intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đào tạo giáo viên vừa “hồng” vừa “chuyên” tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

16
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết cho thấy, Giáo dục, đào tạo thanh niên “vừa hồng, vừa chuyên” từ góc độ của khoa học giáo dục có thể coi là đào tạo theo tiếp cận năng lực. Theo đó, đầu ra của giáo dục và đào tạo là các phẩm chất và năng lực cần được hình thành ở người học. Tinh thần của tiếp cận năng lực thể hiện ở mục tiêu đào tạo giáo viên “vừa hồng, vừa chuyên” đã được đã được nghiên cứu và vận dụng từ khá sớm trong đào tạo giáo viên ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đào tạo giáo viên vừa “hồng” vừa “chuyên” tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay

  1. HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2021-0138 Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4D, pp. 67-75 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN VỪA “HỒNG” VỪA “CHUYÊN” TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI HIỆN NAY Nguyễn Đức Sơn Ban Giám hiệu, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Giáo dục, đào tạo thanh niên “vừa hồng, vừa chuyên” từ góc độ của khoa học giáo dục có thể coi là đào tạo theo tiếp cận năng lực. Theo đó, đầu ra của giáo dục và đào tạo là các phẩm chất và năng lực cần được hình thành ở người học. Tinh thần của tiếp cận năng lực thể hiện ở mục tiêu đào tạo giáo viên “vừa hồng, vừa chuyên” đã được đã được nghiên cứu và vận dụng từ khá sớm trong đào tạo giáo viên ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hiện nay, các nguyên tắc và nội dung của tiếp cận năng lực trong đào tạo giáo viên được thao tác hóa một cách có hệ thống trong mô hình và chương trình đào tạo của nhà trường với chuẩn đầu ra là các phẩm chất và năng lực cần có của người giáo viên tương lai. Quá trình đào tạo và môi trường đào tạo được tổ chức tương ứng để thúc đẩy sự hình thành các năng lực và phẩm chất. Từ khóa: hồng, chuyên, phẩm chất, năng lực, đào tạo giáo viên, phát triển chương trình. 1. Mở đầu Luôn dành sự quan tâm to lớn cho việc giáo dục thế hệ trẻ, mong muốn thế hệ trẻ được giáo dục tốt để trở thành những người chủ tương lai của đất nước, Hồ Chủ tịch đã thường xuyên dặn dò, nhắc nhở các lực lượng giáo dục trong sự nghiệp giáo dục nước nhà. Về trẻ nhỏ, Bác nói: “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ, học hành là ngoan”, với học sinh phổ thông Bác có “5 điều Bác dạy”, đối với thanh niên Bác căn dặn: “Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” [1]. Tư tưởng giáo dục thế hệ trẻ “vừa hồng, vừa chuyên” được vận dụng rộng khắp trong giáo dục nước ta. Đặc biệt, đào tạo giáo viên nhất thiết cần vận dụng tư tưởng đó vì chính những nhà giáo tương lai phải là người gieo hạt “hồng và chuyên” cho các thế hệ tiếp nối. Vì vậy, nhìn nhận, phân tích việc vận dụng tư tưởng đó trong đào tạo giáo viên ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN) là việc làm rất có ý nghĩa. Hiện nay có nhiều tiếp cận được vận dụng trong đào tạo giáo viên như tiếp cận tích hợp, tiếp cận lâm sàng, tiếp cận hồi cứu, tiếp cận nghiên cứu, tiếp cận năng lực… tiếp cận năng lực là một tiếp cận hiện đại được chú ý trong thời gian gần đây Chuyển hóa tư tưởng giáo dục thanh niên “vừa hồng”, “vừa chuyên” như là tiếp cận năng lực vào hoạt động đào tạo giáo viên là quá trình bao hàm nhiều khâu và nhiều tầng bậc, từ việc xác định sứ mạng, tầm nhìn của nhà trường đến thiết kế mô hình và chương trình đào tạo, từ tổ chức hoạt động đào tạo đến tổ chức các hoạt động giáo dục, từ đảm bảo các điều kiện cho hoạt động dạy học trong nhà trường đến cung cấp các dịch vụ cộng đồng. Ngày nhận bài: 2/7/2021. Ngày sửa bài: 29/8/2021. Ngày nhận đăng: 10/9/2021. Tác giả liên hệ: Nguyễn Đức Sơn. Địa chỉ e-mail: nguyenducson@hnue.edu.vn 67
  2. Nguyễn Đức Sơn Với định hướng đó, đào tạo giáo viên vừa hồng vừa chuyên được triển khai thế nào ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong những năm qua? Bài viết này tập trung phân tích việc hiện thực hóa tư tưởng đào tạo nhà giáo “vừa hồng”, “vừa chuyên” trong đào tạo ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ Hồ Chủ tịch luôn nhấn mạnh vai trò của nhà giáo trong giáo dục: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa” [2]. Vai trò của nhà giáo đã được xác định bởi các thiết chế về luật pháp, được tôn vinh bởi truyền thống dân tộc và sự thừa nhận của xã hội. Trong đào tạo giáo viên vai trò này cần được giáo sinh ý thức rõ ràng và hun đúc thành phẩm chất của nhà giáo. Tại Trường ĐHSPHN Người cũng khẳng định: “Người thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo – là người vẻ vang nhất” [3]. Để có được những người thầy giáo như vậy, nhiệm vụ này được đặt lên vai các trường sư phạm. Đặc biệt, đối với Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, nhân dịp về thăm Trường ngày 21/10/1964 Hồ Chủ tịch đã giao nhiệm vụ đối với Nhà trường: “Làm thế nào để nhà trường này chẳng những là trường sư phạm mà còn là trường mô phạm của cả nước”. Với vị trí và vai trò của Nhà trường như vậy, nhiệm vụ đào tạo người giáo viên “vừa hồng, vừa chuyên” cần được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Trong bài nói chuyện đó Bác cũng nhấn mạnh: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức”. Như vậy, “hồng và chuyên”, tài và đức là mục tiêu của giáo dục, đào tạo. Mục tiêu đó càng cần được kiên trì thực hiện trong trường sư phạm. Hồ Chủ tịch cũng chỉ ra cách thức để thực hiện mục tiêu đó: “Học đi đôi với hành”. Đây là nguyên lí căn bản của giáo dục, đồng thời cũng tạo ra sức sống cho giáo dục. Bác căn dặn sinh viên sư phạm: “Các cháu học sinh không nên học gạo, không nên học vẹt… Học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”. Và “Đại học thì cần kết hợp lí luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lí luận tiên tiến của nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà” [1, tr.43-44]. Theo Phạm Minh Hạc, các nội dung của Tư tưởng về giáo dục của Hồ Chủ tịch bao quát các mặt cơ bản của quá trình giáo dục: - Về vai trò của giáo dục và nhà giáo; - Về mục tiêu giáo dục; - Về nguyên lí và phương pháp giáo dục; - Về hoạt động giáo dục; - Về người dạy và người học [4]. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là các nguyên tắc căn bản, là định hướng có tính mở hết sức quan trọng đối với hoạt động giáo dục nói chung và đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm nói riêng. 2.2. Các nghiên cứu để lĩnh hội và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong đào tạo giáo viên Các nhà khoa học và quản lí trong Trường ĐHSPHN đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu để lĩnh hội và vận dụng tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh trong giáo dục nói chung và đào tạo giáo viên nói riêng. Các nghiên cứu rất đa dạng và từ nhiều góc độ, tuy nhiên có thể khái quát thành 2 hướng chính: 68
  3. Đào tạo giáo viên vừa “hồng” vừa “chuyên” tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay Phân tích, tổng kết thực tiễn giáo dục và đào tạo của nhà trường Tổng kết kinh nghiệm để đề xuất các biện pháp cải tiến là hoạt động quan trọng trong chu trình quản lí PDCA (Plan – Do – Check – Action). Theo đó, hoạt động này được thực hiện thường xuyên trong quá trình quản lí nhà trường. Từ những năm 1974, GS. Nguyễn Lương Ngọc khi đánh giá hoạt động đào tạo của nhà trường đã đưa ra nhận định: “Từ năm học 1969 – 1970 đến nay (1974), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I vẫn luôn kiên trì khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”, bên cạnh phương châm “tinh giản, vững chắc, sát đối tượng, sát phổ thông” và phương châm “kết hợp ba mặt: tư tưởng, văn hóa, nghiệp vụ” nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo” [5]. Nhìn lại lịch sử Nhà trường, GS. Nguyễn Cảnh Toàn năm 2014 có bài viết Trường ĐHSPHN trên con đường xây dựng thành trường mô phạm của cả nước [6, tr.46]; PGS. Nghiêm Đình Vỳ năm 2010 có bài Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường sư phạm [7, tr.43] và GS. Phạm Minh Hạc (2006): Tiếp tục lĩnh hội và vận dụng triết lí giáo dục Hồ Chí Minh [4, tr.188]. Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên Nâng cao chất lượng đào tạo là vấn đề được quan tâm hàng đầu và cũng là vấn đề cốt lõi trong đào tạo giáo viên. Với mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, GS. Nguyễn Cảnh Toàn đề xuất biện pháp “Kết hợp hữu cơ giữa khoa học giáo dục và khoa học cơ bản”. Biện pháp này nhấn mạnh vào lô gic nội tại của khoa học, coi lô gic đó là cốt lõi của việc kết hợp khoa học giáo dục và khoa học cơ bản. “Ẩn đằng sau nội dung là lao động đã tạo ra nó: nội dung càng sâu sắc thì lao động tạo ra nó càng tinh vi” [8, tr.69]. Đồng thời với việc kết nối khoa học cơ bản và khoa học giáo dục là đa dạng hóa hình thức dạy học, “cai nghe giảng” thúc đẩy tự học của sinh viên, tận dụng triệt để công nghệ. Tiếp nối xu hướng đó, GS. Đinh Quang Báo nghiên cứu cơ sở lí luận của việc đào tạo tích hợp khoa học cơ bản và phương pháp dạy học bộ môn ở các trường sư phạm để trả lời câu hỏi: Tích hợp KHCB và KHGD, chuyển hóa thành năng lực của giáo viên như thế nào? Để thực hiện việc đó, tổ chức dạy học cần thúc đẩy tự học của sinh viên, môn học cần được thiết kế với hàm lượng tri thức sư phạm và tổ chức theo mẫu mực sư phạm sao cho sinh viên học khoa học cơ bản cũng là học khoa học giáo dục. Cần gắn nội dung khoa học cơ bản so sánh với chương trình phổ thông [9, 7]. Về định hướng phát triển Trường ĐHSPHN trọng điểm trong những năm đầu thế kỉ XXI, GS. Vũ Ngọc Hải đề xuất các nội dung: Trường ĐHSPHN là nòng cốt trong chuyển giao các giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc; Đào tạo giáo viên có bản lĩnh, cá tính sáng tạo và hành động; Xây dựng cơ chế mở trong hệ thống sư phạm [10]. Nhìn từ góc độ Khoa học giáo dục và Tâm lí học: “Hồng” và “Chuyên” hay “Đức” và “Tài” là nội hàm của khái niệm Phẩm chất và Năng lực. Đây là hai thành tố cơ bản trong cấu trúc khái quát của nhân cách. Từ cấu trúc khái quát này có thể xác định nội hàm của mỗi thành tố trong các bối cảnh xã hội, lịch sử và nghề nghiệp khác nhau... Với tư cách là các cấu trúc tâm lí của nhân cách, phẩm chất và năng lực không tách rời biệt lập mà thống nhất với nhau. Sự thống nhất của năng lực và phẩm chất tạo ra nhân cách và nhân cách chính là chỉnh thể của phẩm chất và năng lực. Chính trong hoạt động sống của nhân cách mà phẩm chất và năng lực được hình thành và bộc lộ ra bên ngoài. Có nhiều điểm chung giữa phẩm chất và năng lực: - Năng lực và phẩm chất được hình thành bằng hoạt động và thông qua hoạt động. Hoạt động là bản thể của năng lực và phẩm chất. - Năng lực và phẩm chất đều thể hiện ra bên ngoài thông qua các hành vi, hoạt động. - Năng lực và phẩm chất đều được thể hiện trong kết quả của hoạt động – hoạt động tạo ra sản phẩm (hoạt động với đối tượng) hay giao tiếp ứng xử (hoạt động có đối tượng là con người). - Năng lực và phẩm chất đều được tạo thành bởi kiến thức, thái độ và hành vi, được tích hợp và trở nên ổn định thành các thuộc tính của nhân cách. Sự khác biệt căn bản giữa phẩm chất và năng lực thể hiện ở 1 số khía cạnh: 69
  4. Nguyễn Đức Sơn - Năng lực được nhìn nhận cơ bản trong các hoạt động có đối tượng và thường tạo ra sản phẩm tương đối xác định (cả sản phẩm bên ngoài và sản phẩm bên trong – tâm lí của cá nhân). Phẩm chất cơ bản được thể hiện và nhìn nhận trong các mối quan hệ (với bản thân, với người khác, xã hội, công việc.) - Năng lực được đánh giá thông qua kết quả sản phẩm và hiệu quả hoạt động. Phẩm chất được đánh giá cơ bản thông qua thái độ của cá nhân với thế giới xung quanh. - Năng lực quyết định kết quả của hoạt động. Phẩm chất quyết định giá trị xã hội của năng lực. Hai thành tố này là 2 mặt của sự tương tác giữa cá nhân với thế giới xung quanh, không mâu thuẫn, không tách biệt. Từ cấu trúc này có thể xây dựng được chân dung nhân cách mà giáo dục muốn hình thành nên trong các thời kì xã hội. Từ đó, đào tạo nhà giáo vừa hồng vừa chuyên được hiểu là đào tạo ra những nhà giáo có phẩm chất cần thiết cho nghề nghiệp, cho xã hội, có năng lực cần thiết cho hoạt động giáo dục, dạy học có kết quả. “Hồng” – phẩm chất của người giáo viên được thể hiện ở lòng nhân ái, lòng yêu nghề, yêu trẻ, lòng tin vào bản chất tốt đẹp và sự tiến bộ của trẻ. Đây là những phẩm chất nghề nghiệp mang tính xuyên suốt qua lịch sử. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phẩm chất không thể thiếu ấy là “thật thà yêu nghề mình”, có vậy mới yêu trẻ, mới phục vụ cho tổ quốc, dân tộc. “Chuyên” thể hiện ở năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực khoa học chuyên ngành. Có những năng lực nền tảng của dạy học và giáo dục mà bất kì nhà giáo nào cũng cần có. Cũng có những năng lực mới mà người giáo viên cần phải có để có thể đáp ứng được các yêu cầu của thời đại. Như vậy, để đào tạo được nhà giáo vừa hồng vừa chuyên thì cần xác định được cấu trúc nhân cách nhà giáo với các biểu hiện cụ thể của phẩm chất và năng lực trong thời đại ngày nay. Những quan điểm nêu trên đã được thao tác hóa trong mô hình và chương trình đào tạo của nhà trường, cũng như trong tổ chức và quản lí đào tạo được trình bày dưới đây. 2.3. Đào tạo giáo viên theo tiếp cận “vừa hồng, vừa chuyên” ở Trường ĐHSPHN 2.3.1. Khung chuẩn đầu ra và mô hình, chương trình đào tạo 2.3.1.1. Khung chuẩn đầu ra Trong lịch sử của Trường ĐHSP Hà Nội, tư tưởng đào tạo giáo viên “vừa hồng, vừa chuyên” theo lời dạy của Bác đã được triển khai thống nhất và nhất quán với các mức độ khác nhau. GS. Nguyễn Văn Minh (2014) trong bài viết “Từ tầm nhìn giáo dục toàn diện và tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, nghĩ về vị thế nhà trường và trọng trách Nhà giáo” [11, tr.35] đã xác lập những nội dung cần được triển khai trong đào tạo của nhà trường, bao gồm: - Giáo dục toàn diện cả đức và tài là một trong các tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh được ĐHSP Hà Nội ý thức sâu sắc và cần kiên trì chuyển thành hành động. - Tư tưởng nhân văn về phát triển mỗi cá nhân người học – nhà giáo tương lai. Đào tạo ở trường Đại học Sư phạm cần hình thành và phát triển được tinh thần nhân văn cho nhà giáo để thực hiện lao động nghề nghiệp sau này. Có 6 nhiệm vụ cần thực hiện để triển khai tinh thần trên, trong đó nhiệm vụ thứ ba là “Xây dựng chương trình đào tạo hiện đại, thiết thực, gắn bó mật thiết với chương trình giáo dục phổ thông nhằm đào tạo đội ngũ nhà giáo không chỉ giỏi năng lực dạy học mà còn làm tốt chức năng giáo dục toàn diện cho học sinh; Xây dựng và đưa vào vận hành chương trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm theo hướng dạy học hiện đại, tập trung xây dựng chương trình đào tạo lại, bồi dưỡng giáo viên các cấp phù hợp với chương trình đổi mới giáo dục phổ thông” [11, tr.39]. 70
  5. Đào tạo giáo viên vừa “hồng” vừa “chuyên” tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay Từ các xuất phát điểm như vậy, Trường ĐHSP Hà Nội đã xác định Triết lí giáo dục là: “Đào tạo những nhà giáo xuất sắc, có tinh thần nhân văn, tư duy hiện đại, hành động tích cực vì cộng đồng”. Các tư tưởng về đào tạo giáo viên theo tiếp cận năng lực và kết hợp các giá trị căn bản của nhà trường được thao tác hóa và thể hiện ở Khung lí thuyết xây dựng chuẩn đầu ra dưới đây: HỆ GIÁ TRỊ Hệ giá trị cá nhân nhà giáo Hệ giá trị của nghề dạy học CHÂN DUNG NHÀ GIÁO Nhà Nhà văn Nhà nghiên Người giáo dục hóa - XH cứu học MỤC TIÊU ĐÀO TẠO CHUNG Phẩm chất Năng lực KHUNG CHUẨN ĐẦU RA PHẨM NĂNG LỰC CHẤT NL chung NL sư NL ngành phạm CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO Mô hình Kế hoạch Nội dung đào tạo Phương pháp đào Điều kiện đào tạo đào tạo (Chung; SP; Ngành) tạo và đánh giá kết thực hiện quả đào tạo BỘ TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ THEO CHUẨN ĐẦU RA Sơ đồ 1. Khung lí luận thiết kế khung chuẩn đầu ra của Chương trình đào tạo cử nhân sư phạm [12] Khung lí thuyết để xây dựng khung chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo được triển khai theo các thành tố có tính tầng bậc, xuất phát từ Hệ giá trị cá nhân của nhà giáo và Hệ giá trị nghề nghiệp. Hệ giá trị là cốt lõi của hệ thống điều khiển trong mỗi nhân cách. Nó định hướng, điều chỉnh, điều khiển hoạt động sống của các nhân một cách thống nhất với tư cách là một chỉnh thể. Mỗi lựa chọn của cá nhân trong cuộc sống, mỗi hành động của cá nhân trong tình huống cụ thể đều được điều chỉnh (một cách trực tiếp hay gián tiếp) bởi hệ giá trị cá nhân theo đuổi. Tiếp cận giá trị là tiếp cận mới trong đánh giá và đào tạo [4]. Hệ giá trị trong nhân cách nhà giáo – được thể hiện, phóng chiếu vào các vai trò xã hội mà nhà giáo sẽ thực hiện trong đời sống xã hội: Nhà giáo dục, Nhà Văn hóa – xã hội, Nhà nghiên cứu, Người học (suốt đời). Như vậy, dù có thực hiện vai trò nào trong các vai trò nêu trên, giá trị cốt lõi của nhà giáo (cá nhân và nghề nghiệp) vẫn sẽ chi phối cách làm việc và ứng xử của cá nhân với cuộc sống và với xã hội. 71
  6. Nguyễn Đức Sơn Từ chân dung nhà giáo trong hiện tại và tương lai với các vai trò xã hội được xác định, mục tiêu chung của các chương trình đào tạo giáo viên được cụ thể hóa thành Chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo thể hiện rõ các phẩm chất và các năng lực của người giáo viên được đào tạo ở trường sư phạm với 4 nhóm chuẩn đầu ra, bao gồm: Phẩm chất, Năng lực chung, Năng lực sư phạm và Năng lực ngành. Phẩm chất cần giáo dục để hình thành và phát triển ở sinh viên bao gồm: • Trung thực, • Trách nhiệm và tận tâm, • Đáng tin cậy và có ý thức thực hiện công bằng xã hội, • Yêu thương học sinh và có niềm tin vào học sinh, • Yêu nghề và tự hào về nghề dạy học, • Ý thức tự học, tự nghiên cứu suốt đời. Các năng lực bao gồm: Nhóm năng lực chung cốt lõi: • Năng lực tự chủ và thích ứng với những thay đổi, • Năng lực giao tiếp và hợp tác, • Năng lực lãnh đạo, • Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, • Năng lực nhận thức về văn hóa – xã hội, • Năng lực phản biện. Nhóm năng lực sư phạm cốt lõi: • Năng lực dạy học, • Năng lực giáo dục, • Năng lực định hướng sự phát triển của học sinh, • Năng lực hoạt động xã hội, • Năng lực phát triển nghề nghiệp, Nhóm năng lực ngành cốt lõi bao gồm: • Năng lực đặc thù của khoa học ngành, • Năng lực hiểu và giải thích thấu đáo các nội dung dạy học của CT môn học (theo ngành được đào tạo) trong CT GDPT bằng cách vận dụng các tri thức GD tổng quát và tri thức khoa học ngành (hoặc liên ngành), • Năng lực hiểu và vận dụng các tri thức giáo dục tổng quát và tri thức khoa học ngành (hoặc liên ngành) vào thực tiễn, • Năng lực nghiên cứu khoa học ngành và khoa học giáo dục ngành, • Năng lực sử dụng ngoại ngữ trong hoạt động chuyên môn, • Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động chuyên môn [12]. Trong sơ đồ lí thuyết về khung chuẩn đầu ra (Sơ đồ 1), các phẩm chất và năng lực được xác định tương đối rõ ràng, đồng thời việc hiện thực hóa các phẩm chất và năng lực được triển khai thống nhất trong tất cả các thành tố của quá trình đào tạo. Nói cách khác không có sự tách biệt cơ học giữa phẩm chất và năng lực. Việc hình thành phẩm chất và năng lực được tiến hành thông qua các hoạt động giảng dạy và giáo dục. Cũng có thể nhìn thấy trong mô hình này sự kết hợp giữa khoa học cơ bản và khoa học giáo dục (thể hiện rõ nét trong các năng lực thuộc nhóm năng lực ngành) nhằm chuyển hóa thành năng lực nghề nghiệp của nhà giáo. Khung chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực này là cơ sở chung cho việc xây dựng các 72
  7. Đào tạo giáo viên vừa “hồng” vừa “chuyên” tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay chương trình đào tạo của nhà trường. Từ đó tạo ra sự thống nhất của chương trình nhà trường đối với các ngành khác nhau. Kết quả là, lần đầu tiên Trường ĐHSPHN có được một Chương trình nhà trường, với bản sắc riêng của mình. 2.3.1.2. Mô hình và chương trình đào tạo Chương trình đào tạo chính là bản vẽ thiết kế của hoạt động đào tạo, nơi khai triển cụ thể các triết lí, tư tưởng và quan điểm về đào tạo. Để có được các chương trình đào tạo cụ thể có tính thống nhất với chuẩn đầu ra và có được bản sắc riêng của nhà trường, mô hình đào tạo chung của Nhà trường đã được xác lập theo sơ đồ dưới đây. Nhóm ngành Khoa học xã hội và nhân văn Khối học vấn chung của trường Khối học vấn chung của cả nhóm ngành Khối học vấn chung Khối học vấn chung ....... của nhóm ngành 1 của nhóm ngành 2 Khối học vấn ngành cho hệ cử nhân SP Khối học vấn ngành cho hệ cử nhân ngoài SP Khối học vấn đào tạo và rèn luyện NLSP cho hệ cử nhân SP Thực hành, thực tập chuyên ngành CỬ NHÂN SƯ PHẠM CỬ NHÂN SP SP SP GD chính CHUYÊN NGÀNH Ngữ Lịch Địa trị - GD ..… văn sử lí công dân Phát Cử nhân sư phạm dạy môn Lịch sử và Địa lí ở THCS triển Thạc sĩ nghề nghiệp Phát triển Thạc sĩ Tiến sĩ nghề nghiệp Tiến sĩ Sơ đồ 2. Mô hình đào tạo khối ngành Khoa học xã hội và nhân văn [13] Các chương trình đào tạo được thiết kế trên mô hình chung của nhà trường. Với các khối học vấn: học vấn chung, học vấn của nhóm ngành, học vấn chuyên ngành và học vấn nghiệp vụ sư phạm. Các khối học vấn vừa tạo ra được sự liên thông ngang giữa các ngành đào tạo nhằm đảm bảo người học có được nền tảng chung và rộng về lĩnh vực giảng dạy, vừa có sự kết nối chặt chẽ giữa khoa học cơ bản và khoa học sư phạm. Mô hình này hướng tới đảm bảo chất lượng đào tạo cả về phẩm chất và năng lực. 2.3.2. Tổ chức đào tạo Việc tổ chức đào tạo được thực hiện theo mô hình và chương trình đào tạo, đặc biệt chú 73
  8. Nguyễn Đức Sơn trọng đến việc kết nối và chuyển hóa các kiến thức thuộc khối học vấn khoa học cơ bản chuyên ngành với khoa học sư phạm. Các giảng viên có trình độ cao, kinh nghiệm và có khả năng tạo nhiệt huyết được lựa chọn để giảng dạy các học phần thuộc khối học vấn chung của nhà trường. Khối học vấn này đóng vai trò nền tảng về khoa học, nền tảng về văn hóa xã hội mà mỗi nhà giáo tương lai đều cần phải có. Việc giảng dạy khối học vấn chung đòi hỏi các giảng viên phải gắn được các kiến thức của học phần với các đặc điểm nghề nghiệp của giáo viên, tức là không chỉ dừng lại ở các kiến thức hàn lâm đơn thuần mà cần gắn với thực tiễn nghề nghiệp của sinh viên sau này. Điều này một mặt giúp hình thành bản lĩnh về chính trị, tư tưởng, một mặt rèn luyện được khả năng vận dụng kiến thức của sinh viên ngay từ khi mới vào trường. Việc giảng dạy khối học vấn chuyên ngành được khuyến khích theo hướng vừa chuyên sâu về chuyên môn, vừa có sự soi chiếu với chương trình phổ thông, vừa chú trọng đến nghiên cứu khoa học cơ bản, vừa kết nối với nghiên cứu khoa học giáo dục. Trong quá trình đào tạo, các học phần gắn với thực hành, thực tập tại trường phổ thông được quan tâm đặc biệt. Sinh viên được rèn nghề theo logic chặt chẽ: lí thuyết kết hợp với thực hành trong mỗi học phần nghiệp vụ sư phạm, giảng dạy trong nhà trường sư phạm kết hợp với giảng dạy ở các trường phổ thông, kết nối giữa giảng đường và lớp học. Thời gian sinh viên tiếp cận với trường phổ thông được quan tâm bố trí một cách tối đa. Đây là cơ hội để sinh viên được trải nghiệm nghề nghiệp trong môi trường thực. Trải nghiệm là con đường quan trọng để hình thành phẩm chất và năng lực của nhà giáo tương lai. 2.3.3. Các hoạt động giáo dục Tổ chức các hoạt động rèn luyện cho sinh viên là một trong các con đường cơ bản để hình thành phẩm chất và năng lực. Các hoạt động rèn luyện rất đa dạng trong nhà trường. - Hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. - Hoạt động tình nguyện, hoạt động hiến máu nhân đạo, hoạt động giúp đỡ các nhóm yếu thế trong xã hội. - Hoạt động kết nối các lực lượng giáo dục. Xây dựng môi trường sư phạm: Môi trường sư phạm là bối cảnh thu nhỏ của môi trường lao động nghề nghiệp sau này của sinh viên, cũng là môi trường thu nhỏ của xã hội. Quá trình rèn luyện của sinh viên chịu tác động mạnh của môi trường này. Vì vậy việc xây dựng môi trường sư phạm rất có ý nghĩa cho việc cảm nhận các giá trị nghề nghiệp và hình thành hệ thống giá trị nghề nghiệp của sinh viên. Tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, môi trường sư phạm được xây dựng theo các giá trị cơ bản của nhà trường: Chuẩn mực- Cống hiến- Sáng tạo. Trong đó, lấy sinh viên làm trung tâm, hướng đến phục vụ sinh viên, lấy đội ngũ cán bộ giảng viên làm yếu tố quyết định chất lượng. Môi trường này là nơi nuôi dưỡng các giá trị hồng – chuyên để sinh viên lĩnh hội và chuyển hóa thành phẩm chất và năng lực của bản thân. 3. Kết luận Đào tạo giáo viên ngày càng trở thành một lĩnh vực khoa học nghề nghiệp bao hàm cả nghiên cứu lí luận và tổ chức hoạt động thực tiễn. Trong đó, có những yêu cầu và những vấn đề đặc thù cần được nghiên cứu giải quyết. Trong quá trình đào tạo giáo viên, Trường ĐHSPHN đã luôn ý thức về việc cải tiến, đổi mới hoạt động đào tạo để đáp ứng được các đòi hỏi của xã hội về đội ngũ nhà giáo. Đây cũng là nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi trí tuệ, thời gian, công sức và sự kiên định. Tư tưởng đào tạo giáo viên “vừa hồng, vừa chuyên” vẫn là định hướng lâu dài cho sự phát triển của Nhà trường. Định hướng này, cần được cụ thể hóa trong mỗi thời kì lịch sử và bối cảnh xã hội. Do vậy, để hoạt động đào tạo có chất lượng, nghiên cứu đổi mới và thực hiện các chương trình đổi mới là yêu cầu tất yếu của phát triển. 74
  9. Đào tạo giáo viên vừa “hồng” vừa “chuyên” tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, 2002. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 331-332 [2] Hồ Chí Minh, 1964. Bài nói chuyện trong lần đến thăm Trường ĐHSPHN năm 1964. Hồ Chí Minh toàn tập. Nxb Chính trị Quốc Gia. 4/2004, tr. 329. [3] Bác Hồ với trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2014. Kỉ niệm 50 năm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm trường. Nxb Đại học Sư phạm. [4] Phạm Minh Hạc, 2006. Phương pháp tiếp cận hoạt động – Giá trị - Nhân cách và triết lí giáo dục. Kỉ yếu Hội thảo khoa học 60 năm ngành Sư phạm Việt Nam, tr. 115. [5] Nguyễn Lương Ngọc,1974. Bàn về “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Tập san Đại học Sư phạm, số 3, tr. 5. [6] Nguyễn Cảnh Toàn, 2014. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trên con đường xây dựng thành trường mô phạm của các nước. Kỉ niệm 50 năm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm trường. Nxb Đại học Sư phạm. [7] Nghiêm Đình Vỳ, 2010. “Quán triệt tư tưởng HCM về giáo dục trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường sư phạm”. Kỉ yếu Hội thảo khoa học Chủ tịch Hồ Chí Minh – Một tầm nhìn chiến lược về giáo dục và sư phạm. Nxb Đại học Sư phạm. [8] Nguyễn Cảnh Toàn, 2010. Hiện đại hóa hệ thống sư phạm. Kỉ yếu Hội thảo 60 năm ngành Sư phạm Việt Nam, tr. 67. [9] Đinh Quang Báo, 2006. Cơ sở lí luận của việc đào tạo tích hợp khoa học cơ bản và phương pháp dạy học bộ môn ở các trường sư phạm. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Kỉ yếu hội thảo khoa học 60 năm ngành Sư phạm Việt Nam, tr. 84 [10] Vũ Ngọc Hải, 2006. Về định hướng phát triển trường Đại học Sư phạm Hà Nội trọng điểm trong những năm đầu thế kỉ XXI. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 55 năm xây dựng và phát triển, tr. 289. [11] Nguyễn Văn Minh, 2014. Từ tầm nhìn giáo dục toàn diện và tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, nghĩ về vị thế nhà trường và trọng trách Nhà giáo. Kỉ niệm 50 năm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm trường. Nxb Đại học Sư phạm, tr. 35. [12] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2019. Quyết định số 185/ ĐHSP – ĐT. Ban hành khung chuẩn đầu ra Chương trình sư phạm ngày 19 tháng 4 năm 2019. [13] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2019. Quyết định số 268 / ĐHSP – ĐT. Ban hành mô hình và chương trình đào tạo ngày 19 tháng 7 năm 2019. ABSTRACT The competance- based approach in Teacher training at HNUE nowadays Nguyen Duc Son Directorate, Hanoi National University of Education Education and training young people “both ethical and professional” from the perspective of educational science are competency-based training. Accordingly, the output of education and training is the qualities and competencies that need to be formed in learners. The competance- based approach is applied in HNUE’s current curriculume developing. The latest HNUE curriculume is the result of that process. In the curriculume, program learning outcomes are identifield as professional competancies that are required for a future educator. The principles and content of competance - based approach are systematicaly operationlized in the training model and training program. Beside that, the training process and educational environment are organizing to enhance a formation of professional competence of students. Keywords: ethical, professional, quality, competence, training teacher, developing curriculum. 75
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2