
- Sự phong phú, đa dạng của tài nguyên mã nguồn mở, sinh viên có cơ hội.
- Nguồn tài liệu phong phú này tồn tại dưới nhiều dạng thức: bản cứng, bản mềm, video, hình ảnh,… Tuy nhiên, sinh viên chưa biết cách phân loại cũng như sử dụng hiệu quả nguồn tài liệu này.
- Nhiều lần nhận bài tiểu luận của sinh viên, chúng tôi khá bất ngờ khi các em đã là sinh viên năm thứ ba nhưng chưa biết cách chọn lựa tài liệu tham khảo, trích dẫn chính xác nguồn tài liệu dẫn đến việc sai thông tin, đôi khi đơn giản là việc trích dẫn thơ.
- Đó là chưa kể đến sinh viên năm thứ nhất còn nhiều bỡ ngỡ khi mới bắt đầu làm quen với phương pháp học tập ở Đại học.
- Hai là, sinh viên chưa tự theo dõi, điều chỉnh được tiến trình cũng như kết quả học tập của mình.
- Ở đại học, sinh viên được tự chủ quá trình học tập và tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình.
- Vì những lí do đó, chúng tôi thiết nghĩ sẽ thật hữu ích nếu giảng viên xây dựng được một kênh học tập giúp sinh viên tự theo dõi, điều chỉnh tiến trình, kết quả học tập của mình..
- Ba là, khả năng sử dụng, ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập của sinh viên còn rất nhiều hạn chế.
- Vì thế, chúng tôi mong muốn tìm kiếm được một ứng dụng miễn phí và dễ dàng sử dụng để giúp đỡ sinh viên khắc phục những hạn chế này trong quá trình học tập bộ môn Văn học Việt Nam ở trường đại học.
- Với những phân tích trên, từ kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, chúng tôi lựa chọn ứng dụng Google sites trong xây dựng các trang mạng (website) học tập bộ môn văn học Việt Nam cho sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn.
- Ứng dụng này sẽ phần nào tháo gỡ những khó khăn mà giảng viên và sinh viên đang gặp phải..
- Các tính năng của Google sites có thể ứng dụng trong học tập bộ môn Văn học Việt Nam của sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 2.3.1.
- Từ thực tiễn là giảng viên giảng dạy bộ môn Văn học Việt Nam, 02 năm trở lại đây, chúng tôi đã áp dụng ứng dụng Google sites xây dựng trang web học tập cho sinh viên trong các học phần: Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX và định hướng dạy học, Đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam, Cơ sở văn hóa Việt Nam,… ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 với các lớp sinh viên khóa K45, K46.
- Bước 1: Buổi đầu tiên lên lớp, giảng viên chia sẻ về ứng dụng Google sites với sinh viên, giới thiệu các tính năng của Google sites, cùng sinh viên tạo lập trang website để hỗ trợ quá trình học tập..
- Bước 2: Lấy ý kiến của sinh viên về ý tưởng xây dựng websites phục vụ cho môn học..
- Tuy nhiên, ý tưởng này cần đảm bảo mục tiêu: có thông tin về môn học, mục tài liệu tham khảo, mục bài tập, đảm bảo việc theo dõi được tiến độ học tập của sinh viên của giảng viên..
- Bước 3: Giảng viên share quyền truy cập cho sinh viên.
- Ở bước này, giảng viên cần lưu ý hạn định các mục thuộc quyền sở hữu của giảng viên, các mục thuộc quyền sở hữu chung, quyền sở hữu của sinh viên.
- Giảng viên cũng quy định rõ trách nhiệm của sinh viên trong việc truy cập vào website..
- Bước 4: Tập huấn, hướng dẫn sinh viên cách sử dụng ứng dụng, nêu các yêu cầu cần đạt được sau khi kết thúc môn học..
- Chúng tôi xin chia sẻ một số các nội dung cụ thể mà bản thân đã áp dụng trong quá trình hướng dẫn sinh viên xây dựng trang web học tập bộ môn Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX và định hướng dạy học..
- Trong quá trình học tập, sinh viên theo dõi được tiến độ tham gia học tập của mình, từ đó có kế hoạch tự điều chỉnh sao cho phù hợp.
- Thực tế so với việc điểm danh trên giấy, điểm danh Online hạn chế được tình trạng sinh viên nghỉ học, giảng viên cũng thuận lợi trong quá trình đánh giá điểm chuyên cần..
- Giảng viên hướng dẫn sinh viên cộng tác xây dựng tài liệu tham khảo cho môn học.
- Ở bước này, ban đầu sinh viên được giảng viên cung cấp tài liệu học tập.
- Sinh viên có thể được giảng viên trực tiếp cung cấp tài liệu học tập (bản copy của giáo trình, bài giảng hay các tài liệu khác) hoặc giới thiệu danh mục các tài liệu tham khảo.
- Tương tự như vậy với các bài báo, nếu không tải được, giảng viên, sinh viên có thể sử dụng cách nhúng đường link trong Google sites.
- Việc xây dựng được một hệ thống tài liệu khoa học như vậy giúp cho sinh viên hình thành một thói quen truy cập vào website để học tập.
- Cũng nhân cơ hội này, giảng viên dành nhiều thời gian hướng dẫn sinh viên thu thập, tra cứu tài liệu,… đặc biệt sinh viên năm thứ nhất.
- Ở mỗi chương, sau khi xác định được những vấn đề liên quan, sinh viên tự chủ động tìm tài liệu….
- Thông qua đó, sinh viên hình thành kĩ năng tìm kiếm các tài liệu như: xác định căn cứ lựa chọn tài liệu.
- Giảng viên có thể cho sinh viên những lời khuyên để các em biết chọn lọc những tài liệu đáng tin cậy (dựa vào tác giả, nhà xuất bản.
- Sau khi sinh viên có tài liệu trong tay, chủ động update chia sẻ cùng giảng viên và các bạn trong lớp.
- Đây chính là cách thức để cá nhân hóa việc học tập của sinh viên [3].
- Với sinh viên năm thứ nhất, giảng viên còn có thể tạo ra những thử thách mang tên “Thử thách truy tìm tài liệu”, trong một khoảng thời gian nhất định, các sinh viên cùng tham gia tìm kiếm tài liệu.
- Nguồn tài liệu đa dạng, sinh viên nào tìm được nhiều nhất, chính xác và sắp xếp khoa học nhất sẽ nhận được phần quà nhỏ từ giảng viên..
- Giảng viên tạo các mục bài tập cần hoàn thành và theo dõi tiến độ học tập của sinh viên.
- Với mục tiêu như đã trình bày ban đầu, website được xây dựng không chỉ giúp đăng tải tài liệu tham khảo, cần đảm bảo được tính năng theo dõi quá trình tự học, tự nghiên cứu, của sinh viên.
- Theo Phạm văn Tuân, hoạt động tự học của sinh viên có những đặc điểm cơ bản sau: Tự học là quá trình tự giác, tích cực, độc lập của sinh viên.
- Tự học của sinh viên diễn ra dưới sự hướng dẫn, giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của giảng viên.
- Trong quá trình tự học sinh viên huy động các chức năng tâm lí (nhận thức - thái độ - hành vi) của bản thân , bằng những hành động học tập cụ thể lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp;.
- Tự học diễn ra trong môi trường học tập, chịu sự tác động bởi các điều kiện học tập của sinh viên [7].
- Trên cơ sở đó, chúng tôi xây dựng mục bài tập trên website học bộ môn của sinh viên, trong đó có các bài tập chung chung của lớp, bài tập nhóm và bài tập của cá nhân sinh viên..
- Giao diện bài tập của sinh viên.
- “Truyện Kiều”, giảng viên cho sinh viên tìm chia sẻ trước: Khó khăn và thuận lợi khi giảng dạy “Truyện Kiều” ở trường phổ thông.
- Google sites, cho sinh viên đăng tải ý kiến trên padlet.
- Đến buổi học, giảng viên chia sẻ kết quả này và cùng thảo luận với sinh viên.
- Giảng viên cũng có thể phản hồi về bài tập của sinh viên bằng cách thêm vào nhận xét.
- Thời gian trên lớp, giảng viên và sinh viên có điều kiện trao đổi, thảo luận sâu về các vấn đề liên quan.
- Ảnh bài nộp của sinh viên.
- Các nhóm, hoặc mỗi sinh viên có thể theo dõi, phản hồi và nhận xét bài làm của các nhóm khác cũng như bạn khác.
- Dạng bài tập cá nhân cũng được tiến hành tương tự, mỗi sinh viên có một mục nộp bài riêng mang tên của mình.
- Kết thúc môn học sinh viên không chỉ theo dõi được tiến trình của nhóm mình mà còn theo dõi được thành quả của nhóm khác..
- Đây là các minh chứng học tập quan trọng nhắc nhở sinh viên mỗi ngày đồng thời thực sự thuận lợi cho giảng viên khi đánh giá kết quả học tập của sinh viên, đảm bảo tính công bằng..
- Trong quá trình triển khai, bài tập chúng tôi yêu cầu sinh viên nộp bài dưới nhiều dạng thức khác nhau: Word, PowerPoint, Poster, Video,… Các tính năng chèn nội dung của Google sites hoàn toàn cho phép sinh viên nộp được tất cả các định dạng.
- Sinh viên sử dụng tài liệu là file PDF ở mục tài liệu, đọc trước ở nhà, chia sẻ kết quả đọc của mình bằng sản phẩm học tập.
- chúng tôi cho sinh viên tìm hiểu tiểu sử của tác giả, khái quát lại tiểu sử ấy có khi bằng poster, có khi bằng một video.
- Thời gian trên lớp, giảng viên và sinh viên có thêm thời gian thảo luận sâu các chủ đề liên quan.
- Hướng dẫn sinh viên tự xây dựng website học tập cho riêng mình trên cơ sở ứng dụng Google sites.
- Khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi có dịp tìm hiểu 06 kĩ năng học tập cần hình thành của sinh viên/ học sinh thế kỉ XXI mà Microsoft đưa ra trên trang.
- Chúng tôi quan tâm đến rubric mà Microsoft đưa ra trong việc đánh giá kĩ năng sử dụng ICT của sinh viên..
- Ở mức độ cao nhất, mức độ số 5, sinh viên không chỉ sử dụng công nghệ thông tin để hình thành kiến thức mà còn cần tạo ra sản phẩm công nghệ cho đối tượng người dùng cụ thể.
- Vì thế, trong giảng dạy bộ môn Văn học Việt Nam cho sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn, giảng viên không chỉ hướng dẫn sinh viên xây dựng kiến thức, tự học, tự nghiên cứu trên nền tảng của Google sites mà còn hướng các em đến việc tự tạo ra các sản phẩm công nghệ cho riêng mình..
- Rubirc đánh giá kĩ năng sử dụng ICT của sinh viên thế kỉ XXI của Microsoft Quá trình giảng dạy bộ môn Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX và định hướng dạy học của K46 – các em sinh viên năm thứ nhất ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, chúng tôi hướng sinh viên đến việc hình thành kĩ năng đó thông qua bài tập dạng bài tập nhóm, theo đó, mỗi nhóm tự xây dựng một website riêng về một tác giả văn học trung đại Việt Nam.
- Buổi học cuối cùng, các nhóm cùng chia sẻ ý tưởng thực hiện website của nhóm mình với giảng viên, sinh viên.
- Tiến hành lấy ý kiến phản hồi của sinh viên các lớp sử dụng Google sites để xây dựng trang web học tập chúng tôi thu được kết quả như sau:.
- Khảo sát ý kiến đánh giá của sinh viên về ứng dụng Google sites.
- Tổng số sinh viên.
- Ý kiến của sinh viên.
- Học tập với sự hỗ trợ của Google sites giúp sinh viên có kết quả tốt hơn..
- Mặc dù chúng tôi chưa có cơ hội ứng dụng và khảo sát kết quả ở diện rộng hơnnhưng những kết qủa này bước đầu cho thấy đa số sinh viên công nhận những tiện ích mà Google sites mang lại cũng như thấy được hiệu quả của nó trong việc hỗ trợ học tập bộ môn Văn học Việt Nam.
- Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số sinh viên chưa thực sự hứng thú, chúng tôi thiết nghĩ đây cũng là điều không thể tránh khỏi.
- Thời gian tới, chúng tôi sẽ tăng cường chia sẻ và tập huấn thêm cho sinh viên cũng như để các em chủ động đề xuất nội dung website.
- Con số khảo sát này chưa thể khẳng định được tất cả song với những phân tích cụ thể ở trên chúng tôi chủ quan cho rằng hoàn toàn có thể áp dụng Google sites trong việc xây dựng website học tập bộ môn Văn học Việt Nam của sinh viên Sư phạm Ngữ văn..
- Bên cạnh Google sites chắc hẳn sẽ còn nhiều ứng dụng khác có thể xây dựng trang web học tập cho sinh viên..
- Tuy nhiên, trong điều kiện dạy và học hiện có, trong khả năng của giảng viên và sinh viên, chúng tôi cho rằng ứng dụng Google sites là công cụ hữu ích hỗ trợ cho việc học tập bộ môn Văn học Việt Nam của sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn, từ đó nâng cao đổi mới phương pháp giảng dạy, chất lượng đào tạo ở trường Đại học..
- Nguyễn Thanh Thủy (2016), “Hình thành kĩ năng tự học cho sinh viên – nhu cầu thiết yếu trong đào tạo ngành sư phạm”, Tạp chí khoa học Trường Đại học Đồng Nai, số 03, tr.10-16.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt