You are on page 1of 58

294 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Trước đây, bà Chiêu Từ thái hậu đặt ra phép "sa châu tiệt cước", để cắt lấy những bãi phù sa
mới bồi ở ven sông, chiếm làm của mình. Trần Dụ Tông lại ra lệnh điểm kiểm tài sản: các nhà quyền quý
có đồ quý báu, khi chết đi rồi, phải điểm kiểm đem nộp nhà nước, không được chia cho con cháu. Phàm
những chính sự tệ hại ấy đều bởi bọn bầy tôi "tụ liễm"2 bày ra cả. Đến đây, bãi bỏ hết.
Tháng 3 nhuận. Chiêm Thành vào cướp kinh đô. Nhà vua chạy sang huyện Đông Ngàn.
Dương Nhật Lễ đã bị giết rồi, mẹ nó trốn sang nước Chiêm Thành, xui Chiêm Thành vào lấn
cướp. Bấy giờ, từ khi Trần Dụ Tông rông rỡ chơi bời, việc võ không sửa sang, biên giới chẳng phòng bị,
quân Chiêm Thành do cửa biển Đại An thẳng tiến, xâm phạm kinh đô. Cánh du binh của địch đến bến
Thái Tổ, không ai chống cự được. Nhà vua phải chạy sang huyện Đông Ngàn để lánh giặc. Người Chiêm
bắt lấy con trai, con gái, cướp bóc ngọc lụa, của cải, thiêu đốt cung điện, đồ thư và sổ sách. Kinh thành,
vì thế, hết sạch sành sanh. Từ đấy, năm nào, Chiêm Thành cũng thường vào xâm lấn khuấy nhiễu; do đó
biên giới mới xảy ra lắm việc.
Lời chua - Đông Ngàn: Tức là đất Cổ Pháp. Xem Lê Long Đĩnh, năm Cảnh Thụy
thứ 2 (Chb. II, 6).
Cửa biển Đại An: Tức là cửa biện Đại Nha: Xem Lý Hậu đế năm thứ 1 (Tb. IV,
13).
Bến Thái Tổ: Bây giờ là phường Phục Cổ, thuộc huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội.
Nhà vua từ huyện Đông Ngàn trở về kinh đô.
Tháng 4, mùa hạ. Lập em là Cung Tuyên vương Cảnh làm hoàng thái tử; ban cho 14
chương Hoàng Huấn3.
Cảnh, là con vợ thứ vua Minh Tông.
Lời cẩn án - Nghệ Hoàng4 lên ngôi đến đây đã 2 năm, chính các con vua như
Húc và Ngạc, tuổi cũng đã lớn, thế mà vội lập ngay em, là nghĩa gì? Chẳng qua chỉ vì
phần nhiều nhờ sức người em chiêu tập quân lính nổi dậy mà lấy lại được nước, nên mới
nghĩ đến công ấy, muốn cùng nhau được hưởng giàu sang đó thôi, chứ không phải cốt
để trọng việc nối dõi thờ cúng và sáng nghĩa thế thứ trao quyền. Huống chi, lấy em làm
con, sự đó lại càng sai trái.
Tháng 5. Dùng người họ ngoại là Lê Quý Ly làm Xu mật đại sứ.
Ông tổ nhà Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang, về đời Ngũ Quý (907-959), sang bên
ta, lập ấp ở tại làng (hương) Bào Đột thuộc Diễn Châu. Về sau, Hồ Liêm di cư sang Thanh Hóa, làm con
nuôi Lê Huấn, do đấy, đổi theo họ Lê. Quý Ly là cháu bốn đời. Quý Ly có hai người cô đều được Trần
Minh Tông lấy vào hậu cung: Một người, là bà Sinh Từ, sinh được nhà vua đây; một người, là bà Đôn Từ,
sinh được Duệ Tông. Cho nên nhà vua tin dùng Quý Ly, cho Quý Ly do Chi hậu chánh chưởng thăng lên
chức này; lại gả cho Quý Ly người em gái mới góa là Huy Ninh công chúa.
Lời chua - Làng Bào Đột: Bây giờ là xã Bào Đột, huyện Quỳnh Lưu5.
Huy Ninh: Vợ Nhân Vinh, người họ tôn thất. Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết.
Nhà vua xuống chiếu: phàm việc xây dựng cung thất đừng có phiền nhiễu đến dân.

1
Xắn lấy chân bãi bên sông có phù sa mới bồi.
2
Ráo riết bắt dân đóng góp để làm giàu cho người trên.
3
Lời dạy của vua cha.
4
Tức Trần Nghệ Tông.
5
Nay thuộc Nghệ An.
295 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Bấy giờ cung thất đều bị Chiêm Thành đốt phá. Nhà vua hạ chiếu cho xây dựng và sửa sang lại,
nhưng việc doanh tạo chỉ cốt mộc mạc, đơn giản, do những chức tản quan1 trong họ tôn thất đứng làm,
chứ không dùng đến sức dân.
Tháng 9, mùa thu. Gia phong cho Lê Quý Ly tước Trung Tuyên quốc thượng hầu.
Trước đây, sai Quý Ly đi vào Nghệ An, vỗ về nhân dân, chiêu an nơi biên giới, nên có mệnh lệnh
gia phong này.
Tháng 10, mùa đông. Sai Phan Nghĩa, lang trung bộ Lễ, đặt ra thông chế và các lễ
nghi2.
Nhâm Tí, năm thứ 3 (1372). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 5).
Tháng giêng, mùa xuân. Xét thành tích các quan.
Tháng 4, mùa hạ. Dùng Đỗ Tử Bình làm Hành khiển, tham mưu quân sự.
Tháng 5. Dùng Nguyễn Nhiên kiêm chức Xu Mật viện.
Nhà vua khi mới lên ngôi, vì thấy Nguyễn Nhiên có công3, nên cho làm hành khiển rồi thăng tả
tham tri chính sự. Nhưng Nguyễn Nhiên ít chữ, lúc phê sổ sách, nhà vua thường phải dạy cho viết chữ.
Đến đây, lại có mệnh lệnh cho kiêm giữ chức Xu Mật viện này.
Lời chua - Nguyễn Nhiên: Người huyện Tiên Du4, lộ Bắc Giang.
Tháng 8, mùa thu. Hạ chiếu cho các lộ làm sổ hộ tịch.
Tháng 10, mùa đông. Nhà vua đi Thiên Trường, sửa tẩm miếu ở các lăng.
Tháng 11. Nhà vua truyền ngôi cho thái tử Cảnh.
Thái tử lên ngôi, xưng là Khâm Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Kế Thiên Ứng Vận Nhân Minh
Khâm Ninh hoàng đế (ấy là Trần Duệ Tông). Vua Nghệ Tông làm bài châm, gồm 150 chữ, ban cho.
Truy tôn mẹ là Lê Thị làm Đôn Từ Hoàng Thái phi.
Cho Trương Hán Siêu được thờ phụ vào Văn Miếu.
Quý Sửu, Trần Duệ Tông hoàng đế, năm Long Khánh thứ 1 (1373). (Minh, năm Hồng
Vũ thứ 6).
Tháng giêng, mùa xuân. Tôn thượng hoàng làm Quang Hoa Anh Triết thái thượng
hoàng đế; truy tôn Thục đức hoàng hậu làm Thuận từ hoàng thái hậu.
Thượng hoàng khi thoạt mới về nước, bà nguyên phi là Huệ Ý phu nhân mất ở phủ Kiến Xương,
sau truy phong làm Thục Đức hoàng hậu; đến đây, nhà vua được nhường ngôi, lại truy tôn làm hoàng
thái hậu.
Lời bàn của Ngô Sĩ Liên - Vợ vua Thái Tổ nhà Trần5 tên thụy là Thuận Từ; vợ
vua Nghệ Tông cũng gọi là Thuận Từ. Bấy giờ bàn đặt tên thụy không cho thế là trái,

1
Xem chú thích chữ "tản lang" ở Chb. VI, 26.
2
Quy định các tiết mục về pháp chế và lễ nghi dùng chung cho cả nước ở đương thời. Đời Trần Thái Tông, năm Kiến Trung thứ 6
(1230), đã có việc khảo cứu các thể lệ đời trước, rồi quy định làm Quốc triều thông chế và hình luật lễ nghi gồm 20
quyển (Toàn thư V, 6a).
3
Nguyễn Nhiên biết tin bí mật về việc Nhật Lễ định giết Cung Định vương Phủ (Trần Nghệ Tông), đã bảo cho Cung Định biết trước
mà trốn thoát (Chb. X, 25).
4
Nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
5
Tức Trần Thừa, cha của Trần Thái Tông.
296 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

hay là đời đã xa rồi, không cần kiêng nữa? Nhưng mà cháu dâu với bà cụ tổ trùng tên
thụy nhau: thật trái lẽ lắm!
Tháng 2. Đặt ra sổ sách các quan văn, quan võ.
Lập bà phi họ Lê làm hoàng hậu.
Hoàng hậu là em con nhà chú (tụng muội) của Quý Ly, trước kia đã phong làm Hiển Trinh thần
phi, đến đây lập làm Gia Từ hoàng hậu.
Tháng 8, mùa thu. Bổ sung quân đội, tu tạo thuyền chiến.
Nhà vua thấy người Chiêm Thành hay vào xâm lấn, nên sai sửa sang việc võ, ý muốn chính mình
cầm quân đi đánh.
Ra lệnh cho quân và dân quyên thóc, rồi ban cho phẩm tước có đẳng hạng khác nhau.
Thi lại viên, bổ làm duyện lại ở Nội Lệnh sử.
Giáp Dần, năm thứ 2 (1374). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 7).
Tháng 2, mùa xuân. Bắt đầu đặt khoa thi tiến sĩ.
Trước đây, khoa thái học sinh, cứ 7 năm một lần thi, số đậu chỉ lấy 30 người thôi. Đình thí1, số
lấy đỗ không có lệ đặt nhất định. Phàm tam quán thuộc quan học sinh2, thị thần học sinh, tướng phủ học
sinh và những người có tước phong đều được vào thi cả. Đến đây mới bắt đầu gọi là khoa tiến sĩ; ban
cho Đào Sư Tích đậu trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đậu bảng nhỡn, Trần Đình Thâm đậu thám hoa, La Tu
đậu hoàng giáp, cập đệ và các đồng cập đệ3 gồm 50 người, đều cho ăn yến và ban áo mũ, xuất thân có
đẳng hạng khác nhau.
Lời chua - Đào Sư Tích: Người huyện Tây Chân4, phủ Thiên Trường5.
Lê Hiến Phủ: Người huyện Đông Kết, phủ Khoái Châu6.
Trần Đình Thâm: Người huyện Đông Triều, phủ Sách Giang7.
La Tu: Người huyện Thuần Hựu, thuộc Thanh Hóa.
Tháng 3, đào các sông ở Thanh, Nghệ.
Ra lệnh cho dân ở Thanh, Nghệ đào các sông, đến cửa biển Hà Hoa thì thôi.
Lời chua - Cửa biển Hà Hoa: Bây giờ ở xã Kỳ La, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Tháng 5, mùa hạ. Hạn hán đến mãi tháng 6.
Tháng 8, mùa thu. Đặt thêm quân hiệu.

1
Tức là thi lấy trạng nguyên (theo Toàn thư VII, 41a)
2
Toàn thư VII, 41a và Sử ký VIII, 12b đều chép là "thái học sinh" (Cương mục không có chữ "thái").
3
Về chế độ thi giáp đình ở đời Trần bấy giờ, tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) và hoàng giáp là hạng "cập đệ", còn
các Tiến sĩ thì là hạng "đồng cập đệ". Đến đời sau, như triều Tự Đức (1848-1884) chẳng hạn, chia Tiến sĩ làm tam giáp; Trạng
nguyên là đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh, Bảng nhãn là đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, Thám hoa là đệ nhất
giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh; Hoàng giáp là đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; các ông nghè dưới Hoàng giáp đều là đệ tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân cả. Ấy là không kể các phó bảng là những người chỉ đỗ thi hội, không được vào thi đình, tên được xếp vào
Ất bảng, kém tiến sĩ ở giáp bảng. Như vậy thấy rằng lối chia "cập đệ" và "đồng cập đệ" của đời Trần có hơi khác với đời sau.
4
Sau đổi là Nam Trực, nay thuộc tỉnh Nam Định.
5
Nay gồm một phần đất các huyện Xuân Thủy, Nam Trực, Trực Ninh, Thành phố Nam Định thuộc tỉnh Nam Định.
6
Phủ Khoái Châu nay gồm các huyện Ân Thi, Kim Động, Phù Tiên, Châu Giang thuộc tỉnh Hưng Yên.
7
Nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.
297 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Trước kia. Túc vệ chỉ có các quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần. Đến đây, đặt thêm các quân Uy
Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Thần Dực, Điến Hậu. Tuyển những dân đinh khoẻ mạnh, phân ra ba hạng,
sung vào các quân hiệu ấy. Ai cũng phải xăm trán để làm dấu ghi, như: quân Túc vệ thì trán xăm hoa;
quân mới đặt thêm thì xăm trán đồ đen. Còn Thiên Trường, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Lâm Bình,
và Thuận Hóa đều có quân hiệu, đặt đại đội trưởng và đại đội phó để cai quản.
Ất Mão, năm thứ 3 (1375). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 8).
Tháng giêng, mùa xuân. Dùng Lê Quý Ly làm tham mưu quân sự.
Sai Quý Ly tuyển trong họ tôn thất và trong các quan viên lấy những người am tường võ nghệ,
tinh thông thao lược, bổ làm quân tướng1.
Đặt lại các lộ, các phủ ở Hoan Châu, Diễn Châu và Lâm Bình.
Đổi Hoan Châu làm lộ Nhật Nam và các lộ Nghệ An Nam, Bắc, Trung; đổi Diễn Châu làm lộ Diễn
Châu, phủ Lâm Bình làm phủ Tân Bình. Sai Đào Lực Đinh và Hà Tử Công đem dân sở tại sửa sang đường
sá, từ lộ Cửu Chân đến huyện Hà Hoa, ba tháng làm xong.
Lời chua - Hoan Châu: Tức là Nghệ An. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận
thứ 10 (Chb. XXI, 23).
Diễn Châu: Xem thuộc Đường. Cao Tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb. IV, 20).
Lâm Bình: Tức là đất Địa Lý. Xem Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chb. III,
29).
Lộ Nhật Nam và các lộ Nghệ An Nam, Bắc, Trung: Địa giới ra sao, không rõ.
Cửu Chân: Xưa là bộ Cửu Chân đời Hùng Vương; nhà Đinh, nhà Lê gọi là Ái
Châu; niên hiệu Thiệu Phong (1341-1357) nhà Trần đổi làm lộ, chia đặt ba phủ Thanh
Hóa, Cửu Chân và Ái Châu.
Hà Hoa: Tên huyện được đặt ra từ nhà Trần trở về trước; nhà Lê gọi là Kỳ Hoa;
bây giờ đổi là Kỳ Anh, thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Tháng 6, mùa hạ. Sao thái bạch mọc ban ngày.
Tháng 8, mùa thu. Tuyển lính.
Binh lính, người nào già yếu thì thải ra; chọn lấy những dân đinh khỏe mạnh để bổ sung. Phàm
những người ngụ cư làm thuê (hộ xá, tá công) ở Thanh Hoá và Nghệ An đều lấy vào quân đội.
Lời chua - Hộ xá, tá công: Những người các nơi không có tên trong sổ hộ tích,
quần tụ ở làm một phường, đi làm thuê ở mướn để lấy tiền công, tức là đám dân siêu
giạt tha phương cầu thực.
Hạ chiếu cho những nhà giàu ở các lộ nộp thóc vào nhà nước, rồi ban cho phẩm tước
có đẳng hạng khác nhau
Bính Thìn, năm thứ 4 (1376). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 9).
Tháng 4, mùa hạ. Quy định chế độ về thuyền, xe, kiệu, tàn, áo, mũ và đồ nghi trượng.
Vì cớ sắp làm lễ hội thề ở đền Đồng Cổ.
Tháng 5. Chiêm Thành vào cướp Hoá Châu.
Tháng 10, mùa đông. Nhà vua duyệt binh ở Bạch Hạc giang.

1
Ông tướng cầm quân.
298 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Thấy người Chiêm Thành hay vào lấn cướp, nhà vua bàn định chính mình cầm quân đi đánh.
Ngự sử trung tán là Lê Tích dâng sớ can rằng: "Binh đao là thứ hung dữ, không nên tự chính nhà vua
dấy quân đi đánh, huống chi bây giờ nội nạn vừa mới được yên, Chiêm Thành dầu không giữ lễ làm tôi,
nhưng cũng chỉ nên sai tướng đi hỏi tội, chứ nếu xa giá thân chinh, thì theo ngu kiến, thần tưởng không
nên". Ngự sử đại phu là Trương Đỗ cũng can rằng: "Chiêm Thành chống lại mệnh lệnh nhà vua, tội nó
đáng phải giết, không dong thứ được; nhưng nước nó ở tít cõi tây, có núi sông hiểm trở. Ngày nay, bệ hạ
mới lên ngôi, chính lệnh và giáo hóa chưa thấm khắp đến phương xa, tưởng nên trau sửa văn đức để
cho nó theo về với mình. Nếu nó không theo, bấy giờ sẽ sai tướng đi đánh cũng chưa muộn nào".
Trương Đỗ ba lần dâng sớ lên can, nhưng cuối cùng nhà vua vẫn không nghe. Liền đó nhà vua sai quân
và dân ở Thanh Hoá và Nghệ An tải năm vạn thạch1 lương thực đến tích trữ ở Hoá Châu. Lại rước
Thượng hoàng đi điểm duyệt quân đội ở Bạch Hạc giang. Mọi việc này đều là chuẩn bị để đánh Chiêm
Thành.
Lời chua - Bạch Hạc giang: Xem Trần Thánh Tông, năm Thiệu Long thứ 5 (Chb.
VII, 4-5).
Tháng 12. Nhà vua tự làm tướng, đi đánh Chiêm Thành.
Trước đây, Đỗ Tử Bình vào trấn giữ Hóa Châu; chúa Chiêm là Chế Bồng Nga đưa 10 mâm vàng
để dâng triều đình. Tử Bình ăn chặn, trẩm đi, lại nói dối rằng: Bồng Nga kiêu ngạo, khinh nhờn, vô lễ,
nên đem quân đi đánh. Bấy giờ nhà vua mới quyết tâm thân chinh. Thống lĩnh 12 vạn quân từ kinh đô
xuất phát, nhà vua sai Lê Quý Ly đốc sức dân ở Nghệ An, Tân Bình, Thuận Châu và Hóa Châu vận tải
lương thực để cung cấp cho quân sĩ. Khi đến cửa biển Di Luân, nhà vua sai các quân sĩ vượt biển mà đi,
còn mình thì đem bộ binh tiến theo ven bờ biển. Khi đến cửa biển Nhật Lệ, đóng doanh trại ở đấy hơn
một tháng để luyện tập quân sĩ.
Lời chua - Cửa biển Di Luân: Ở xã Di Luân, huyện Bình Chánh, tỉnh Quảng Bình
bây giờ.
Cửa biển Nhật Lệ: Ở xã Động Hải, huyện Phong Lộc bây giờ. Động Hải là nơi sở
tại tỉnh lỵ Quảng Bình.
Đinh Tị, năm thứ 5 (1377). (Từ tháng 5 trở về sau, là triều Đế Hiện, năm Xương Phù
thứ 1. - Minh, năm Hồng Vũ thứ 10).
Tháng giêng, mùa xuân. Nhà vua kéo quân vào đánh Chà Bàn2, bị thua, mất ở vòng
trận. Bọn đại tướng là Đỗ Lễ và Nguyễn Nạp Hòa, hành khiển là Phạm Huyền Linh đều chết
trận cả. Ngự câu vương Húc đầu hàng Chiêm Thành.
Quan quân đến Thị Nại cảng, tiến lên Cầu Đá (Thạch Kiều), đóng lại ở động Ỷ Mang. Bồng Nga
dựng lũy bằng tre gỗ ở ngoài thành Chà Bàn, sai bầy tôi là Mục Bà Ma ra trá hàng, nói rằng Bồng Nga đã
chạy trốn, chỉ để thành bỏ ngỏ đó thôi, nên mau tiến quân kẻo lại lỡ cơ hội. Nhà vua tin lời, sai gấp tiến
quân. Đại tướng Đỗ Lễ can rằng: "Theo Binh pháp, đánh lấy thành là sự bất đắc dĩ. Kẻ kia đã nói xin
hàng, thì ta nên lấy việc cho nước nó được an toàn là hơn cả. Vậy ta hãy cho một tay thuyết khách cầm
thư đi hỏi tội để dò hư thực, theo như mưu chước Hàn Tín đánh phá nước Yên3 ngày trước, chẳng phải
khó nhọc mà được nên công. Vả, tình ý của kẻ địch khó suy lường được. Vậy tôi xin bệ hạ hãy xét kỹ".
Nhà vua nói rằng: "Ta mặc áo giáp bền, cầm võ khí sắc, gội gió, tắm mưa, trèo non, lội suối, len lỏi đi
sâu vào đất giặc, không ai dám đương đầu với ta. Thế là cái cơ trời giúp ta đó. Huống chi bây giờ vua
nước nó sợ bóng sợ gió, chạy trốn xa, không có tinh thần chiến đấu. Việc binh quý hồ lanh chóng, nếu
để chậm trễ không tiến quân thì là trời cho mà mình không nhận; rồi ra nếu nó tráo trở, dù có ăn năn thì
sự đã rồi! Nhà ngươi thực là kiến thức đàn bà!". Nhà vua liền sai lấy áo đàn bà mặc cho Đỗ Lễ4. Rồi đoàn

1
Đơn vị đong lường xưa.
2
Cũng đọc là "Đồ Bàn".
3
Xem chú giải ở Chb. VII, 34.
4
Có ý chê cười Đỗ Lễ nhút nhát.
299 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

quân cứ nối đuôi nhau như xâu cá mà tiến lên. Giặc nhân cái đà thuận tiện, thình lình đổ ra tập kích, cắt
ra từng tốp: Quan quân tan vỡ nặng nề. Nhà vua bị vây hãm, chết tại trận. Bọn đại tướng Đỗ Lễ và
Nguyễn Nạp Hoà cùng hành khiển Phạm Huyền Linh đều bị chết cả. Ngự câu vương, tên là Húc, đầu
hàng giặc, được giặc gả cho con gái. Đỗ Tử Bình cầm hậu quân, không đến cứu viện. Lê Quý Ly nghe tin
bại trận, vội trốn về. Ngày hôm ấy, ở kinh đô đương ban ngày, trời tối sầm lại; chợ búa, hàng quán phải
đốt đèn đuốc mà mua bán. Thượng hoàng sai đem chiếc xe tù đi bắt Tử Bình. Khi Tử Bình về qua phủ
Thiên Trường, người ta đua nhau chưởi mắng, lấy gạch ngói ném vào xe tù Tử Bình. Thượng hoàng
xuống chiếu trị tội hắn, miễn cho tử hình, nhưng phạm tội đồ, bắt đi làm lính.
Lời phê - Tội hai người này1 đáng giết, không dong tha được; thế mà lại còn
vẫn dùng2! Chính sự nhà Trần không có kỷ cương gì cả, trách nào chẳng bại vong.
Lời chua - Thành Chà Bàn: Tức là đô thành của nước Chiêm. Ở huyện Tuy Viễn,
tỉnh Bình Định bây giờ vẫn còn vết thành cũ.
Thi Nại cảng: Ở địa giới hai thôn Hương Mai và Chánh Thành, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định bây giờ.
Động Ỷ Mang: Bây giờ đổi lại ra sao, không rõ, duy còn Cầu Đá. Ở trên núi về
thôn Phú Hoà có một cái đồn xưa, có lẽ đấy là động Ỷ Mang.
Tháng năm, mùa hạ. Hoàng tử Hiện lên ngôi.
Thượng hoàng thấy nhà vua (Duệ Tông) chết vì việc nước, bèn cho con trưởng nhà vua là Kiến
Đức đại vương Hiện lên nối ngôi, xưng là Giản Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khâm Minh nhân hiếu
hoàng đế (ấy là Đế Hiện).
Tháng 6. Chiêm Thành vào cướp kinh đô.
Hay tin giặc đến, Thượng hoàng sai Cung Chính vương Sư Hiền giữ cửa biển Đại An. Giặc biết ở
đó có phòng bị, bèn từ cửa biển Thần Phù tiến vào, xâm phạm thẳng kinh đô, mặc sức cướp bóc vơ vét.
Chúng ở lại một ngày rồi mới rút lui. Khi ra đến cửa biển Đại An, gặp cơn phong ba, chúng chết đuối
nhiều lắm.
Lời chua - Cửa biển Đại An: Tên cũ là Đại Nha. Xem Lý Hậu Đế năm thứ 1 (Tb.
IV, 13).
Thần Phù: Tên cũ là Thần Đầu. Xem Lê Đại Hành, năm Ứng Thiên thứ 12 (Chb.
I, 40).
Tháng 9, mùa thu. Lập con gái Thượng hoàng là Thiên Huy công chúa làm hoàng hậu.
Sai thị lang tòa Trung Thư là Trần Đình Thâm sang nhà Minh.
Sau khi lên nối ngôi, nhà vua sai Đình Thâm sang cáo phó với nhà Minh, và nói vua Duệ Tông đi
tuần nơi biên giới, bị chết đuối ở biển. Người Minh từ chối không sang viếng, lấy cớ rằng theo Lễ, có ba
điều không nên thăm là: vì phạm tội mà chết ở trong ngục (úy), hoặc vì bị đè chẹt mà chết bẹp (áp),
hoặc vì ngã xuống nước mà chết đuối (nịch). Đình Thâm tranh luận, cãi rằng: "Người Chiêm chống
nghịch, quấy nhiễu nơi biên giới, vua Duệ Tông có công chống ngoại hoạn, cứu nhân dân: vậy sao không
nên viếng?". Nhà Minh mới sai sứ sang điếu tang. Bấy giờ nhà Minh đương muốn nhân kẽ hở, tính
chuyện xâm nhiễu nước ta. Thái sư Lý Thiện Trường nói rằng: "Thấy em chết vì việc nước, anh lại lập
con của em lên ngôi; xem nhân sự [xử tốt với nhau] như thế, thì đủ biết lòng trời [hãy còn tựa nớc người
ta]". Do đấy, việc định xâm nhiễu ấy mới thôi.
Mậu Ngọ Trần Đế Hiện, năm Xương Phù thứ 2 (1378). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 11).

1
Chỉ Đỗ Tử Bình và Lê Quý Ly.
2
Đỗ Tử Bình tuy sau khi Trần Duệ Tông chết trận ở Chiêm Thành, có bị tội đồ, nhưng rồi lại được phục chức, cho nên đến năm
Mậu Ngọ, Xương Phù thứ 2 (1378) đã thấy chép Tử Bình là hành khiển rồi (Chb. X, 43-44). Còn Lê Quý Ly chẳng những không bị
quở phạt gì, mà lại ngày càng lên to mãi.
300 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Tháng giêng, mùa xuân. Tuyển các vệ sĩ cai quản các quân.
Trần Ngoạn quản lĩnh quân Thiên Đinh, Bùi Hấp quản lĩnh quân Thiên Uy, Hoàng Phụng Thế
quản lĩnh quân Thánh Dực, Trần Thế Đăng quản lĩnh quân Thần Dực, Bùi Bá Ngang quản lĩnh quân Thần
Sách, Nguyễn Kim Ngao quản lĩnh quân Thần Vũ, Trần Trung Hiếu quản lĩnh quân Bảo Tiệp, Trần Bang
quản lĩnh quân Long Tiệp. Lê Mật Ôn quản lĩnh quân Hoa Ngạch1, Đỗ Dã Kha quản lĩnh quân Thị Vệ,
Nguyễn Tiểu Luật quản lĩnh quân Thiên Trường. Lại tuyển trong các quân lấy những người khoẻ mạnh,
biết võ nghệ, cho vào làm vệ sĩ [ở hoàng thành].
Dùng Nguyễn Bát Sách quản lĩnh quân Thiết Sang, Nguyễn Vân Nhi quản lĩnh quân Thiết Giáp,
Nguyễn Hô và Lê Lặc quản lĩnh quân Thiết Liêm, Nguyễn Thánh Du quản lĩnh quân Thiết Hổ, Trần Quốc
Hưng quản lĩnh quân Ô Đồ2.
Tháng 5, mùa hạ. Chiêm Thành lại vào cướp kinh đô. Đại Doãn là Lê Giốc (Giác) chết
vì việc nước.
Trước đây, Ngự câu vương Húc đầu hàng Chiêm Thành. Đến đây, người Chiêm đưa Húc về cướp
Nghệ An, tiếm xưng tôn hiệu để chiêu dụ nhân dân. Có nhiều kẻ ra nhận ngụy chức. Liền sau đó quân
giặc xâm phạm đến Đại Hoàng giang. Nhà vua sai hành khiển Đỗ Tử Bình đi chống giữ, nhưng chống
không nổi! Quân giặc bèn xâm phạm kinh đô: cướp của, bắt người, rồi rút về. Kinh Doãn3 Lê Giốc bị giặc
bắt, giặc ép phải thụp lạy, nhưng Lê Giốc nói: "Ta đây là một ông quan ở nước lớn, đâu phải lạy mày!".
Rồi mắng nó mãi. Giặc giận lắm, giết chết. Nhà vua nghe biết việc này, truy tặng Lê Giốc là Mạ tặc Trung
Vũ hầu4, cho con Giốc là Nhuế làm cận thị chi hậu chánh chưởng.
Lời chua - Lê Giốc: Người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Giốc
là con Lê Quát.
Tử Bình: Trước bị tội đồ, đến đây đã làm hành khiển. Sử cũ không chép rõ Tử
Bình được khai phục quan chức từ ngày nào, đợi sẽ khảo sau.
Đại Hoàng giang: Xem Lê Đại Hành, năm Ứng Thiên thứ 11 (Chb. I, 37).
Tháng 7, mùa thu. Có thủy tai lớn.
Bắt đầu đánh thuế đinh.
Theo phép cũ, dân đinh khi đã vào sổ thành số ngạch hẳn hoi rồi, thì sinh thêm không kể, chết
đi không trừ. Hạng binh lính thì đời này qua đời khác phải làm lính mãi, không được ra làm quan. Nhân
đinh nào có ruộng đất, mới phải nộp tiền, không có ruộng đất thì được miễn. Gặp lúc có việc dấy quân
cũng chỉ những người có ruộng bãi dâu, đầm cá thì phải tùy có nhiều hay ít mà nộp tiền, thóc, bạc, lụa
để cung cấp cho việc quân. Đến đây việc quân đương tới tấp, kho tàng trống rỗng, Đỗ Tử Bình kiến nghị
xin làm theo phép đánh thuế "dung" đời Đường: bắt đinh nam mỗi năm phải nộp ba quan tiền. Từ đó,
thuế đinh mới thêm nặng.
Lời chua - Hồi đầu đời Trần, dẫu có thuế đinh, nhưng thực ra chỉ hạng người có
ruộng mới phải đóng. Đến đây, không cứ có ruộng hay không, thảy đều phải chịu thuế
cả, chỉ binh lính được miễn.
Kỷ Mùi, năm thứ 3 (1379). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 12).
Tháng giêng, mùa xuân. Dùng Lê Quý Ly làm Tư không kiêm chức Xu mật đại sứ.
Quý Ly, khi còn nhỏ, học võ nghệ ở Nguyễn Sư Tề. Nhân thế, Quý Ly tiến cử con Sư Tề là
Nguyễn Đa Phương làm tướng quân. Chủ thư thị ngự sử Phạm Cự Luận thường hay vẽ mưu bày kế cho

1
Quân hiệu có xăm trán thành hoa. Xem Chb. X, 36.
2
Một tên khác trong Hán văn để gọi con hổ. Đây có ý ví quân hiệu này khoẻ như hùm.
3
Tức là chức Đại Doãn ở kinh sư, như Nguyễn Trung Ngạn đã làm ở đời Trần Dụ Tông (Chb. IX, 40).
4
Hầu tước Trung Vũ mắng giặc.
301 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Quý Ly, cũng được Quý Ly tiến cử làm quyền đô sự. Bấy giờ người ta thường bảo Quý Ly có "Phương
viên tá lự"1.
Lời chua - Phương viên: Chỉ Đa Phương và Cự Luận.
Quyền đô sự: Chưa rõ là chức gì. Có lẽ còn sót chữ chăng.
Mùa hạ. Hạn hán. Đói to.
Tháng 8, mùa thu. Nguyễn Bổ ở Bắc Giang nổi loạn, bị giết chết.
Nguyễn Bổ tự xưng là Đường Lang tử y, mê hoặc người ta bằng phép thuật, rồi tự tiếm hiệu
xưng vương. Quan quân bắt được giết chết.
Tháng 8. Đem giấu tiền của ở núi Thiên Kiện và ở tầng dưới tháp Khả Lãng. (Khả Lãng
khám).
Sai quân sĩ vậy tải tiền đồng đem giấu ở núi Thiên Kiện và chứa ở tầng dưới cái tháp ở xã Khả
Lãng. Đó vì sợ người Chiêm Thành thường vào cướp bóc.
Lời chua - Núi Thiên Kiện: Xem Trần Dụ Tông, năm Đại Trị thứ 5 (Chb. X, 17).
Khả Lãng: Tên xã, thuộc phủ Lạng Giang; bây giờ đổi lại ra sao, không rõ.
Khám: Chỗ để chứa đựng. Đây nghĩa là tầng dưới trên nền cái tháp nhà chùa.
Canh Thân, năm thứ 4 (1380). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 13).
Tháng 2, mùa xuân. Chiêm Thành lấn cướp Nghệ An, Thanh Hóa. Tháng 5, mùa hạ. Lê
Quý Ly kéo quân đến đánh ở sông Ngu Giang: đánh bại được quân Chiêm.
Người Chiêm dụ dỗ dân ở Tân Bình và Thuận Hoá đến lấn cướp Nghệ An: bắt người đem đi. Rồi
lại lấn cướp Thanh Hóa. Thượng hoàng sai Lê Quý Ly quản lĩnh thủy quân, Đỗ Tử Bình quản lĩnh bộ quân
đi đánh. Khi đến Ngu Giang, đóng cọc trong sông, cầm cự với quân Chiêm. Quý Ly sai Nguyễn Kim Ngao,
tướng Thần Vũ quân, và Đỗ Dã Kha, tướng Thị Vệ quân, ra đánh. Kim Ngao quay thuyền lại để tránh
giặc. Quý Ly liền chém Kim Ngao, cho lấy đầu đem rao trong quân. Các quân đánh trống hò reo, tiến lên
trước. Chúa Chiêm là Chế Bồng Nga thua trận, trốn về.
Tử Bình từ đó cáo ốm, xin thôi, không giữ binh quyền; duy còn Quý Ly chuyên giữ chức nguyên
nhung, làm Hải Tây đô thống chế.
Lời chua - Ngu Giang: Một nhánh sông Mã ở về địa phận huyện Hoằng Hóa,
tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
Đạo Hải Tây: Từ thời Trần trở về trước, chưa có tên này. Đến Lê, năm Thuận
Thiên thứ 1 (1428) mới đặt Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa làm đạo Hải
Tây. E rằng Sử cũ lầm chăng2.
Tháng 11, mùa đông. Dùng Đỗ Tử Bình làm nhập nội Hành khiển, tả tham tri chính sự,
lĩnh chức kinh lược sứ ở Lạng Giang.
Tử Bình là người không học theo chính đạo, chỉ a dua với đời, lại hay bày đặt thuế khóa bắt dân
đóng góp nặng để nịnh hót người trên; cho nên được nhà vua tin dùng. Từ khi Tử bình đi đánh Chiêm
Thành không nên công trạng gì, xin thôi không giữ binh quyền, đến đây lại có mệnh lệnh cho lên chức
này. Chưa bao lâu, Tử Bình mất, được thờ phụ vào văn miếu.

1
Có người phò tá nghĩ giúp mưu kế cả mặt vuông (chỉ tên Phương là vuông) lẫn mặt tròn (chỉ chữ Luận có chữ "luân" ở bên nghĩa
là tròn).
2
Vì, đến năm 1428, tên gọi "Hải Tây Đạo" mới xuất hiện, thế mà đây mới là năm 1380 đã chép "làm Hải Tây đô thống chế". Dẫu
vậy, ta hãy thử đặt lại vấn đề: Hải Tây dưới triều Trần đây cũng có thể là tên chỉ miền đất thời bấy giờ (vì địa điểm ở về ven biển
Đông, nếu kể từ Đông Hải vào thì là phía tây, nên gọi Hải Tây) nhưng không phải là một đạo (đạo Hải Tây) như thời Lê Thái Tổ
đã đặt.
302 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Tân Dậu, năm thứ 5 (1381). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 14). Tháng 3, mùa xuân. Sai
thiền sư Đại Than đem các nhà sư đi đánh Chiêm Thành.
Chiêm Thành thường sang xâm lấn quấy nhiễu, binh lực của nhà Trần bấy giờ đã mõi mệt, kiệt
quệ. Nhà vua bèn sai thiền sư Đại Than lựa lấy những người khoẻ mạnh trong các nhà sư trong nước và
những nhà sư ở rừng núi không có độ điệp1, tạm làm binh lính để đi đánh giặc.
Lời phê2 - Không sợ làm nhục quốc thể!
Lời chua - Đại Than: Tên xã, thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh bây giờ.
Thiền sư: Không rõ tên.
Tháng 5. Dùng Đào Sư Tích làm nhập nội Hành khiển tả ti lang trung, Đào Toàn Bân
làm tri Thẩm hình viện sự3.
Lời chua - Toàn Bân: Cha của Sư Tích.
Tháng 6. Rước thần tượng các lăng về An Sinh.
Rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương, ở Thái Đường, ở Long Hưng, và ở Kiến Xương đưa về
An Sinh, cốt để tránh nạn người Chiêm thường sang xâm lấn quấy nhiễu.
Lời chua - Quắc Hương: Bây giờ đổi là xã Thành Thị thuộc huyện Mỹ Lộc, tỉnh
Nam Định.
Thái Đường: Tên xã, bây giờ thuộc huyện Hưng Nhân, tỉnh Hưng Yên4.
An Sinh: Tên xã. Xem Trần Thái Tông, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (Chb.
VI, 18).
Long Hưng, Kiến Xương: Xem Trần Thái Tông, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 15
(Chb. VI, 28).
Tháng 10, mùa đông. Bà Gia Từ hoàng hậu Lê Thị mất.
Duệ Tông đi Nam chinh, không trở về; hoàng hậu cắt tóc làm sư ni. Thấy Nghệ Tông lập Đế Hiện
lên nối ngôi, hoàng hậu từ chối cho con không được, bèn khóc lóc nói với những người thân tín rằng:
"Con tôi kém phúc đức, không cáng đáng được cái ngôi rất quý trọng ấy đâu, chẳng qua chỉ tổ do đấy
mà chuốc lấy vạ vào mình! Tiên quân5 đã tạ thế, người vị vong6 này chỉ muốn thác đi cho rồi, chứ chẳng
muốn ngó đến việc đời nữa, huống chi lại nỡ nhìn thấy con mình sắp bị nguy hại ư!". Hoàng hậu mất rồi,
Đế Hiện rồi cũng bị phế. Người nào nghe biết chuyện này cũng phục bà là người biết trước.
Lời chua - Gia Từ: Là mẹ Đế Hiện. Đế Hiện lên ngôi tới đây đã là 5 năm thế mà
vẫn còn xưng mẹ vua là hoàng hậu. Lý do vì sao, không thể biết được, đợi sẽ khảo sau.
Giết Quan Phục Hầu đại vương tên là Húc.
Húc là con của Thượng hoàng.
Lời cẩn án - Sử cũ chép nhà vua dụ Quan Phục Hầu đại vương Húc mà giết
chết, và chép liền với sự việc trên (việc Gia Từ mất); nhưng lý do vì sao mà dụ sát thì bỏ
qua không chép. Nay xin chép riêng ra một việc, đợi sẽ khảo sau.

1
Tờ điệp chứng thực đã được độ, tức là cái bằng mà nhà nước cấp cho các tăng ni, sau khi xuất gia, có đủ tiêu chuẩn được cấp.
Theo chế độ đối với nhà chùa xưa, hễ nhà sư nào có độ điệp rồi thì được miễn thuế má và dao dịch.
2
Chỉ việc bắt sư đi đánh giặc.
3
Giữ việc viện Thẩm Hình.
4
Nay thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
5
Chỉ Trần Duệ Tông.
6
Xem chú giải số 1 ở Chb. IX, 30.
303 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Nhâm Tuất, năm thứ 6 (1382). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 15).
Tháng 2, mùa xuân. Chiêm Thành lại vào cướp Thanh Hóa. Quan quân đánh bại được
giặc.
Quý Ly đóng ở núi Long Đại, tướng Thần Khôi quân là Nguyễn Đa Phương đem quân thuyền
(chu sư) đi giữ những hàng cọc cắm cừ ở cửa biển Thần Đâầu, quân Chiêm thủy bộ đều kéo đến: Bộ
binh địch lên chiếm trên núi trước, lấy đá ném xuống, thuyền quân ta bị tổn hại nhiều mà không còn nấp
tránh vào đâu. Thủy quân của địch lại đương tiến đến sát gần. Đa Phương không đợi mệnh lệnh của Quý
Ly, tự ý cho mở hàng cọc cắm cừ, kéo ra thẳng xông vào quân thủy Chiêm Thành. Thủy quân của địch
giở tay không kịp. Các quân của ta nhân đà thắng lợi, đổ xô ra đánh, ném đồ hoả khí vào thuyền giặc,
thiêu đốt gần hết. Còn bộ quân của địch thì chạy tản mát vào rừng núi. Quan quân lùng bắt giặc trong
núi đến ba ngày. Quân giặc nhiều đứa bị chết đói. Những kẻ còn sót lại thì chạy trốn. Quan quân đuổi
đến Nghệ An rồi về. Được tin thắng trận, nhà vua cho Nguyễn Đa Phương làm Kim ngô vệ Đại tướng
quân.
Lời chua - Núi Long Đại: Ở địa phận huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa bây giờ.
Thần Đầu: Tên cửa biển. Xem Lê Đại Hành, năm Ứng Thiên thứ 12 (Chb. I, 40).
Tháng 7, mùa thu. Có nạn thủy tai lớn.
Tháng 10, mùa đông. Đào mấy con sông ở Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa.
Quý Hợi, năm thứ 7 (1383). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 16).
Tháng giêng, mùa xuân. Sai Lê Quý Ly quản lĩnh chu sư đi đánh Chiêm Thành, chưa
đến nơi đã quay về.
Quý Ly quản lĩnh các thuyền chiến lớn mới đóng, gồm những hiệu như Diễm Trị1, Ngọc Đột, Nha
Tiệp, kéo đến vũng biển Lại Bộ Nương và eo biển Ô Tôn, bị sóng gió làm thuyền gãy vỡ hư hỏng, bèn rút
quân về.
Lời chua - Vũng biển Lại Bộ Nương: Tức là cửa biển Nương Loan bây giờ, ở địa
phận huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Eo biển Ô Tôn: Bây giờ là eo Vĩnh Sơn, ở huyện Bình Chánh thuộc tỉnh Quảng
Bình giáp với huyện Kỳ Anh (thuộc tỉnh Hà Tĩnh).
Tháng 6, mùa hạ. Chiêm Thành vào cướp phủ Quảng Oai. Nhà vua sai tướng Hoa
Ngạch quân là Lê Mật Ôn đi chống giữ, nhưng bị thua. Thượng hoàng phải tránh sang Đông
Ngàn.
Chiêm Thành từ đời nhà Lê, nhà Lý trở về trước, quân chúng của họ rất là nhút nhát. Hễ quan
quân ta kéo đến thì họ đem cả nhà đi trốn, có khi xúm lại khóc lóc, xin đầu hàng. Kịp khi Chế Bồng Nga
lên làm vua, phần thì sinh sôi đông đúc, phần thì được dạy dỗ tôi rèn, dần dần sửa bỏ được những thói
dở cũ, quân và dân họ trở thành những người mạnh tợn, chịu đựng gian khổ. Cho nên họ thường sang
quấy nhiễu nước ta. Bấy giờ Bồng Nga cùng với tướng nó là La Ngai đem quân đi tắt đường xuyên sơn,
đổ ra đóng đồn ở sách Khổng Mục thuộc Quảng Oai. Kinh đô xao xuyến kinh hãi. Thượng hoàng sai Mật
Ôn đem quân đi chống giữ. Mật Ôn đến Tam Kỳ châu2, còn đương bày trận để chống cự, bỗng đâu quân
phục của địch nổi dậy, voi trận của địch lồng lên: quan quân ta xô bồ giày đạp lên nhau, thua thiệt nặng
nề. Mật Ôn bị giặc bắt. Thượng hoàng nghe tin, sai Nguyễn Đa Phương đem quân dựng hàng rào lũy
bằng tre gỗ ở kinh thành, ngày đêm canh giữ. Rồi sai sửa soạn xa giá để sang Đông Ngàn lánh giặc.

1
Đại Việt sử ký VIII, 24 chép là Diễm Dã.
2
Toàn thư và Đại Việt sử ký đều in chữ "châu" là bãi (Tam Kỳ châu: bãi Tam Cờ); riêng Cương mục này in chữ "châu" là
châu quận.
304 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển X

Nguyễn Mộng Hoa, là một kẻ sĩ, thấy vậy, mũ áo chỉnh tề, tới bến sông, tay níu thuyền ngự, khấu đầu
xin Thượng hoàng ở lại đánh giặc, nhưng Thượng hoàng không nghe.
Lời chua - Quảng Oai: Xem Lý Huệ Tông, năm Kiến Gia thứ 8 (Chb. V, 38-39).
Đông Ngàn: Tức châu Cổ Pháp xưa. Xem Tiền Lê Đế Long Đĩnh, năm Cảnh Thụy
thứ 2 (Chb. II, 6).
Khổng Mục sách, Tam Kỳ châu: Đều thuộc Quảng Oai. Bây giờ đổi lại ra sao,
không rõ.
Tháng 12, mùa đông. Thượng hoàng sang chơi cung Bảo Hòa.
Quân Chiêm Thành đã rút lui. Thượng hoàng sang chơi cung Bảo Hòa, sai bọn Thiêm tri Nội Mật
viện sự là Nguyễn Mậu Tiên và Lễ Bộ lang trung là Phan Nghĩa thay đổi phiên nhau túc trực, tới bữa, ban
cho ăn, để hỏi han những chuyện cũ, hằng ngày giữ việc ghi chép, biên thành 8 quyển, đặt nhan sách là
Bảo Hòa dư bút, bảo Đào Sư Tích đề tựa.
Lời chua - Cung Bảo Hòa: Ở núi Lạn Kha (nay đổi là Phật Tích), huyện Tiên Du1.
Theo sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng đời Minh, nhà Trần có dựng ra Lạn Kha thư
viện, dùng danh nho Trần Tôn làm viện trưởng, dạy các sinh đồ. Nhà vua thời thường
đến chơi. Vậy cung Bảo Hòa tức là ở đó.

1
Nay thuộc huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh.
305 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục


Chính Biên

Quyển thứ XI
Từ Giáp Tí, Trần Đế Hiện, năm Xương Phù thứ 8 (1384) đến Nhâm Ngọ, Hồ Hán Thương, năm
Thiệu Thành thứ 2 (1402), gồm 19 năm.
”
Giáp Tí, năm [Xương Phù] thứ 8 (1384). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 17).
Tháng 9, mùa thu. Sứ thần nhà Minh sang ta.
Nhà Minh, trước kia đi đánh Vân Nam, sai bọn Dương Bàn và Hứa Nguyên sang trưng cầu lương
thực để cung cấp cho lính trấn giữ ở Lâm An. Nhà vua sai Hành khiển là Trần Nghiêu Du vận tải năm
nghìn thạch lương đưa đến đầu địa phận châu Thủy Vĩ1. Quan quân ta bị chết vì lam sơn chướng khí
trong việc tải lương này rất nhiều.
Lời chua - Thủy Vĩ2: Tên châu. Bây giờ thuộc phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa, giáp
với tỉnh Vân Nam.
Ất Sửu, năm thứ 9 (1385). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 18).
Tháng 3, mùa xuân. Sứ thần nhà Minh sang yêu cầu ta dâng nộp các nhà sư.
Trước đây, ta đưa sang nhà Minh những hoạn quan là bọn Nguyễn [Tông] Đạo và Nguyễn Toán.
Nhà Minh dùng họ làm chức nội quan, đối xử rất hậu. Nguyễn [Tông] Đạo nhân nói với vua Minh rằng:
Phép thuật sư Nam giỏi hơn sư Bắc (Trung Quốc). Đến đây, Minh sai sứ sang yêu cầu. Nhà vua sai tuyển
lấy 20 vị sư, đưa sang Kim Lăng.
Tháng 7, mùa thu. Tư đồ Chương Túc hầu là Nguyên Đán xin trí sĩ, được nhà vua y
cho.
Nguyên Đán là bậc đại thần, người họ tôn thất, thấy quyền chính trong nước ngày một rơi vào
tay kẻ quyền thần, nên không để ý đến việc kinh bang tế thế nữa, bèn xin cáo lão, về núi Côn Sơn, để
vui cùng khóm trúc và đá núi; đặt tên hiệu là Băng Hồ. Thượng hoàng đã từng đến chơi nhà, hỏi han
việc mai sau. Nguyên Đán đều không nói, chỉ dặn: "Xin Bệ hạ kính trong nước Minh như cha, yêu thương
Chiêm Thành như con, thì nước nhà sẽ được vô sự. Tôi dù có chết cũng được bất hủ". Nguyên Đán biết
Quý Ly thế nào rồi cũng cướp ngôi, nên tìm cách để tránh khỏi vạ, đem con là Mộng Dữ gửi gắm Quý Ly,
và xin kết làm thông gia. Quý Ly đem con gái của Nhân Vinh3, người họ tôn thất nhà Trần, gả cho Mộng
Dữ; rồi cất làm đông cung phán thủ. Em Mộng Dữ là Thúc Dao và Thúc Quỳnh cũng đều được làm tướng
quân. Về sau, Quý Ly cướp ngôi, giết hại gần hết các tôn thất nhà Trần, chỉ riêng con cháu Nguyên Đán
là được toàn hoạt. Nguyên Đán có Băng Hồ thi tập, có nhiều bài mượn sự vật để tỏ ý cảm khái thời thế.
Nhưng đó cũng chỉ là nói suông, lo hão, mà đối với nước của dòng dõi nhà mình còn hay mất, cứ bỏ
mặc, không nói qua. Thế thực là người bất trung lắm đấy.
Lời phê - Nghiêm thay, ngòi bút sử! Trội hơn Sử cũ nhiều lắm.

1
Nay, Thủy Vĩ thuộc tỉnh Lào Cai.
2
Nay, Thủy Vĩ thuộc tỉnh Lào Cai.
3
Nhân Vinh, vợ là Huy Ninh công chúa, sau khi Nhân Vinh mất, Nghệ Tông đem Huy Ninh gả cho Quý Ly. Người con gái này gọi
Quý Ly bằng bố dượng.
306 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Lời chua - Côn Sơn: Ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương bây giờ,
trên có động Thanh Hư, dưới có núi cầu Thấu Ngọc.
Bính Dần, năm thứ 10 (1386). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 19).
Tháng 2, mùa xuân. Sứ giả nhà Minh lại sang.
Nguyễn [Tông] Đạo1 lại nói nước ta có nhiều thứ cây quý. Nhà Minh sai Lâm Bột sang yêu cầu.
Nhà vua bèn sai viên ngoại lang là Phạm Đình đưa sang các cây: cau, vải, nhãn và mít2, nhưng các thứ
cây ấy không quen chịu lạnh, dọc đường, đều chết héo cả. Nhà Minh lại sai Lý Anh sang hỏi nhờ đường
nước ta để đi đánh Chiêm Thành và đòi lấy 50 thớt voi nữa. Ta bèn sắp xếp từ Nghệ An đổ ra, cứ theo
dọc đường, dựng các cung trạm, chứa sẵn lương thảo, luân chuyển đưa đến Vân Nam.
Lời phê - Minh Thái Tổ, còn làm như vậy3, huống chi người khác?
Dùng Hồ Tôn [Tông] Thốc4 làm quan Hàn lâm viện Học sĩ phụng chỉ.
Thốc, tuổi trẻ đỗ sớm, nổi tiếng về văn học. Khi làm An phủ sứ, Thốc ăn lễ của dân. Sự phát
giác, Nghệ Tông lấy làm lạ, có đòi hỏi, Thốc lạy tạ mà rằng: "Một người được ơn vua thì cả nhà hưởng
lộc nước"5. Nghệ Tông tha tội cho. Đến đây, được trao cho chức này, lại kiêm cả chức Thẩm hình viện
sứ. Thốc có làm Thảo nhàn hiệu tần6 thi7, ngụ ý cảm khái về việc Quý Ly chuyên chính. Tuổi ngoài 80,
Thốc mất.
Lời chua - Hồ Tôn [Tông] Thốc: Người huyện Đông Thành, thuộc Diễn Châu.
Đinh Mão, năm thứ 11 (1387). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 20).
Tháng 2, mùa xuân. Thượng hoàng từ cung Bảo Hòa trở về triều đường.
Tháng 3. Dùng Lê Quý Ly làm Đồng bình chương sự8.
Thượng hoàng ban cho Quý Ly lá cờ và thanh kiếm có đề những chữ: "Văn vũ toàn tài, quân
thần đồng đức"9. Quý Ly làm thơ bằng quốc âm để tạ ơn Thượng hoàng.
Nhâm Thìn, năm thứ 12 (1388). (Từ tháng 11 trở về sau, là triều Trần Thuận Tông,
năm Quang Thái thứ 1. - Minh, năm Hồng Vũ thứ 21).
Tháng 5, mùa hạ. Dùng Trần Đỗ làm chức cung lệnh10.
Trần Đỗ là con Thượng vì hầu Tung, mẹ Đỗ cải giá lấy Quý Ly, nên có mệnh lệnh dùng Đỗ làm
chức này. Về sau, Đỗ đổi theo họ Hồ.
Tháng 6. Dùng Lê Quý Tì làm chức Phán thủ, Tri tả Hữu ban sự1.

1
Một hoạn quan do ta tiến sang nhà Minh.
2
Nguyên văn là "ba la mật". Đây theo Nhật dụng thường đàm (tờ 30), Hoàng Việt địa dư chí (quyển I, tờ 3a), Từ
nguyên và Từ Hải mà dịch là mít. Còn Mô phạm pháp hoa từ điển, trang 27, thì cho là "dứa".
3
Chỉ việc Minh Thái Tổ cho sứ sang ta đòi các thứ cây như trên đã chép.
4
Theo Toàn thư VIII, 9, chính tên là Hồ Tông Thốc; còn Cương mục vì kiêng húy triều Nguyễn, nên đổi là Hồ Tôn Thốc.
5
Giống ý câu tục ngữ: "Một người làm quan, cả họ được nhờ".
6
Thảo nhàn: Tự tìm lấy cảnh nhàn rỗi. Hiệu tần: theo sách Trang Tử, Tây Thi đau bụng, nhăn nhó; một chị người làng, mặt mũi
xấu xí, thấy Tây Thi nhăn nhó, cho là đẹp, về cũng ôm bụng bắt chước nhăn nhó. Do điển này, người ta dùng danh từ "hiệu tần"
để chỉ sự "học đòi một cách vụng về".
7
Sử ký VIII, 27 chép là ... thi tập.
8
Tức Tể tướng.
9
Văn võ gồm tài, vua tôi một dạ.
10
Đứng đầu một cung. Là một chức hầu cận vua.
307 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Quý Tì là em Quý Ly.


Bố Đề: Nghĩa là tể tướng.
Tháng 8, mùa thu. Sao chổi xuất hiện ở phương tây.
Tháng 12, mùa đông. Trung tuyên Quốc thượng hầu là Quý Ly gièm pha với Thượng
hoàng truất ngôi nhà vua, giáng làm Linh đức đại vương rồi giết chết ở chùa Tư Phúc. Lại giết
cả bọn Ngự sử đại phu là Lê Á Phu, các Tướng quân là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi,
Nguyễn Ha, Nguyễn Bát Sách, Lê Lặc và học sinh là Lưu Thường.
Trước đây, thấy có điềm sao chổi, nhà vua bàn với bọn Thái úy Ngạc và Lê Á Phu rằng: "Thượng
hoàng yêu nuông họ ngoại, Quý Ly càn rỡ, việc gì cũng làm theo ý muốn của hắn, nếu chúng ta không lo
tính trước, sau này khó mà khống chế được". Vương Nhữ Mai hầu vua đọc sách, làm tiết lộ mưu ấy. Quý
Ly biết chuyện. Nguyễn Đa Phương khuyên Quý Ly nên lánh ra núi Đại Lại, để nghe ngóng tình thế biến
chuyển ra sao, Phạm Cự Luận nói: "Không nên. Một khi bước chân ra ngoài, thì khó mà toan tính vẹn
toàn được". Quý Ly nói: "Nếu không có mưu kế gì, thì tôi phải tự tử, chứ không để lọt vào tay người
khác". Cự Luận nói: "Mới rồi nhà vua dụ giết Quan phục hầu Đại vương Húc2, việc ấy Thượng hoàng vẫn
còn căm giận lắm. Hiện nay chỉ có một mình đại nhân3 vào yết kiến Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại:
Thượng hoàng trước kia bỏ con mà lập cháu4, thì nên đem câu ngạn ngữ này làm rung động lòng
Thượng hoàng: "Chỉ thấy người ta bán cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai lại bán con nuôi cháu!". Nói như
thế, chắn chắc Thượng hoàng nghe theo. Lúc bấy giờ đổi lập Chiêu Định5 lên làm vua thì xoay họa ra
phúc dễ dàng như trở bàn tay". Quý Ly nghe theo kế ấy, liền theo lời Cự Luận đã nói, vào tâu kín với
Thượng hoàng. Thượng hoàng rất lấy làm phải lẽ.
Đến đây, Thượng hoàng giả vờ đi chơi đất An Sinh6, cho bầy tôi trong nội điện triệu nhà vua. Khi
nhà vua đã đến, Thượng hoàng nói: "Đại vương7 đã đến", liền sai người dẫn ra nhà giam ở chùa Tư
Phúc. Rồi ban tờ nội chiếu nói: "Trước đây Duệ Tông vào đánh trong Nam, không trở về8, cho nên dùng
người cháu trưởng nối ngôi vua là theo đạo đời cổ. Nhưng từ ngày quan gia9 lên ngôi đến nay, chưa bỏ
hết tính nết trẻ con, chưa giữ được đức độ vững chắc, thân cận với bọn tiểu nhân như bọn Lê Á Phu, Lê
Dũ Nghị, lập tâm hãm hại người bầy tôi có công10, làm dao động cả xã tắc11. Vậy cho giáng làm Linh Đức
đại vương".
"Lại xét: nhà nước không thể không có người chủ trương, ngôi vua không thể để trống mãi được,
chuẩn y cho rước Chiêu Định vương là Ngung vào triều, nối giữ đại thống. Vậy ban bố chiếu thư cho
trong kinh thành, ngoài các lộ ai nấy đều biết".
Lúc ấy, viên tướng đội quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái và Nguyễn Vân Nhi, viên tướng đội quân
Thiết Giáp là Nguyễn Ha và Lê Lặc, viên tướng đội quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách toan đem quân

1
Cũng là một chức hầu cận, ở gần nhà vua.
2
Xem thêm Chính biên, quyển X, tờ 49.
3
Một danh từ người dưới xưng hô một viên quan nào đó. Chữ "đại nhân" ở đây chỉ Hồ Quý Ly.
4
Đế Hiện, con trưởng Trần Duệ Tông, cháu Trần Nghệ Tông, xem thêm Chính biên, quyển X, tờ 41.
5
Con út Trần Nghệ Tông, tên là Ngung, được phong làm Chiêu Định vương.
6
Tên một xã thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
7
Theo tục lệ nhà Trần, đáng lẽ Trần Nghệ Tông phải gọi Đế Hiện là "quan gia" mới đúng, đây gọi thẳng bằng "đại vương" là có ý
gay gắt, không nhận cho được nối ngôi vua nữa.
8
Chỉ việc Trần Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành bị chết tại trận. Xem Chính biên quyển X, tờ 40.
9
Chỉ Đế Hiện.
10
Chỉ Hồ Quý Ly.
11
Tức là nhà nước.
308 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

phá nhà tù để cướp lấy nhà vua ra ngoài. Nhà vua viết hai chữ "giải giáp"1 đưa cho các tướng ấy và dặn
rằng: "Không được trái ý vua cha". Các tướng bấy giờ mới thôi. Một lúc sau, Thượng hoàng sai người phù
nhà vua xuống phủ Thái Dương, thắt cổ cho chết. Bọn Lê Á Phu, Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi và Lưu
Thường đều bị giết, còn Lê Dữ Nghị bị đày đi trại đầu (?).
Lời chua - Dữ Nghị: Anh họ của Á Phu.
Núi Đại Lại: Nay ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, sau Quý Ly đổi là Kim Âu.
Phong cho Thái úy Trang Định vương là Ngạc làm đại vương.
Ngạc là con Thượng hoàng. Sau khi Đế Hiện đã bị truất ngôi, Quý Ly nói phao lên rằng sẽ lập
Ngạc lên nối ngôi vua. Ngạc từ chối không nhận, nhân đấy Quý Ly nói với Thượng hàng rằng: "Quan Thái
uý biết chối từ không nhận ngôi vua, là người có đức độ lớn". Thượng hoàng lấy làm phải. Vì thế, nên
mới có mệnh lệnh phong tước này.
Lập Chiêu Định vương Ngung lên làm vua.
Chiêu Định vương là con út Thượng hoàng. Khi đã lên ngôi vua, xưng là Nguyên Hoàng (tức là
Thuận Tông).
Kỷ Tị (1389), Thuận Tông hoàng đế, năm Quang Thái thứ 2 (Minh, năm Hồng Vũ thứ
22).
Tháng giêng, mùa xuân. Lập con gái Quý Ly làm Hoàng hậu.
Hoàng hậu, con gái lớn Quý Ly, sau khi đã sách lập, đặt tên chỗ ở là điện Hoàng Nguyên.
Tháng 4, mùa hạ. Bổ dụng Phạm Cự Luận làm Thiêm Thư Xu mật viện sự2.
Quý Ly hỏi Cự Luận: "Liêu thuộc trong viện Xu Mật, những người nào có thể dùng được?". Cự
Luận tiến cử người em hắn là Phạm Phiếm và bọn Đỗ Tử Mãn, Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử
Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân, đều có danh vọng, đức độ có thể dùng được,
nhưng có Đỗ Tử Mãn là hơn cả. Quý Ly bèn dùng Khả Tuân quản lĩnh đội quân Thần Dực, Chương
Dương quản lĩnh đội quân Thần Dũng. Quý Ly bổ dụng như thế, là cốt để cho thêm vây cánh của mình.
Tháng 8, mùa thu. Giặc cướp ở Thanh Hóa nổi lên.
Nguyễn Thanh, người Thanh Hóa, tự xưng là Linh Đức vương, trốn tránh tai nạn, tụ họp nhiều
người ở sông Lương, dân chúng đều hưởng ứng. Lúc ấy lại có Nguyễn Kỵ, người Nông Cống, tự xưng là
Lỗ Vương, tụ họp binh lính đi cướp bóc.
Lời chua - Thanh Hóa: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính
biên XXI, 16).
Sông Lương: Phát nguồn từ huyện Lang Chánh, hạ lưu hợp với sông Mã.
Nông Cống: Huyện Tư Nông xưa. Khi thuộc Minh đổi tên này; từ đời Lê đến nay
vẫn theo tên ấy, thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Tháng 10, mùa đông. Chiêm Thành vào cướp Thanh Hóa. Sai Quý Ly đem quân đi
chống cự. Bị thua, Quý Ly trốn về.
Quân Chiêm Thành xâm phạm vào làng Cổ Vô. Quan quân đóng cọc gỗ ở sông, đem thuyền vây
xung quanh. Hai bên cầm cự nhau hơn hai mươi ngày. Quân giặc đắp đập chắn nước ở thượng lưu sông
Lương, để mai phục quân và voi, rồi giả vờ dọn dẹp doanh trại để kéo quân về. Quý Ly chọn quân tinh
nhuệ dũng cảm đuổi theo, đại quân mở cọc gỗ đã đóng, rồi quân thủy quân bộ nhất tề xông ra. Bên giặc
bèn phá bờ đập, lùa voi xông ra trận. Quân tinh nhuệ dũng cảm của Quý Ly không thể quay lại ứng cứu

1
Giải tán giáp binh.
2
Một chức quan ở viện Xu mật, được tham gia bàn bạc những việc cơ mật của triều đình.
309 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

được, thuyền chở quân chiến đấu ở dưới sông thì bị nước chảy xiết dồn vào một chỗ, bao nhiêu quân bộ
bị giết hết, nên bị thua to. Viên tướng quản lĩnh đội quân Thánh Dực là Nguyễn Chí bị giặc bắt, ngoài ra
bảy mươi viên tướng cầm quân đều bị chết. Quý Ly bỏ trốn về, để tì tướng là Phạm Khả Vĩnh và viên
tướng quyền quản lĩnh đội quân Thánh Dực là Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc ở Ngu Giang.
Đêm hôm ấy, Đa Phương bàn với Khả Vĩnh rằng: "Thế giặc mạnh như thế, mà quân chúng ta ít ỏi, khó
có thể cầm cự lâu dài được, nếu bây giờ muốn kéo quân về, tất nhiên giặc thừa cơ đuổi theo". Họ bèn hạ
lệnh cho các quân lính phong ra rất nhiều cờ, buộc thuyền lớn vào cột gỗ ở sông, canh phòng nghiêm
mật, đến đêm dùng thuyền nhỏ trốn về. Giặc thừa thế, tung quân ra cướp bóc. Khi Quý Ly trốn về đến
khuyết đình, xin cho xuất phát thuyền chiến để thêm sức mạnh. Thượng hoàng không chuẩn y. Nhân đấy
Quý Ly xin thôi không giữ binh quyền, không đem quân ra đánh Chiêm Thành nữa.
Lời phê - Việc làm của Quý Ly trước sau đều như thế1, thế mà Nghệ Tông tin
dùng, có lẽ cũng như câu ngạn ngữ nói "hoạ lai thần ám" chăng?
Lời chua - Nguyễn Chí: Có một thuyết nói là Trần Đình Quý.
Cổ Võ: Tên làng.
Ngu Giang: Tức Lương Giang. Xem Đế Hiện, năm Xương Phù thứ 4 (Chính biên
X, 47).
Chiêm Thành: Tức Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục Đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tiền
biên 20-21)
Tháng 11. Quân Chiêm Thành xâm phạm đến Hoàng Giang. Nhà vua sai đô tướng2 là
Trần Khát Chân đem quân ra chống cự.
Được phụng mạng đem quân đánh giặc, Khát Chân khảng khái, khóc lạy Thượng hoàng để từ
biệt. Thượng hoàng cũng khóc, mắt vẫn nhìn theo để tiễn đưa Khát Chân. Khi kéo quân đến Hoàng
giang, gặp quân giặc, Khát Chân xem xét địa thế, thấy không có chỗ bố trận, liền lui quân đóng giữ ở
sông Hải Triều. Lúc ấy tôn thất Nguyên Diệu, là em Đế Hiện, muốn báo thù, bèn đem quân đầu hàng
Chiêm Thành.
Lời chua - Hoàng Giang: Xem Trần Thái Tông, năm Nguyên Phong thứ 7 (Chính
biên VI, 44).
Sông Hải Triều: Nay là khúc sông giáp với hai huyện Tiên Lữ và Hưng Nhân
thuộc tỉnh Hưng Yên3.
Trần Khát Chân: Người ở Vĩnh Ninh thuộc Thanh Hóa. Khác Chân là dòng dõi
Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng.
Quý Ly gièm pha giết Nguyễn Đa Phương là người bè đảng với hắn.
Lời phê - "Chỉ có người quân tử mới có bằng đảng"4, câu nói ấy thật đúng.
Từ khi ở Ngu Giang trốn về, Đa Phương tự cho mình là có công giữ được quân trọn vẹn, thường
chê bai Quý Ly là bất tài.
Vì thế, Quý Ly gièm pha với Thượng hoàng rằng việc đánh Chiêm Thành thất bại là do ở Đa
Phương, bèn thu lấy binh quyền do Đa Phương giữ. Đa Phương vẫn có nét mặt kiêu ngạo. Thượng hoàng
nói: "Cần phải bắt chịu tội nhẹ để răn bảo hắn". Quý Ly nói: "Đa Phương là người mạnh khoẻ, tôi sợ hắn
sẽ chạy sang phương Bắc với nhà Minh hay là chạy vào phương Nam với Chiêm Thành, thả cọp ra sẽ để
họa về sau, chi bằng giết đi là xong". Bèn hạ lệnh bắt Đa Phương phải tự tử. Đa Phương phàn nàn rằng:

1
Chỉ việc Quý Ly trước bị thua bỏ trốn về, sau xin giải tán binh quyền, không đem quân ra đánh nữa.
2
Một chức quan chỉ huy quân đội thời cuối Trần.
3
Nay huyện Tiên Lữ vẫn thuộc tỉnh Hưng Yên, huyện Hưng Nhân thuộc tỉnh Thái Bình.
4
Câu này trích trong bài "Bằng đảng luận" của Âu Dương Tu: "Tiên nhân vô bằng, duy quân tử tắc hữu bằng".
310 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

"Tôi vì có tài mà được sang, cũng vì có tài mà phải chết, chỉ ân hận là không được chết ở nơi chiến trận
mà thôi".
Tháng 12. Người thày chùa có yêu thuật là Phạm Sư Ôn nổi lên làm loạn. Nhà vua sai
viên tướng quản lĩnh đội quân Tả Thánh Dực là Hoàng Phụng Thế đi đánh, dẹp tan được.
Sư Ôn hô hào dân chúng tụ họp ở lộ Quốc Oai, lạm xưng danh hiệu lớn. Dùng Nguyễn Mại,
Nguyễn Khả Hành giữ chức Hành khiển, chiêu tập những kẻ vô lại1 đặt làm các hiệu quân Thần Kỳ, Dũng
Đấu và Vô Hạn. Sư Ôn đem quân xâm phạm thẳng vào kinh sư, nhà vua và Thượng hoàng phải lánh
sang Bắc Giang. Sư Ôn ở kinh thành ba ngày, rồi kéo ra đóng ở Nộn Châu. Nhà vua sai Hoàng Phụng Thế
đem quân đi đánh. Lúc ấy, Phụng thế đương cùng La Ngai, tướng Chiêm Thành, cầm cự nhau ở Hoàng
Giang. Khi đã nhận được lệnh, Phụng Thế từ Miệt Giang tiến quân. Bấy giờ gặp mùa đông, nước sông
cạn, Phùng Thế vội mở đường thủy, thuyền chiến tiến xông vào. Quân giặc bị đánh bất thình lình, liền bị
vỡ. Quân nhà Trần bắt được Sư Ôn cùng lũ Nguyễn Mại và Khả Hành đem giết đi.
Lời chua - Quốc Oai: Xem Trần Dụ Tông, năm Đại Trị thứ 5 (Chính biên X, 16).
Bắc Giang: Tức Kinh Bắc. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính
biên XXI, 18-19).
Miệt Giang: Từ phân lưu sông Hát, qua các huyện Chương Đức, Hoài An, thông
với Hoàng Giang.
Nộn Châu: Thuộc lộ Quốc Oai, nay thay đổi không rõ ở chỗ nào.
Phụng Thế: Người Cổ Đằng, thuộc Thanh Hóa.
Canh Ngọ, năm thứ 3 (1390). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 23).
Tháng giêng, mùa xuân. Đô tướng Trần Khát Chân đánh cho quân Chiêm Thành bị
thua to ở Hải Triều, giết được chúa nước ấy là Chế Bồng Nga.
Bồng Nga cùng với hàng tướng Nguyên Diệu, quản lĩnh hơn trăm thuyền chiến, đến xem xét tình
hình quan quân. Lúc các thuyền chưa kịp họp tập thì một tiểu thần của Bồng Nga là Ba Lậu Kê bị Bồng
Nga quở trách, hắn sợ phải tội, mới chạy sang bên quan quân, chỉ chiếc thuyền sơn màu lục bảo với
quan quân rằng: "Đấy là thuyền chúa Chiêm Thành". Khát Chân lền sai hỏa pháo2 cùng bắn một loạt,
đạn bay trúng giữa thân Bồng Nga suốt vào ván thuyền, Bồng Nga bị chết ngay. Quân giặc sợ hãi tan vỡ.
Nguyên Diệu nhân lúc ấy cắt lấy thủ cấp Bồng Nga, chạy về với quan quân. Viên đại đội phó trong đội
quân Long Tiệp là Phạm Nhữ Lặc và người đầu ngũ là Dương Ngang giết Nguyên Diệu, cướp lấy thủ cấp
Bồng Nga đem dâng nộp. Khát Chân sai bỏ vào hòm, cho phi ngựa đem đến hành tại3 ở Bình Than, tâu
việc đánh được giặc. Lúc ấy giọt nước đồng hồ đã xuống đến trống canh ba, Thượng hoàng giật mình
thức dậy, tưởng là giặc kéo đến, khi nghe biết tin thắng trận, mới cả mừng, liền triệu trăm quan đến xem
cho kỹ, trăm quan đều chúc mừng. Thượng hoàng nói: "Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay
mới được thấy mặt nhau, không khác gì Hán Cao Tổ trông thấy đầu Hạng Vũ. Từ nay trong nước sẽ bình
định".
La Ngai, tướng Chiêm Thành, thu thập tàn quân, hỏa táng hài cốt Bồng Nga, ngày đêm đi lần
chân núi, bắc ngang cây làm giàn để nấu cơm, vừa đi vừa ăn, chỗ nào gặp quan quân đuổi đánh thì
dừng voi lại, tung của ra, để làm kế ngăn cản, nên đem quân về nước được trọn vẹn.

1
Vô lại: có nhiều nghĩa, nhưng có hai nghĩa này thông dụng: Người không có nghề nghiệp, không làm gì lợi cho gia đình; người
hung hãn giết người.
2
Một chiến cụ thời cổ, có máy để bắn đạn bằng đá. Người chế ra súng này là Phạm Lãi, người thời Xuân Thu, qua đời Hán đến đời
Tống đều dùng chiến cụ này, đến đời nhà Nguyên mới chế bằng sắt, nặng 5, 6 trăm cân, dài 5, 6 thước, trang bị bằng thuốc có
chất nảy lửa và đạn bằng đá, để bắn quân địch.
3
Nơi vua đặt ngự doanh ở ngoài kinh thành, gọi là hành tại.
311 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Lúc ấy, dân ở Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa, nhiều người làm phản, đi theo Chiêm Thành,
duy thổ hào Phạn Mãnh và Phạm Thế Căng đem dân chúng thuận theo về triều đình. Thượng hoàng
khen ngợi, lại thấy Mãnh là người có tài lược, cho thăng ngay lên chức Minh uy tướng quân, quản lĩnh
quân Tân Bình và Thuận Hóa để chống cự với giặc Chiêm Thành.
Lời phê1 - Cũng may đấy thôi, không có gì là tài giỏi.
Lời chua - Nghệ An: Đất Hoan Châu xưa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang
Thuận thứ 10 (Chính biên XXI, 21-24).
Tân Bình: Tức Địa Lý. Xem Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chính biên III,
29).
Thuận Hóa: Xem Lê Đại Hành, năm Hưng Thống thứ 4 (Chính biên I, 28).
Tháng 2. Nhà vua đi tuần du đến Long Hưng, Kiến Xương và An Sinh, bái yết các lăng
tẩm.
Bọn Trần Nguyên Đĩnh và Trần Tôn phạm tội, phải chịu tội chết.
Trước đây, Chiêm Thành vào lấn cướp, tư đồ Nguyên Đĩnh và thiếu bảo Trần Tôn ngấm ngầm
giao thông với Chiêm Thành, đến lúc quân Chiêm Thành rút lui, nhà vua hạ chiếu bắt để trị tội, bọn
Nguyên Đĩnh và Trần Tôn nhảy xuống nước chết, bè đảng của chúng là Trần Khang chạy sang Lão Qua.
Lời chua - Nguyên Đĩnh: Con Cung Tĩnh vương Nguyên Trác.
Lão Qua: Tên dân tộc Mán, tục gọi là Qua Gia. Đất này phía đông nam giáp với
địa giới nước ta; phía tây giáp địa giới nước Bát bá tức phụ; phía bắc giáp địa giới Xa Lý.
Nhà Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 3 (1405) mới đặt Tuyên Úy ty. Nay là nước Nam Chưởng.
Hạ chiếu định công trạng những người đánh được Chiêm Thành, ban tước có từng cấp
bậc khác nhau.
Trần Khát Chân làm Long tiệp phụng thần nội vệ thượng tướng quân, phong tước Vũ Tiết quan
nội hầu; Phạm Khả Vĩnh làm Xa kỵ thượng tướng quân, phong tước quan phục hầu; Phạm Lặc và Dương
Ngang được ban tước năm tư, lại gia phong cho Lặc quản lĩnh Cấm vệ đô, ban cho Ngang 30 mẫu ruộng;
còn những người khác đều được ban tước cao thấp khác nhau.
Tháng 4, mùa hạ. Gia tôn huy hiệu cho tiên đế và tiên hậu.
Tháng 6. Gió dữ, mưa to, nước lớn.
Bổ dụng Chương Tĩnh vương Nguyên Hi làm Nhập nội kiểm hiệu hữu tướng quốc bình
chương sự2.
Nguyên Hi là em Nguyên Diệu. Nguyên Diệu đã chết3, Nguyên Hi trong bụng không được yên, vì
thế mới có lệnh bổ dụng này để cho yên tâm.
Chế Ma Nô Đã Nan, người Chiêm Thành, cùng em hắn là Chế Sơn Na chạy sang nước
ta.
Tướng Chiêm Thành là La Ngai dẫn quân về, bèn chiếm giữ lấy nước, tự lập làm chúa. Hai con
của Bồng Nga sợ bị giết, nên chạy sang nước ta. Nhà vua phong cho Ma Nô Đã Nan làm hiệu chính hầu,
Sơn Na làm á hầu.
Tháng 10, mùa đông. Khơi sâu sông Thiên Đức.

1
Chỉ việc may được Ba Lậu Kê chỉ bảo, nên mới giết được chúa Chiêm Thành.
2
Chức tương đương với Tể tướng.
3
Diệu bị bọn Phạm Nhữ Lặc và Dương Ngang giết năm Canh Ngọ, 1390 (Chính biên XI, 11-12).
312 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Lời chua - Sông Thiên Đức: Xem Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 1 (Chính
biên II, 11).
Tân Mùi, năm thứ 4 (1391). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 24).
Tháng 2, mùa xuân. Quý Ly đi tuần đến Hóa Châu, bị Chiêm Thành đánh, phải thua,
bèn trở về.
Quý Ly nhận thấy đất Hóa Châu tiếp giáp với Chiêm Thành, nên đem quân đi tuần đất ấy, xét
định hàng ngũ quân lính, sửa sang xây dựng thành hào, rồi sai viên tướng quản lĩnh đội quân Thánh Dực
là Hoàng Phụng Thế đem quân đi tuần tiễu đến địa giới Chiêm Thành. Người Chiêm Thành đặt quân mai
phục để chờ đợi: quân Phụng Thế tự tan vỡ. Phụng Thế bị giặc bắt, sau tìm kế thoát ra được; khi đem
quân về, lại được giữ chức như cũ. Còn 30 người đại đội phó trong bộ thuộc Phụng Thế thì bị Quý Ly
đem chém hết.
Tháng 5, mùa hạ. Quý Ly giết Thái uý là Trang Định đại vương Ngạc.
Trước đây, Đế Hiện bị truất, Thượng hoàng muốn lập Ngạc nối ngôi, Quý Ly dùng kế làm cho
Thượng hoàng mê hoặc1, do đấy Ngạc và Quý Ly sinh ra hiềm khích, nhiều lần Ngạc bị Quý Ly gièm pha,
sinh lòng nghi ngờ lo sợ, bèn trốn ra Vạn Ninh. Thượng hoàng sai viên tướng quản lĩnh đội quân Ninh Vệ
là Nguyễn Nhân Liệt đuổi theo bảo trở về. Quý Ly ngầm sai Nhân Liệt đánh chết Ngạc. Khi trở về kinh đô,
Nhân Liệt nói dối là vì Ngạc đối với người Vạn Ninh một cách bạo ngược, nên bị họ giết. Thượng hoàng
giận, truất Ngạc làm Mẫn vương, sau tỉnh ngộ ăn năn, mới hỏi người nào đuổi bắt Mẫn vương. Nhân Liệt
sợ, thắt cổ tự tử.
Lời chua - Vạn Ninh: Từ đời Trần trở về trước là tên châu; lúc thuộc Minh đổi
làm huyện; nhà Lê lại đặt làm châu; nay là phủ Hải Ninh thuộc tỉnh Quảng Yên.
Tháng 8, mùa thu. Quý Ly giết hai tướng quản lĩnh quân Hóa Châu là Phan Mãnh và
Chu Bỉnh Khuê; dùng Đặng Tất làm châu phán, Hoàng Hối Khanh làm Chánh hình viện đại
phu.
Uy quyền Quý Ly ngày một to lớn, các tướng ở Hoá Châu cùng nhau bàn luận. Phan Mãnh nói:
"Trời không bao giờ có hai mặt trời, dân không bao giờ có hai vua". Chu Bỉnh Khuê nói: "Dương Liễu lắm
điều, mọi người đều khoá miệng"2. Tất và Hối Khanh ngầm viết thư mách Quý Ly. Quý Ly cho là Mãnh và
Bỉnh Khuê ngấm ngầm làm điều trái phép, bèn giết hai người ấy, mà bổ dụng bọn Đặng Tất giữ chức
quan này. Viên ngự sử Đỗ Tử Trừng không nói gì đến việc này, Quý Ly đưa bài thơ để quở trách.
Lời phê3 - Con đường xuất thân của Đặng Tất như thế, so với việc làm sau này,
có phải là một người mà hai nhân cách khác nhau hay không?4
Lời chua - Phan Mãnh, Bỉnh Khuê: Người Hóa Châu.
Đặng Tất: Người ở Thiên Lộc, thuộc Nghệ An, có thuyết nói Đặng Tất là người
Hóa Châu.
Hoàng Hối Khanh: Người ở An Định, thuộc Thanh Hóa.
Dương liễu lắm điều: Sử cũ chua là "không rõ nghĩa". Đại ý nói Quý Ly nói nhiều
để khóa miệng mọi người.

1
Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 6.
2
Nguyên văn là: "Dương Liễu đa ngôn, chúng giai bế khẩu". Xem lời chua của Cương mục ở dưới.
3
Chỉ việc Đặng Tất đưa thư tố cáo với Quý Ly về lời đàm luận của Phan Mãnh và Bỉnh Khuê.
4
Câu phê này có 10 chữ: "Đặng Tất xuất thân như thử, thị nhị nhân da?". Ý nói: Đặng Tất viết thư mách Quý Ly về lời
đàm luận của Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khuê, làm cho hai người này bị giết, mà mình được xuất thân làm quan, đấy là nhân cách
kém. Thế mà sau nàylại biết phò Đế Ngỗi, đánh quân Minh xâm lược, thì lại là nhân cách tốt. (Xem thêm Chính biên quyển XII,
tờ 22, 28).
313 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Nhâm Thân, năm thứ 5 (1392). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 25).
Tháng 2, mùa xuân. Giết tôn thất Trần Nhật Chương.
Nhật Chương lập mưu giết Quý Ly, Thượng hoàng cho là người mang lòng phản bội, nên giết đi.
Tháng 4, mùa hạ. Đại hạn. Nhà vua hạ chiếu trưng cầu lời nói trung thực.
Bùi Mộng Hoa dâng sớ, đại lược nói: "Tôi nghe được câu đồng dao rằng "thâm tai Lê sư"1, xem
như thế thì tất nhiên Quý Ly có ý dòm ngó đến ngôi báu". Thượng hoàng xem lời tâu, rồi lại bảo cho Quý
Ly biết. Sau này Quý Ly chuyên giữ chính quyền trong nước, Mộng Hoa trốn đi ở ẩn, không ra làm quan.
Lời bàn của Ngô Sĩ Liên - Kinh Dịch nói: "Vua mà không cẩn mật thì làm hại
đến bầy tôi"2. Nay đã trưng cầu lời nói trung thực, rồi lại vội đem lời nói trung thực ấy
bảo với người bị chỉ trích, thì có đời nào lại hành động như thế bao giờ? Nghệ Tông già
nua lẫn lộn đến thế là cùng. Mộng Hoa không gặp được vua sáng suốt, là tự lòng trời,
mà cũng là việc không may cho nhà Trần.
Tháng 10, mùa đông. Đặt đồn ở các cửa sông cửa ải và đi tuần để canh giữ.
Bấy giờ, Chiêm Thành thường vào xâm lấn, nhiều nơi trộm giặc hàng đàn khởi lên, cướp bóc
giữa ban ngày, pháp luật không sao ngăn cấm được. Nay Quý Ly giữ chính quyền, mới đặt đồn ở các cửa
sông, cửa ải để đi tuần và canh giữ, dò bắt trộm cướp, tùy theo địa thế xung yếu mà đặt hoặc 3 đô, hoặc
4 đô, hoặc 5 đô3.
Tháng 12. Định tội những quân và dân trốn tránh sai dịch.
Phàm quân và dân trốn tránh sai dịch đều phải phạt 10 quan tiền, thích 4 chữ vào gáy. Nếu
người trốn tránh ấy là hạng đầu mục trong quân và dân, sẽ bị tội chết chém, ruộng đất và tài sản bị sung
công.
Đày viên Quốc tử trợ giáo là Đoàn Xuân Lôi đi cận châu4, giáng chức viên Hành khiển
Đào Sư Tích làm Trung thư thị lang đồng tri Thẩm hình viện sự.
Quý Ly làm 14 thiên Minh Đạo dâng lên vua. Đại lược nhận định Chu Công5 là tiên thánh, Khổng
Tử là tiên sư; sắp xếp ngôi thứ thờ ở Văn Miếu7: đặt bài vị Chu Công ngồi giữa, mặt hướng nam8; bài vị
6

Khổng Tử ngồi bên, mặt hướng tây.


Trong sách Luận ngữ có 4 chỗ, Quý Ly lấy làm ngờ, như: Khổng Tử đến yết kiến nàng Nam Tử9;
Khổng Tử bị hết lương ăn ở nước Trần10; Công Sơn triệu, Phật Hất triệu, Khổng Tử đều muốn đến giúp1

1
Thâm hiểm thay quan thái sư họ Lê! - Lê Quý Ly sau này xưng là Phụ quốc thái sư, nên chúng tôi cho "Lê sư" là quan thái sư họ
Lê. Nhưng theo Đại Việt sử ký bản kỷ, thì có chỗ (quyển 9 tờ 23) tác giả (có thuyết nói là Ngô Thì Sĩ) lại chua là lời sấm Lê
Thái Tổ khởi binh, thì chữ "Lê sư" lại có nghĩa là binh lính của Lê Lợi. Câu đồng dao thời đại phong kiến phần nhiều có tính chất
huyền bí, khó hiểu thế nào cho thật đúng được.
2
Nguyên văn là "Quân bất mật tắc thất thần", một câu trong "Hệ tử thượng" kinh Dịch, dùng để giải nghĩa hào "sơ cửu" quẻ Tiết.
3
Mỗi đô 80 người. Xem thêm Chính biên quyển VII tờ 10 về việc định quân ngũ.
4
Những châu ở gần.
5
Tên là Đán, con Văn vương, định quan chế, dựng lễ pháp; đời sau nói đến lễ nhạc, phần nhiều nhắc đến Chu Công.
6
Tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người đời Xuân thu, sửa lại 6 kinh, để tuyên dương phép tắc của đế vương đời trước, là một ông tổ
về nho giáo.
7
Nước ta có Văn Miếu bắt đầu từ đời Lý Thánh Tông (1070), trong Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và bốn vị phối hưởng, bảy
mươi hai vị hiền (Xem thêm Chính biên quyển III tờ 30).
8
Tượng trưng vị chính của thiên tử.
9
Con gái nước Tống, vợ Linh công nước Vệ, là người tà dâm, việc chép trong thiên Ung Dã.
10
Khổng Tử ở nước Vệ sang nước Tần, bị hết lương ăn, người đi theo bị đói, không đứng dậy được, việc chép ở thiên Vệ Linh
công.
314 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

... Về Hàn Dũ2, Quý Ly cho là "đạo nho"3; còn các người hiền như Chu Mậu Thúc4, hai họ Trình5, Dương
Quy Sơn6, La Trọng Tố7, Lý Diên Bình8 và Chu Tử9, thì Quý Ly cho là học rộng mà ý nghĩ viễn vông,
không sát với tình hình sự việc, chỉ chăm bề cắp nhặt. Mười bốn thiên Minh Đạo dâng lên, Thượng hoàng
ban tờ chiếu khen ngợi và phủ dụ. Đoàn Xuân Lôi dâng thư nói: "Không nên như thế". Vì thế, phải phát
vãng đi cận châu. Án từ việc này liên can đến Sư Tích, vì Sư Tích đã thường xem đến bức thư ấy, do đấy,
Sư Tích cũng bị giáng truất.
Lời phê10 - Chưa phải đã hoàn toàn sai.
Lời chua - Đoàn Xuân Lôi: Người ở Tân Phúc, thuộc Bắc Giang, thi đỗ thái học
sinh năm Xương Phù thứ 8 (1384), niên hiệu Trần Đế Hiện.
Quý Dậu, năm thứ 6 (1393). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 26).
Tháng giêng, mùa xuân. Bổ dụng Hồ Cương quản lĩnh quân Tả Thánh Dực.
Quý Ly tự nhận gốc tích họ mình là Hồ, có ý muốn lại theo họ cũ, nên đem Hồ Cương là người
thân thích ruột thịt nhà mình giữ chức quan này.
Lời chua - Hồ Cương: Người Diễn Châu.
Tháng 6, mùa hạ. Đại hạn.
Tháng 8, mùa thu. Động đất, thủy tai.
Tháng 9. Hoàng trùng.
Tháng 10, mùa đông. Đem vợ Đế Hiện là Trần thị gả cho thái bảo Trần Nguyên Hàng.
Hậu, tức là Thiên huy công chúa, con gái Thượng hoàng. Sau khi Đế Hiện đã bị giết, Thượng
hoàng thường muốn cho hậu cải giá. Nhân một hôm đi chơi hồ Tây, hậu tư bôn với phủ quân ti là
Nguyên Uyên; Thượng hoàng giận, đem gả lại cho Nguyên Hàng là em Nguyên Uyên, để cho nhục nhã.
Lời chua - Uyên, Hàng: Đều là con Cung Tín vương Nguyên Trạch.
Giáp Tuất, năm thứ 7 (1394). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 27).
Tháng 2, mùa xuân. Thượng hoàng ban cho Quý Ly bức tranh "tứ phụ"1.

1
Họ Công Sơn Phất Nhiễu là quan thái tể của họ Quý nước Lỗ, giữ ấp Phí để chống lại họ Quý: Phật Hất là quan thái tể ấp Trung
Mâu. Hai việc này đều chép ở thiên Dương Hóa.
2
Hàn Dũ người ở Nam Dương, tự Thoái Chi, cũng gọi là Hàn Xương Lê, vì tiên tổ Hàn Dũ người ở Xương Lê. Hàn là một danh nho
đời Đường.
3
Theo bài tán ở truyện Lý Phùng Cát trong Đường thư thì người nào ngoài miệng nói đạo nghĩa thánh hiền mà việc làm như kẻ
cắp chợ, gọi là "đạo nho". Có lẽ vì Hàn Dũ làm bài "Phật cốt biểu" cực lực bài bác đạo Phật, sau bị giáng chức ra Triều châu, lại
giao du thân mật với nhà sư Đại Điên, lời nói và hành động trái ngược nhau, nên Quý Ly cho là "đạo nho".
4
Chính tên là Chu Đôn Di, tự Mậu Thúc, cũng gọi là Liêm Khê tiên sinh, có làm thuyết Thái Cực đồ và sách Thông thư, Chu là
ông tổ trong phái lý học đời Tống.
5
Trình Hiệu và Trình Di, hai anh em đều là học trò Chu Mậu Thúc. Trình Hiệu, đời gọi là Minh Đạo tiên sinh, Hiệu có sửa định lại
sách Tính Lý và thuyết Thái Cực đồ. Trình Di, em Trình Hiệu, tên tự là Chính Thúc, đời gọi là Y Xuyên tiên sinh. Di có làm
truyện kinh Dịch và truyện kinh Xuân Thu.
6
Tên là Thê, tự là Trung Lập, đời gọi là Quy Sơn tiên sinh, Dương là học trò Trình Di, chuyên tâm về việc trứ tác và giảng dạy.
7
Tên là Tùng Ngạn, tự là Trọng Tố, cũng gọi là Dự Chương tiên sinh, La là học trò Dương Quy Sơn, ở ẩn để đọc sách, không có chí
về công danh. La thường nói: "Sĩ phu ra làm quan, căn bản là phải chính trực, trung hậu".
8
Tên là Đồng, tự Nguyên Trung, cũng gọi là Diên Bình tiên sinh, tinh thông về lý học. Diên Bình là học trò La Trọng Tố và là thày
học Chu Hi.
9
Xem chú thích số 2 ở Cương mục, quyển đầu, tờ 13.
10
Chỉ việc Hồ Quý Ly phê bình các tiên nho như bọn Hàn Dũ, Chu Tử,...
315 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Thượng hoàng sai vẽ tranh Chu Công giúp Thành vương2, Hoắc Quang giúp Chiêu Đế3, Gia Cát
Lượng giúp Hậu Chúa4, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông5 gọi là "tứ phụ đồ", ban cho Quý Ly và dặn bảo
rằng: "Khanh giúp quan gia6 cũng nên theo như những người ấy".
Có một đêm, Thượng hoàng nằm mộng thấy Duệ Tông7 đọc bài thơ rằng: "Trung gian duy hữu
xích chủy hầu, ân cần tiềm thướng bạch kê lâu, khẩu vương dĩ định hưng vong sự, bất tại tiền đầu tại
hậu đầu"8. (Đại ý nói: trung gian có một người xích chủy, lăm le lấn bước lên cái lầu bạch kê, việc nước
còn hay mất cũng đã định sẵn rồi, sau này sẽ biết rõ). Khi tỉnh dậy, thượng hoàng dùng lối "triết tự"9 để
phân tích, biết chắc chắn là Quý Ly thế nào cũng cướp mất ngôi vua, lấy làm lo lắm, nhưng tình thế lúc
bấy giờ khó có thể chống gỡ lại được nữa.
Tháng tư, sau khi hội họp tuyên thệ xong10, Thượng hoàng triệu Quý Ly vào cung bảo rằng:
"Bình chương là họ thân thích nhà vua11, hết thảy công việc nhà nước đều ủy thác cho khanh cả, nay thế
nước suy yếu, mà trẫm đã đến tuổi già lẫn, sau khi trẫm qua đời, nếu quan gia có thể giúp được thì giúp,
nếu là người hèn kém ngu tối, thì khanh tự nhận lấy ngôi vua". Quý Ly tháo bỏ mũ12, lạy sát đầu xuống
đất vừa khóc vừa tạ tội, rồi chỉ lên trời thề rằng: "Nếu tôi không làm thế nào hết trung hết sức để phò tá
quan gia, thì dòng dõi nhà tôi sau này sẽ bị trời chán ghét". Quý Ly lại nói: "Lúc Linh Đức vương13 làm
điều bất đức, nếu không nhờ oai linh bệ hạ thì tôi đã ngậm cười dưới đất rồi, còn đâu được đến ngày nay
nữa? Tôi dầu nát thịt nát xương cũng chưa thể báo đáp ơn bệ hạ lấy một phần trong muôn phần, còn
đâu dám mưu đồ sự khác, xin bệ hạ soi xét tấm lòng ấy cho hạ thần, không nên lo nghĩ quá".
Lời phê14 - Chỉ có kẻ tiểu nhân thì không sợ trời, không nghĩ gì đến lời nói. Bọn
giặc cướp lúc bấy giờ đều thế cả, còn người quân tử thì không như thế.
Lời chua - Xích chủy: Chỉ Quý Ly15.

1
Bức tranh vẽ bốn quan to ở bốn triều đại đã từng giúp vua khi mới lên ngôi.
2
Chu Công tên là Đán, giữ chức chủng tế nhà Chu. Khi Chu Vũ vương Phát mất, con là Tụng nối ngôi (tức là Thành vương) mới 13
tuổi, Chu Công thay Thành vương trông coi mọi việc, nhờ có Chu Công mà xã tắc nhà Chu mới yên.
3
Hoắc Quang giữ chức đại tư mã đại tướng quân dưới triều Hán Vũ đế. Khi Hán Vũ đế mất, con là Phất Lăng mới 9 tuổi lên nối
ngôi (tức là Hán Chiêu đế), Hoắc Quang một tay nắm hết quyền bính trong nước để giúp Chiêu đế.
4
Gia Cát Lượng, tức Khổng Minh, giữ chức thừa tướng dưới triều Chiêu Liệt đế, nhà Hậu Hán (tức Lưu Bị). Khi Lưu Bị mất, con là
Lưu Thiện tuy đã trưởng thành, nhưng rất ngu hèn. Gia Cát Lượng phải giúp Lưu Thiện về mọi việc mới chống chọi được với nước
Ngụy và nước Ngô.
5
Tô Hiến Thành giữ chức thái úy dưới triều Lý Cao Tông. Khi Cao Tông mất, con là Long Cán mới 3 tuổi lên nối ngôi. Hiến Thành
thay Long Cán điều khiển công việc trong nước. Nhiều lần vợ Lý Cao Tông muốn thay đổi người khác làm vua, Hiến Thành nhất
định không nghe.
Bức tranh tứ phụ này, về ba người trên theo điển ở sử Trung Quốc, về Tô Hiến Thành theo điển ở triều Lý nước ta.
6
Chỉ Trần Thuận Tông.
7
Em Nghệ Tông, bị tử trận khi đi đánh Chiêm Thành.
8
Bốn câu thơ chữ Hán này, sách Cương mục đã chua ở dưới.
9
Một phương pháp riêng của nhà thuật số dùng để tản tự, họ đem những danh từ huyền bí tách ra từng nét, hoặc hợp nét nọ vào
với nét kia, chữ nọ vào với chữ kia, hoặc gán ghép vào các giống vật, các câu thành ngữ để đoán mọi sự việc.
10
Theo tục nhà Trần, hằng năm, vua hội họp bầy tôi làm lễ tuyên thệ ở đền Đồng Cổ (xem thêm Chính biên quyển VI, tờ 5).
11
Quý Ly có hai người cô đều lấy Trần Minh Tông, một người sinh ra Nghệ Tông, một người sinh ra Duệ Tông. Vợ Quý Ly lại là Huy
Ninh công chúa, một tôn nữ nhà Trần.
12
Thời đại phong kiến, mỗi khi bầy tôi biết mình có lỗi thì tháo bỏ mũ đương đội trên đầu để tạ tội.
13
Một tước phong cho Đế Hiện khi bị giáng truất. Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 5-6.
14
Chỉ việc Quý Ly chỉ tay lên trời thề nguyền.
15
Sách Cương mục chua chữ "xích chủy" chỉ Quý Ly. Chua như thế có phần đúng, nhưng chưa được rõ. Theo sự nghiên cứu của
chúng tôi, thì chữ "chủy" nghĩa đen là mỏ loài chim, mõm loài thú, hay cũng có thể là miệng của người. Nghĩa chữ "chủy" cũng
như nghĩa chữ "khẩu". Trong Từ thư không có danh từ "xích chủy", chúng tôi tưởng nghĩa "xích chủy" cũng như nghĩa "xích
316 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Bạch Kê: Chỉ Nghệ Tông, vì Nghệ Tông sinh năm Tân Dậu, cho nên gọi là "bạch
kê"1.
Khẩu vương: Chữ "quốc" ___2
Tại hậu đầu: Về việc nước còn hay mất, sau này sẽ thấy rõ.
Tháng 7, mùa thu. Bổ Phùng Cụ làm quan doãn ở Trung Đô.
Trước gọi là quan doãn Kinh Sư3, đến nay đổi là quan doãn Trung Đô.
Tháng 11, mùa đông. Bổ Nguyên Trừng, con cả Quý Ly, xét đoán công việc ở Thượng
lâm tự4.
Trước kia, đặt viện Đăng Văn kiểm pháp5 để xét hỏi việc ngục tụng trong nước, đến nay đổi viện
làm tự, bổ Nguyên Trừng giữ việc xét xử công việc trong tự ấy.
Tháng 12. Thượng hoàng mất, mai táng ở Nguyên Lăng.
Đặt tên thụy là Quang Nghiêu anh triết hoàng đế, miếu hiệu là Nghệ Tông, ở ngôi vua ba năm,
nhường ngôi hai mươi bảy năm, hưởng thọ 74 tuổi.
Lời bàn của Ngô Sĩ Liên - Nghệ Tông tính tình hòa nhã, giữ lòng kính cẩn lo
sợ, nhưng thiếu uy vũ để đánh lui giặc ngoài6, không đủ sáng suốt để phân biệt lời gièm
pha7, ủy thác chính quyền cho ngoại thích8, khiến xã tắc nhà Trần đi đến chỗ suy vong!
Ấy chính như lời xưa đã nói: "Đằng trước có kẻ sàm nịnh mà không thấy, đằng sau có
giặc mà không hay"9.
Lời cẩn án - Ngày mất và ngày táng cùng trong một tháng là trái lễ, hoặc Sử cũ
chép lầm, hoặc là Quý Ly chuyên giữ chính quyền, công việc không theo đúng lễ? Việc
này sẽ xét sau.
Lời chua - Nguyên Lăng: Ở xã An Sinh, huyện Đông Triều10.
Ất Hợi, năm thứ 8 (1395). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 28).

khẩu". "Xích khẩu độc thiệt" là nói những người miệng lưỡi thâm độc. Quý Ly là người lắm điều (Dương liễu đa ngôn) gièm pha
giết hết người này người khác, nên câu thơ này dùng chữ bí ẩn để ám chỉ Quý Ly, còn chữ "hầu" ở cuối câu này, có thể cắt nghĩa
là người nào đó, như quân hầu chẳng hạn, vì thế, chúng tôi dịch chữ "hầu" là "người".
1
Bạch kê: nghĩa đen là gà trắng. Theo về thuật số học, 12 hàng chi từ tí đến hợi, mỗi chi đều cầm tinh một giống vật, như tuổi tí
cầm tinh con chuột, tuổi hợi cầm tinh con lợn, ... Nghệ Tông tuổi Tân Dậu, "tân" thuộc hành kim, loàn kim sắc trắng, "dậu" cầm
tinh con gà, vì thế mới dùng chữ "bạch kê" để ám chỉ tuổi Tân Dậu.
2
Chữ "vương" ở trong lòng chữ "khẩu" thành chữ ___ "quốc" (lối viết đơn giản của ta xưa). Theo quan điểm phong kiến, nước là
của vua, nên mới đặt chữ "vương" trong một ô vuông, để tượng trưng ông vua là chủ trong một chu vi rộng lớn ấy. Nhưng theo
lối viết đơn giản bây giờ, đặt chữ "ngọc" ___ ở trong một ô vuông, chỉ thêm một nét chấm, mà nghĩa chữ "quốc" bây giờ khác
hẳn với chữ "quốc" thời phong kiến.
3
Tức là chức Kinh Sư đại doãn, như Nguyễn Trung Ngạn đã được làm năm Tân Tị (1341) dưới triều Trần Dụ Tông (Chính biên IX,
40).
4
Tự đây là nơi quan thự ở thời phong kiến, như Thái thường tự, Hồng lô tự... tuy cùng mặt chữ nhưng khác nghĩa với "tự" là
chùa.
5
Xem thêm Chính biên quyển IX, tờ 44.
6
Chỉ Chiêm Thành.
7
Chỉ lời gièm pha của Quý Ly.
8
Chỉ Quý Ly. Xem thêm chú thích số 6 ở Chính biên quyển XI, tờ 20.
9
Nguyên văn là "tiền hữu sàm nhi bất kiến, hậu hữu nhi bất tri". Lời Đổng Trọng Thư trong Hán Thư.
10
Nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.
317 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Tháng 2, mùa xuân. Quý Ly sai giết tôn thất là Nguyên Uyên, Nguyên Dận và sĩ nhân
là Nguyễn Phù.
Quý Ly nhận thấy Nguyên Uyên và Nguyên Dận, đương khi để tang Nghệ Tông, thường cùng với
Nguyên Phú bàn tán về việc Nhật Chương1, nên tước họ tôn thất của Uyên và Dận mà đổi là họ Mai, rồi
giết đi.
Lời chua - Nguyên Dận: Con Cung Chính vương Sư Hiền. Chế độ cũ nhà Trần,
người trong họ tôn thất mà có tội nặng, thì phải tước họ tôn thất mà gọi là họ Mai2.
Bổ dụng Quý Ly giữ chức Nhập nội phụ chính thái sư bình chương quân quốc trọng
sự, Tuyên Trung Vệ quốc đại vương.
Lời phê - Hình tích hành động của Quý Ly gần giống Vương Mãng3.
Cho Quý Ly đeo phù hiệu kim lân4, lại được ở tại phía hữu sảnh và đài, đặt tên chỗ ở là "Hoạch
Lư" . Nhân đấy, Quý Ly biên dịch thiên "Vô dật"6 ra quốc ngữ7 để dạy quan gia8. Mệnh lệnh ban ra thì
5

xưng là phụ chính cai giáo hoàng đế9.


Lời chua - Sảnh: Trung thư sảnh.
Đài: Ngự sử đài.
Sứ thần nhà Minh sang.
Nhà Minh đem quân đánh người Mán bội bạn ở Long châu, sai Nhâm Hanh Thái sang nước ta xin
giúp cho 5 vạn người, 50 thớt voi, và 50 vạn thạch lương thực để tiếp tế cho quân. Thâm tâm nhà Minh
muốn giả thác việc này để chộp bắt người nước ta. Lúc Hanh Thái đến, đem thâm tâm ấy nói kín cho
triều đình biết. Vì thế nước ta không giúp cho lính và voi, chỉ sai quan đưa số gạo, lương đến Đồng Đăng
giao nhận xong rồi trở về. Số gạo ấy cũng không được bao nhiêu.
Lời chua - Đồng Đăng: Tên xã, nay thuộc châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn.
Bính Tuất, năm thứ 9 (1396). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 29).
Tháng giêng, mùa xuân. Sa thải một số tăng đạo.
Những sư chưa đến 50 tuổi trở lên đều phải hoàn tục. Lại thi người nào thông hiểu đạo Phật,
trao cho chức Tăng đường đầu mục10 và tri cung, tri quán, tri tự, ngoài ra gọi là tu nhân11, hoặc thị giả1.

1
Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 16-17 việc Quý Ly giết Nhật Chương (việc năm Nhâm Thân, 1392).
2
Xem thêm Chính biên quyển VIII, tờ 14: việc Trần Kiện, Trần Văn Lộng.
3
Giữ chức đại tư mã dưới triều Bình Đế nhà Tây Hán, sau giết Bình Đế. Lập nhụ tử Anh, Vương Mãng nắm hết chính quyền trong
nước, tự xưng là Hoàng đế giả, cuối cùng cướp ngôi vua nhà Hán, đặt tên nước là Tân.
4
Phù hiệu có chạm hình con lân bằng vàng.
5
Nguyên văn chữ Hán là ___ ___. Riêng chữ ___ có hai âm: "Hoạch" và "họa" nên hai chữ này có thể đọc là "hoạch lư" cũng có
thể đọc là "họa lư". Theo chú thích trong Từ nguyên thì danh từ này có nhiều nghĩa: a) nhà ở của người bầy tôi thân cận với
nhà vua để định kế hoạch trong nước; b) nhà có chạm trổ; c) nhà có vẽ hình các vua hiền đời trước; d) nhà của một chức quan
về triều nhà Hán.
6
Một thiên trong sách Thượng thư, do Chu Công Đán làm ra để khuyên răn Thành vương nhà Chu. Trong sách phần nhiều nhấn
mạnh về việc làm vua phải biết việc cày cấy của dân khó nhọc, không nên đánh thuế nặng, ... Hai chữ "vô dật" nghĩa là chớ có ở
dưng, chớ có chơi bời làm lãng phí thì giờ.
7
Tức là quốc âm.
8
Chỉ Trần Thuận Tông.
9
Sáu chữ này nghĩa là giúp vua giữ chính quyền trong nước kiêm cả việc dạy bảo vua.
10
Có lẽ một chức đứng đầu nhà sư.
11
Người tu luyện pháp môn cửa phật.
318 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Tháng 3. Duyệt binh.


Tháng 4, mùa hạ. Bắt đầu ban hành tiền "thông bảo hội sao".
Thiếu bảo Vương Nhữ Chu đề nghị đổi lại chế độ. Quý Ly nghe theo, mới định chế độ tiền giấy
như sau: loại 10 đồng vẽ rau rong; loại 30 đồng vẽ thủy ba; loại một tiền vẽ đám mây, loại hai tiền vẽ
con rùa; loại ba tiền vẽ con lân; loại 5 tiền vẽ con phượng; loại một quan vẽ con rồng. Người nào làm giả
phải tội tử hình, tịch thu điền sản sung công. Khi tiền giấy đã in xong, hạ lệnh cho dân được đem tiền
thực đổi lấy tiền giấy: cứ một quan tiền thực chất đổi lấy tiền giấy một quan hai tiền. Cấm chỉ dân gian
không được dùng tiền đồng, bao nhiêu tiền đồng đều nộp vào quan, nếu như người nào tàng trữ riêng
hoặc tiêu dùng riêng cũng phải tội như người làm giả tiền giấy.
Định thể lệ thi cử.
Hồi đầu đời Trần thi học trò, thể văn không được nhất định, đến nay mới định ra thể văn bốn kỳ
thi, bỏ lối ám tả cổ văn, năm trước thi hương, năm sau thi hội, người nào trúng tuyển thì thi một bài văn
sách để định thứ tự đỗ cao, đỗ thấp.
Lời chua - Thể văn bốn kỳ (tứ trường văn thể): Kỳ đệ nhất: thi một bài kinh
nghĩa, có đoạn phá đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, chước kết, bài làm
hạn trên năm trăm chữ. Kỳ đệ nhị: thi một bài thơ và một bài phú. Thể thơ dùng luật
Đường; phú dùng cổ thể, hoặc thể Ly Tao, thể Văn tuyển, riêng bài phú cũng hạn trên
năm trăm chữ. Kỳ đệ tam: thi chiếu, chế và biểu mỗi thể một bài, bài chiếu dùng văn thể
đời Hán, bài chế và bài biểu dùng văn thể tứ lục đời Đường. Kỳ đệ tứ: thi một bài văn
sách, quan trường dùng điển tích ở sách kinh, sách sử và thời sự để ra đầu bài, hạn trên
một ngàn chữ.
Tháng 6. Quy định thể lệ mũ và áo.
Về áo mặc: viên quan nhất phẩm mặc áo màu tía, nhị phẩm màu đại hồng, tam phẩm màu hồng
điều, tứ phẩm màu lục, ngũ phẩm và thất phẩm màu biếc, bát và cửu phẩm màu xanh. Người không có
phẩm cấp và hạng hoành nô2 đều dùng màu trắng. Về khăn hoặc mũ: hàng quan văn từ lục phẩm trở lên
đội khăn cao sơn, hàng quan võ từ lục phẩm trở lên khăn chiết xung; họ tôn thất đội khăn phương thắng
màu đen, người nào chức cao mà không có tước đội khăn giác đính; viên quan thất phẩm đội khăn thái
cổ, tùng thất phẩm đội khăn toàn hoa, vương hầu đội khăn viễn du, ngự sử đài đội khăn khước phi. Thể
lệ mũ áo này là theo lời kiến nghị của thiếu bảo Vương Nhữ Chu.
Lời chua - Mũ viễn du: Theo "Du phục chí" trong Hậu Hán thư, thì kiểu mũ này
cũng chế như mũ thông thiên, cao 9 tấc, thân mũ đứng thẳng lên, đỉnh mũ hơi lõm vào,
thẳng chỗ lõm xuống ấy làm một vòng sắt (cầu mũ), nằm ngang ở trước vòng sắt có cái
ống suốt ngang để có thể tháo vòng sắt ra hoặc tra vào được.
Mũ cao sơn: Cũng chế như kiểu mũ viễn du, nhưng không lõm xuống, đứng
thẳng, không có ống suốt tháo ra lắp vào.
Mũ khước phi: Chế như kiểu mũ trường quan, cao 7 tấc, rộng 5 tấc, làm bằng
cật tre, nhưng bên dưới co lại.
Mũ thái cổ: Theo Lễ ký, thì mũ thái cổ là mũ của người mới gia quan, mũ vải
thâm.
Còn các mũ khác kiểu chế như thế nào không rõ.
Đinh Sửu, năm thứ 10 (1397). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 30).

1
Xem Chính biên, quyển XI, tờ 1, chú thích số 1 về chữ "thị giả".
2
Xem lời chua ở Chính biên quyển VI, tờ 9.
319 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Tháng giêng, mùa xuân. Quý Ly sai Lại bộ thượng thư1 Đỗ Tỉnh (có chỗ chép là Mẫn)
đi Thanh Hoá dựng kinh đô mới.
Trước đây, Quý Ly kiến nghị muốn dời kinh đô đến Yên Tôn, Hành khiển Phạm Cự Luận can
ngăn. Quý Ly nói: "Chí ta đã quyết định từ trước, nhà ngươi còn nói làm gì nữa?". Đến nay, Quý Ly sai
Đỗ Tỉnh đến Yên Tôn xem xét đo đạc, đắp thành, đào hào, lập nhà tôn miếu, đàn thờ thần xã2, mở phố
sá, đường ngõ, có ý muốn dời kinh đô đến đấy. Viên xu mật chủ sự thị sử là Nguyễn Nhữ Thuyết lại dâng
thư can, đại lược nói: "Ngày trước nhà Chu, nhà Ngụy thiên đô, sau đều không sao ngóc lên được. Nay
đất Long Đỗ3, có núi Tản Viên, có sông Nhị Hà, cao sâu phẳng rộng, từ trước, các đời đế vương mở cơ
nghiệp dựng nước, không đời nào không lấy đất này làm nơi căn bản, vì thế mà mặt bắc chống giặc
Nguyên thì quân Nguyên bị giết, mặt nam đánh Chiêm Thành thì giặc Chiêm nộp đầu, những việc ấy chả
phải nhờ ở địa thế tiện lợi mới được như thế là gì? Dám xin nghĩ lại một chút, để làm kế vững vàng cho
nước nhà. Còn như Yên Tôn địa thế nhỏ hẹp hẻo lánh, chỗ này là nơi sơn cùng thủy tận, không thể định
cư được, trông cậy vào nơi hiểm trở, thì có ích gì? Cổ ngữ có câu: "Cần ở đức, không cần nơi hiểm trở".
Quý Ly không nghe. Sau, đến kỳ xét công trạng các quan, khi trông thấy tên Nhữ Thuyết, Quý Ly nói anh
này là người nói "cần ở đức, không cần ở nơi hiểm trở" đây, rồi truất bỏ, không dùng nữa.
Lời chua - Động Yên Tôn: Nay ở xã Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc, nền cũ của thành
vẫn còn, bên tả bên hữu thành đều sát với núi đá, hai con sông Lương và sông Mã hợp
lưu ở đằng trước, vì thế nên Nguyễn Nhữ Thuyết nói là địa thế nhỏ hẹp, hẻo lánh, thủy
tận sơn cùng.
Long Đỗ: Tức thành Đại La. Lúc Cao Biền nhà Đường mới đắp thành này, thấy
thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ, vì thế mới thành tên4.
Tản Viên: Tên núi. Xem Lê Đại Hành, năm Ứng Thiên thứ 7 (Chính biên I, 34).
Nhị Hà: Tức sông Phú Lương. Xem Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 2 (Chính
biên II, 13).
Tháng 4, mùa hạ. Đổi gọi các lộ, các phủ là trấn.
Quý Ly muốn dời kinh đô vào Thanh Hóa, mới đổi Thanh Hóa làm Thanh Đô trấn, lại đổi Quốc
Oai lộ làm Quảng Oai trấn, Đà Giang lộ làm Thiên Hưng trấn, Nghệ An lộ làm Lâm An trấn, Trường Yên lộ
làm Thiên Quan trấn, Diễn Châu lộ làm Vọng Giang trấn, Lạng Sơn phủ làm Lạng Sơn trấn, Tân Bình phủ
làm Tân Bình trấn. Bãi bỏ chức đại tiểu ti xã5, duy chức quản giáp6 vẫn đặt như cũ.
Lời cẩn án - Về việc này, tên đất theo cũ hay đổi mới, chia ra hay hợp lại,
không thể hiểu rõ được, hoặc giả chỉ đổi có bấy nhiêu nơi gọi là trấn, còn các nơi khác
vẫn gọi là lộ, hoặc đổi tất cả làm trấn mà tên đất vẫn theo như cũ, Sử cũ không trình bày
rõ rang, tất cả đều không có chứng cớ đích xác, sẽ khảo cứu sau.
Lời chua - Thanh Hóa, Đà Giang, Nghệ An, Lạng Sơn: Đều xem Lê Thánh Tông,
năm Quang Thuận thứ 10 (Chính biên XXI, 20-23, 30, 31).
Quốc Oai: Xem Dụ Tông, năm Đại Trị thứ 5 (Chính biên X, 16).
Trường Yên: Xem Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ nhất (Chính biên II, 11).

1
Bộ quan trọng nhất trong sáu bộ, phụ trách công việc tuyển bổ cất nhắc, bãi miễn các quan.
2
Đàn thờ thần thổ địa. Theo tục xưa, từ vua đến dân đều lập đàn thờ thần thổ địa để cầu phúc.
3
Tức Thăng Long, nay là Hà Nội. Xem thêm "Lời chua" ở sau của Cương mục.
4
Xem thêm Tiền biên quyển V, tờ 10-11.
5
Xem thêm Chính biên quyển VI, tờ 21-22.
6
Xem thêm Chính biên quyển II, tờ 24-25.
320 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Diễn Châu1: Xem thuộc Đường, Cao Tông, năm Điền Lộ thứ nhất (Tiền biên IV,
20).
Tân Bình: Tức Địa Lý. Xem Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ nguyên niên (Chính
biên III, 29).
Quy định chức quan giữ việc ở lộ, phủ, châu và huyện.
Ở lộ đặt An phủ sứ và chức phó, ở phủ đặt trấn phủ sứ và chức phó, ở châu đặt thông phán và
thiêm phán, ở huyện đặt lệnh úy và chủ bạ. Quan chức ở lộ thống trị phủ, phủ thống trị châu, châu
thống trị huyện. Phàm những sổ hộ, tiền, thóc, ngục tụng ở phủ, châu, huyện đều tổng hợp lại làm sổ
trong một lộ, cứ đến cuối năm báo cáo lên sảnh2, để tiện tra khảo. Lại đặt các chức đô đốc, đô hộ, đô
thống, tổng quản, thái thú để quản trị công việc. Bổ dụng phó tướng Lê Hán Thương quản lĩnh Đô hộ
phủ ở lộ Đông Đô, Thái bảo Trần Nguyên Hàng quản lĩnh thống phủ ở lộ Bắc Giang, Trần Nguyên Trữ
quản lĩnh đô thống phủ ở lộ Tam Giang, Thiếu bảo Vương Nhữ Chu coi giữ công việc quân dân ở lộ Thiên
Trường phủ, Hành khiển Hà Đức Lân làm thái thú ở lộ Tân An phủ.
Lời cẩn án - Ở lộ đã có chức an phủ, mà lại còn đặt đô hộ và đô thống, ở phủ
đã có chức trấn phủ, mà lại còn đặt tri phủ và thái thú, có lẽ cốt để cho công việc được
thống nhất mà các viên quan đứng đầu phải kiêm việc trông coi, vì thế, nên đều dùng
các viên đại thần giữ những chức ấy. Chẳng qua lúc bấy giờ Quý Ly sắp cướp ngôi vua
nhà Trần, cho nên đặt ra các chức quan trọng đại, để phân phối công việc cho các người
trong đảng mình.
Lời chua - Đông Đô: Tức thành Thăng Long. Lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây đô,
Thăng Long là Đông đô.
Tam giang: Từ đời Lý trở về trước, là những đất ở châu Phong và châu Chân
Đăng; đến đời Trần mới đặt làm lộ Tam Giang, vì địa thế ở đấy có ba con sông: Lô, Thao
và Đà, cho nên nhân đất mà đặt tên; nhà Lê chia ra làm các phủ Thao Giang, Đà Giang
và Đoan Hùng; nay là địa phận các phủ Lâm Thao3, Đoan Hùng4 và Quảng Oai thuộc các
tỉnh Tuyên Quang, Hưng Hóa và Sơn Tây.
Sảnh: Tức Thượng thư. Trung thư môn hạ sảnh.
Tháng 5. Đặt chức học quan ở các lộ, cấp cho ruộng hoặc nhiều hoặc ít có khác nhau.
Tờ chiếu nói: "Đời cổ5 ở trong nước có nhà quốc học6, ở đảng7 có nhà tự8, ở toại9 có nhà
10
tường , chủ ý cốt làm cho giáo hóa được sáng tỏ, phong tục được thuần hậu, chính sách ấy trẫm rất
hâm mộ. Nay thể lệ về nhà học của nước đã đầy đủ, nhưng ở châu ở huyện hãy còn thiếu sót, thì làm
thế nào mà mở rộng được đạo dạy dân? Vậy hạ lệnh cho phủ và châu thuộc các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc và
Hải Đông đều đặt một viên quan giáo thụ giữ về việc học, cấp cho ruộng theo đẳng cấp sau này: phủ và

1
Xem thêm Chính biên quyển XXI, 21-22: chỗ chú thích về Nghệ An.
2
Xem lời chua của Cương mục ở dưới.
3
Hai phủ này bây giờ đều thuộc tỉnh Phú Thọ.
4
Hai phủ này bây giờ đều thuộc tỉnh Phú Thọ.
5
Chỉ đời tam đại: Hạ, Thương và Chu ở Trung Quốc.
6
Nhà học của cả nước, từ đời nhà Tùy trở về sau gọi là Quốc Tử giám.
7
Đời cổ cứ 500 nhà ở chung một nơi gọi là "đảng".
8
Tên trường hương học, nhà Hạ gọi là "hiệu", nhà Thương gọi là "tự" nhà Chu gọi là "tường". Về sau, trường huyện học cũng gọi là
"tường", như trường ở một ấp, gọi là ấp tường; trường một huyện gọi là huyện tường...
9
Những địa phận ở nơi biên viễn xa kinh kỳ ngày xưa gọi là "toại".
10
Tên trường hương học, nhà Hạ gọi là "hiệu", nhà Thương gọi là "tự", nhà Chu gọi là "tường", như trường ở một ấp, gọi là ấp
tường; trường một huyện gọi là huyện tường...
321 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

châu hạng lớn 15 mẫu, hạng trung bình 12 mẫu, hạng nhỏ 10 mẫu, để lấy hoa lợi ruộng ấy mà chi dùng
vào việc học trong phủ hoặc châu. Viên quan cai trị ở lộ đôn đốc viên quan giữ việc học phải dạy bảo học
trò, cho thành người tài năng văn nghệ. Hằng năm, cứ đến cuối năm, lựa chọn người nào ưu tú tiến cống
vào triều, trẫm sẽ thân hành thi lại rồi cất nhắc bổ dụng".
Lời chua - Hải Đông: Tức An Bang1.
Sơn Nam, Kinh Bắc: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính biên
XXI, 26-28).
Tháng 6. Lập phép hạn điền.
Trước đây, các nhà tôn thất thường sai nô tì đắp đê ngăn nước mặn ở địa phận những nơi ven
biển, hai ba năm khai khẩn thành ruộng, lập làm trang trại riêng. Đến nay lập phép hạn điền, chỉ có đại
vương và trưởng công chúa2 thì ruộng không bị hạn định, còn thứ nhân không được quá 10 mẫu ruộng.
Người nào ruộng quá hạn định thì phải nộp vào quan, người nào phạm tội được phép đem ruộng chuộc
tội.
Tháng 10, mùa đông. Quý Ly bắt em nhà vua rời kinh đô vào Thanh Hóa và giết hai
người cung nữ.
Nhà vua đi An Sinh để bái yết lăng tẩm, Quý Ly bắt ép xa giá cùng đi đến sông Đại Lại; lúc ấy
cung nhân là Trần Ngọc Kỵ và Trần Ngọc Kiểm nói kín với nhà vua là nếu thiên đô, tất nhiên có việc cướp
ngôi. Quý Ly nghe biết chuyện cho rằng viên miếu lệnh là Lê Hợp và viên phụ đạo ở Cổ Lũng là Lương
Ông đều đồng mưu, nên giết cả mấy người này. Rồi sai Hành khiển Lương Nguyên Bưu dỡ các điện Thụy
Chương và Thiên An bắt dân các châu Từ Liêm và Nam Sách chở gạch ngói và gỗ đến kinh đô mới: khi đi
đường thủy, gặp gió bão, bị chìm đắm mất quá nửa.
Lời chua - Cổ Lũng: Tên huyện. Nhà Lê đổi là Hữu Lũng; nay theo như cũ,
thuộc tỉnh Bắc Ninh3.
Phụ đạo: Tên quan thổ tù.
Từ Liêm: Tên huyện, đặt từ thời nhà Đường; nhà Trần gọi là châu; nhà Lê lại đặt
làm huyện; nay theo như cũ, thuộc tỉnh Hà Nội4.
Nam Sách5: Xem Trần Dụ Tông, năm Thiệu Phong thứ 14 (Chính biên X, 6).
Sông Đại Lại: Xem Trần Nghệ Tông, năm Đại Khánh thứ nhất (Chính biên X, 26).
Mậu Dần, năm thứ 11 (1398). (Từ tháng 3 trở về sau, thuộc Thiếu Đế năm Kiến Tân
thứ nhất. - Minh, năm Hồng Vũ thứ 31).
Tháng 3, mùa xuân. Nhà vua truyền ngôi cho Hoàng thái tử An6. Thái tử lên ngôi, tôn
Khâm thánh hoàng hậu làm hoàng thái hậu. Quý Ly tự xưng là đại vương, thay vua giữ chính
quyền trong nước.
Quý Ly có chí cướp ngôi vua đã lâu, nhưng trót thề với Nghệ Tông7, nay trái lời thề cũng có ý
ngại, bèn ngầm sai đạo sĩ1 Nguyễn Khánh ra vào trong cung, khuyên nhà vua rằng: "Cảnh tiên thanh

1
Xem thêm Chính biên quyển XXI, tờ 29.
2
Chị hoặc em ruột vua.
3
Nay thuộc tỉnh Lạng Sơn.
4
Nay là đất huyện Từ Liêm (Hà Nội) và Hoài Đức (Hà Tây).
5
Xem thêm Tiền biên quyển V, tờ 22.
6
Nguyên văn trong Cương mục chép là ___ và chua ở dưới rằng "đã khảo cứu trong Tự điển, và Bị khảo Bổ di đều không
có chữ này, không rõ âm là gì". Ở đây chúng tôi chỉ căn cứ vào tự dạng có chữ "an" ở trên, nên phiên là An cho đủ âm mà thôi.
7
Xem thêm Chính biên quyển XI tờ 20.
322 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

thú, khác hẳn trần gian, các thánh đế triều ta chỉ ham chuộng về Phật giáo, chưa có vị nào giao du với
người tiên đắc đạo. Nay bệ hạ ở nơi cửu ngũ2 tôn nghiêm, nhọc lòng với muôn việc, chi bằng truyền ngôi
cho đông cung theo tiên tu đạo để cho cái đức khiêm cung thuần hoà ngày thêm sáng sủa". Nhà vua
nhận lời, bèn tâu lục văn3 phụng lĩnh đạo giáo ghi tên vào sổ tu tiên. Quý Ly dựng cung Bảo Thanh ở
phía tây nam núi Đại Lại, rước vua ra ở. Nhà vua bèn hạ chiếu truyền ngôi, đại lược tờ chiếu nói: "Trẫm
lúc trước vẫn mến tưởng phong vị thanh tao, không có bụng muốn ngự xe hoàng ốc4. Vả lại, trẫm là
người không có đức, làm nhục đến ngôi vua, thực không sao đương nổi công việc. Nay truyền ngôi để
nghiệp lớn được lâu dài. Hoàng thái tử An cần được lên ngôi vua (tức là Thiếu Đế), phụ chính thái sư Lê
Quý Ly lấy danh nghĩa là quốc tổ5 thay giữ chính quyền, trẫm tự xưng là Thái thượng nguyên quân
hoàng đế, bồi dưỡng lòng trai khiết ở cung Bảo Thanh, để thoả được ý muốn trước kia của trẫm".
Lúc ấy Thái tử mới 3 tuổi, khi nhận tờ chiếu truyền ngôi, không biết lạy. Quý Ly sai Thái hậu lạy
đằng trước để Thái tử theo sau. Quý Ly tự xưng là Khâm đức Hưng liệt đại vương. Bảng văn6 nói "Trung
thư, Thượng thư sảnh phụng Nhiếp chính cai giáo hoàng đế thánh chỉ"7. Ngày hôm ấy lên ngự điện ở
kinh đô mới, làm lễ khánh thành, ban yến cho các quan từ hàng ngũ phẩm trở lên, cho phép con trai con
gái được ngày đêm dạo chơi ngắm cảnh ở cửa nam kinh thành.
Lời chua - Núi Đại Lại: Xem Đế Hiện, năm Xương Phù thứ 12 (Chính biên XI, 6).
Đo đạc ruộng cho dân. Giáng chức Hành khiển Hà Đức Lân làm Thượng thư bộ Hộ.
Hạ lệnh cho dân, người nào có ruộng phải cung khai báo cáo số mẫu ruộng, trên mặt ruộng phải
cắm thẻ tiêu đề họ tên của mình, các quan ở lộ, phủ, châu và huyện phải hội đồng kiểm xét đo đạc, làm
thành sổ sách 5 năm mới xong. Ruộng nào không có người cung khai đoan nhận, thì nhà nước lấy làm
ruộng công. Lúc ấy, Đức Lân nói kín với người nhà rằng: "Đặt ra phép này chỉ để ăn cướp ruộng của dân
đấy thôi". Quý Ly nghe biết, liền giáng chức Đức Lân.
Kỷ Mão, Thiếu Đế năm Kiến Tân thứ 2 (1399). (Minh, năm Kiến Văn thứ 1).
Quý Ly giết Thượng hoàng ở quán Ngọc Thanh.
Sau khi đã truyền ngôi vua, Thuận Tông dời ra ở quán Ngọc Thanh. Quý Ly ngầm sai nội tẩm
học sinh Nguyễn Cẩn đi theo để trông nom coi sóc. Thuận Tông hỏi Cẩn: "Anh đi theo ta, ý muốn làm
gì?". Cẩn không nỡ nói rõ. Quý Ly làm thơ bảo Cẩn rằng: "Nếu nguyên quân8 không chết, thì nhà ngươi
phải chết". Cẩn dâng thuốc độc, Thuận Tông không chết, lại dâng nước dừa và không cho ăn, cũng
không chết. Quý Ly bèn sai Xa kỵ thượng tướng quân Phạm Khả Vĩnh đem thắt cổ cho chết.
Lời chua - Quán Ngọc Thanh: Nay ở thôn Đạm Thủy, huyện Đông Triều, tỉnh
Hải Dương.

1
Người tôn sùng đại giáo của Lão tử. Xem thêm chú thích số 4 ở Chính biên quyển VIII, tờ 39.
2
Tượng trưng ngôi vua, do hào Cửu Ngũ trong quẻ Kiều là một quẻ thuần dương, ở kinh Dịch: "Long phi tại thiên, lợi kiến đại
nhân". Ý nói rồng bay trên trời, thì thiên hạ thấy có ông vua đức độ to lớn.
3
Nguyên văn chép là "tấu lục". Những bí quyết của nhà đạo giáo đều gọi là "lục". Người thụ đạo, lúc bắt đầu được nhận năm ngàn
lục văn, sau được nhận tam động lục. Lục văn đều viết chữ trắng, ghi tên các thiên tào, quan thuộc và tá lại.
4
Đời xưa xe của vua, ngoài bọc lụa sắc vàng, nên gọi là hoàng ốc, sau người ta dùng chữ hoàng ốc để tượng trưng ngôi vua.
5
Vợ Thuận Tông là con gái trưởng Quý Ly, Thái tử An gọi Quý Ly bằng ông ngoại.
6
Tờ yết thị dán vào cái bảng treo ở cửa kinh thành cho mọi người biết.
7
Năm chữ "Trung thư, Thượng thư sảnh" là nêu rõ chức quan có trách nhiệm làm tờ yết thị dán trên bảng. Cả 14 chữ này nghĩa là:
quan chức trong sảnh Trung thư, Thượng thư vâng theo thánh chỉ của vị nhiếp chính cai giáo hoàng đế (tức Quý Ly). - Riêng hai
chữ "Thánh chỉ" nghĩa là chỉ dụ của thánh ban ra, theo chế độ phong kiến chỉ có vua mới được dùng hai chữ này.
8
Theo Đạo đức kinh thì những người tu hành thành tiên, con trai gọi là chân nhân, con gái là nguyên quân. Chữ "nguyên quân" ở
đây chỉ Trần Thuận Tông vì Thuận Tông sau khi truyền ngôi cho con, tự xưng là Thái Thượng Nguyên quân hoàng đế.
323 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Bọn Thái bảo Trần Nguyên Hàng và thượng tướng quân Trần Khát Chân mưu giết Quý
Ly không xong, lại bị Quý Ly giết.
Bọn Thái bảo Trần Nguyên Hàng và thượng tướng quân Trần Khát Chân bàn định đến ngày hội
họp tuyên thệ1 sẽ giết Quý Ly. Đến ngày ấy, hội thề ở Đốn Sơn, Quý Ly lên trên lầu nhà Khát Chân để
xem, nghi vệ y như thiên tử đi tuần du. Lúc ấy Phạm Tổ Thu và thích khách là Phạm Ngưu Tất cầm vững
tay kiếm muốn xông lên, Khát Chân trừng mắt nhìn, hai người bèn không quả quyết tiến lên nữa. Quý Ly
thấy chột dạ, liền đứng dậy, vệ sĩ hộ vệ để xuống. Ngưu Tất quăng thanh kiếm xuống đất, nói: "Cả lũ chỉ
chết uổng mất thôi!". Việc ấy bị tiết lộ, Thái bảo Nguyên Hàng, trụ quốc Nhật Đôn, tướng quân Trần Khát
Chân, Phạm Khả Vĩnh, thượng thư Hà Đức Lân, Hành khiển Lương Nguyên Bưu và bọn Phạm Ông Thiện,
Phạm Tổ Thu, Phạm Ngưu Tất cùng người thân thích liêu thuộc hơn ba trăm bảy mươi người đều bị hại,
gia sản bị tịch thu. Những người liên can bị bắt, hết năm này sang năm khác chưa xong. Ở ngoài đường
sá, người ta chỉ lấy mắt nhìn nhau, dầu hai người cũng không dám nói chuyện. Lễ hội thệ từ đây bãi bỏ.
Lời chua - Đốn Sơn: Nay ở xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, còn có
miếu thờ Khát Chân2.
Tháng 6. Quý Ly tự xưng là Quốc Tổ chương hoàng.
Quý Ly ở cung Nhân Thọ, bảng văn đề là "phụng nhiếp chính quốc tổ chương hoàng", mặc áo
sắc bồ hoàng (sắc vàng), khi đi ra đi vào dùng 12 cây lọng vàng, y như nghi trượng thiên tử, nhưng còn
xưng là "dư"3 chưa dám xưng là "trẫm"4. Còn con Hán Thương xưng quyền chức Thái phó, ở bên hữu
điện Hoàng Nguyên; Nguyên Trừng làm Tư đồ.
Tháng 7, mùa thu. Quý Ly bắt giam Nguyễn Dụng Phủ, rồi lại tha.
Dụng Phủ dâng thư lên Quý Ly đại lược nói: "Chương hoàng là hiệu gì? Bồ hoàng là sắc gì? Đối
với việc tiên đế5 phó thác thì sao?". Quý Ly nổi giận, bắt giam mấy ngày, sau lại tha ra.
Lời chua - Dụng Phủ: Người ở Hoằng Hóa thuộc Thanh Hóa.
Tháng 8. Quân ở Đà Giang nổi dậy. Tháng 12, mùa đông. An phủ sứ ở lộ Đông Đô là
Nguyễn Bằng Cử dẹp yên được.
Trước đây, Nguyễn Nhữ Cái ở Đà Giang, trốn đến Thiết Sơn làm bảo sao (tiền giấy) giả, gặp lúc
Thuận Tông bị hại, Khát Chân bị chết, Nhữ Cái liền chiêu dụ dân lành, được hơn một vạn người, đi lại
quấy rối cướp bóc ở quãng sông Đáy, sông Đà, núi Tản, núi Lịch; châu, huyện không thể chống cự nổi.
Quý Ly sai Bằng Cử điều binh đi đánh, dẹp yên được.
Lời chua - Đà Giang: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính
biên XXI, 30).
Đông Đô: Xem Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 10 (Chính biên XI, 29).
Sông Đáy: Phát nguyên từ núi Tam Đảo, chảy qua địa phận các huyện Tam
Dương và Lập Thạch thuộc tỉnh Sơn Tây6, đổ vào sông Bạch Hạc.
Núi Tản: Xem Lý Nhân Tông, năm Thái Ninh thứ 2 (Chính biên III, 32).

1
Xem thêm chú thích số 4 ở Chính biên quyển XI, tờ 20.
2
Theo Đại Nam nhất thống chí thì Đốn Sơn là gia hương Trần Khát Chân. Khi bị hành hình, Khát Chân đứng trên Đốn Sơn
kêu ba tiếng thật to rồi chết, ở địa phương này có 29 đền thờ Khát Chân.
3
Chữ "dư" ___ và chữ "trẫm" ___ theo Việt Nam đều nghĩ là ta, nhưng theo chế độ phân biệt đẳng cấp đời phong kiến thì chữ "dư"
dùng chung cho người trên đối với người dưới, chữ "trẫm" để riêng cho vua xưng với thần dân.
4
Chữ "dư" ___ và chữ "trẫm" ___ theo Việt Nam đều nghĩ là ta, nhưng theo chế độ phân biệt đẳng cấp đời phong kiến thì chữ "dư"
dùng chung cho người trên đối với người dưới, chữ "trẫm" để riêng cho vua xưng với thần dân.
5
Chỉ Trần Nghệ Tông.
6
Hai huyện này nay đều thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
324 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Núi Lịch: Ở địa phận huyện Sơn Dương, tỉnh Sơn Tây1.
Thiết Sơn: Nay không rõ ở đâu.
Canh Thìn, năm thứ 3 (1400). (Từ tháng 3 trở về sau thuộc Hồ Quý Ly, năm Thánh
Nguyên thứ 1. - Minh, năm Kiến Văn thứ 2).
Tháng 2, mùa xuân. Quý Ly truất nhà vua làm Bảo Ninh đại vương, Quý Ly tự xưng
hoàng đế.
Quý Ly nói thác ra rằng nhà vua truyền ngôi cho. Bầy tôi khuyên mời lên ngôi vua. Quý Ly giả vờ
thoái thác nói: "Ta sắp đến ngày xuống lỗ rồi2, nếu làm như thế, thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế3
ở dưới đất được?". Bầy tôi ba lần dâng tờ biểu, mới nhận lời, xưng là hoàng đế, đặt niên hiệu là Thánh
Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu và đổi họ mình là họ Hồ, truất Thiếu Đế làm Bảo Ninh đại vương, vì
Thiếu Đế là cháu ngoại4, nên không giết chết.
Lời chua - Quý Ly5 gốc tích họ Hồ, họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn6. (Con Ngu
Yên là Vĩ Mãn, được Chu Vũ vương phong cho ở đất Trần, gọi là Hồ Công, sau dùng chữ
Hồ làm họ), cho nên đổi họ là Hồ, đổi quốc hiệu là Đại Ngu.
Quý Ly đặt chức liêm phóng sứ7 ở các lộ.
Quý Ly sai liêm phóng sứ chia nhau đến các lộ, bí mật dò hỏi kẻ hay người dở về quan lại, việc
lợi hại ở dân gian, để thi hành việc giáng truất hay cất nhắc bọn quan lại. Điều lệ này định làm thể thức
lâu dài. Từ đấy, chức thú8 chức lệnh9 mới luôn luôn thay đổi.
Tháng 8, mùa thu. Thi thái học sinh10.
Lưu Thúc Kiệm, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành, Bùi Ứng
Đẩu, tất cả 20 người đều dự trúng tuyển.
Lời chua - Thúc Kiệm: Người huyện Gia Định thuộc Bắc Giang11.
Nguyễn Trãi: Người huyện Thường Phúc thuộc Sơn Nam12.
Vũ Mộng Nguyên: Người huyện Đông Sơn, thuộc Thanh Hóa.
Hoàng Hiến: Người huyện Tiên Du, thuộc Bắc Giang13.
Nguyễn Thành: Người huyện Thần Khê1.

1
Nay thuộc tỉnh Tuyên Quang. Lúc toàn quốc kháng chiến gọi là Châu Tự do.
2
Năm ấy Quý Ly đã 65 tuổi.
3
Chỉ Trần Nghệ Tông.
4
Xem chú thích số 2 ở Chính biên quyển XI, tờ 32.
5
Xem thêm tiểu sử Hồ Quý Ly: Chính biên quyển X, tờ 31-32.
6
Một vua đời thượng cổ Trung Quốc, Ngu Thuấn được Đường Nghiêu truyền ngôi cho. Sau thường gọi đời ấylà đời Đường - Ngu,
hay đời Nghiêu - Thuấn.
7
Như chức thanh tra bây giờ.
8
Thú: thái thú; lệnh: lệnh doãn. Những chức quan đứng đầu ở phủ, ở châu hoặc ở huyện.
9
Thú: thái thú; lệnh: lệnh doãn. Những chức quan đứng đầu ở phủ, ở châu hoặc ở huyện.
10
Tức khoa thi tiến sĩ.
11
Nay là huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh.
12
Nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
13
Nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
325 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Ứng Đẩu: Người huyện Sơn Vi2.


Quý Ly sai tướng là bọn Trần Tùng, Đỗ Mẫn đem quân đánh Chiêm Thành, nhưng
không thắng, rút quân về.
Chúa Chiêm Thành là La Ngại mất, con là Ba Đích Lại mới lập làm chúa, Quý Ly muốn nhân cơ
hội ấy để cầu lợi, mới dùng Đỗ Mãn làm đô tướng thủy quân Trần Vấn làm chức phó, Trần Tùng làm Đô
tướng bộ quân, Đỗ Nguyên Thác làm chức phó, quản lĩnh mười lăm vạn quân, tiến đến biên cảnh Chiêm
Thành. Tùng nghe lời Đinh Đại Trung, dẫn đạo quân bộ đi ven theo chân núi, cách xa với đạo quân thủy,
lúc ấy nước lũ đã xô đến, ba ngày tướng sĩ không có lương, phải nướng mai rùa, da thú để ăn3, bèn kéo
quân về. Quý Ly cho rằng Tùng đi con đường hiểm trở, làm trái mất quân cơ, đáng phải tội chết chém,
nhưng vì có công trong lúc ở nơi tiềm để4, nên đem công chuẩn tội, miễn cho tội chết, phải đày làm lính.
Lời chua - Tùng, Vấn: Sau đều được cho đổi họ là họ Hồ (họ Quý Ly).
Quý Ly truyền ngụy vị5 cho con là Hán Thương, tự xưng là thái thượng hoàng, cùng
giữ chính quyền trong nước. Hán Thương lập vợ là Trần Thị làm hoàng hậu.
Hán Thương là con thứ của Quý Ly và là em Nguyên Trừng. Mẹ Hán Thương, Huy Ninh công
chúa, là con gái Trần Minh Tông. Trước kia Quý Ly vẫn có ý muốn lập Hán Thương nối ngôi, nhưng chưa
quả quyết, bèn ngụ ý vào cái nghiên đá, ra một câu đối cho Nguyên Trừng đối lại, để dò xét khí khái
Nguyên Trừng: "Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thời vi vân, vi vũ, dĩ nhuận sinh dân"6. (Viên đá nhỏ bằng
nắm tay, có lúc làm mây, làm mưa, để thấm nhuần cho nhân dân). Nguyên Trừng đối lại: "Giá tam thốn
tiểu tùng, tha nhật tác đống, tác lương, dĩ phù xã tắc"7. (Cây thông nhỏ chừng ba tấc, sau này làm cột,
làm xà, để phù trì xã tắc). Quý Ly bèn lập Hán Thương nối ngôi.
Hán Thương sai sứ sang nhà Minh.
Hán Thương sai sứ sang nhà Minh nói dối là dòng dõi họ Trần đã tuyệt tự, xin lấy danh nghĩa là
cháu ngoại tạm quản lý công việc trong nước.
Đánh thuế thuyền buôn.
Chia các thuyền buôn làm ba hạng: thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng. Thượng đẳng mỗi
chân chèo nộp thuế 5 quan, trung đẳng 4 quan, hạ đẳng 3 quan.
Tân Tị (1401). Hán Thương, năm Thiệu Thành thứ nhất. (Minh, năm Kiến Văn thứ 3).
Tháng 2, mùa xuân. Hán Thương đổi tên lịch Hiệp kỷ8 nhà Trần làm lịch Thuận thiên.
Tháng 3. Sét đánh vào đông cung của Hán Thương.

1
Nay là xã Mê Linh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
2
Nay thuộc huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ.
3
Nguyên văn câu này: "Chính giáp, bì dĩ vi thực". Chữ "giáp" nghĩa đen là con rùa, con ba ba; chữ "bì" nghĩa đen là loài thú đã chết
mà da còn cả lông. Có lẽ lúc ấy đạo quân của Trần Tùng phải vào núi tìm kiếm thức ăn, nhưng chỉ tìm được mai rùa và da loài
thú chưa thối nát đem nướng ăn.
4
Tiềm: Náu hình, ẩn nấp. Để: Một danh từ để gọi dinh thự các vương hầu. Thời đại phong kiến, nhà ở của tước vương khi chưa lên
ngôi vua gọi là "tiềm để", lấy nghĩa chữ "long tiềm tại uyên" (rồng nương mình dưới vực) trong kinh Dịch.
5
Ngụy vị nghĩa đen là ngôi vua giả dối. Theo quan điểm của nho gia phong kiến, thì bầy tôi cướp ngôi vua, không được liệt vào
chính thống, vì thế, nên chép ngôi vua của Quý Ly là "ngụy vị".
6
Theo truyện Công dương thì hơi đá bốc lên trên không thành mây, mây tụ lại thành mưa.
7
Xã tắc là một danh từ tượng trưng cho quốc gia.
Theo Ngô Thì Sĩ, thì Nguyên Trừng biết chắc mình không được nối ngôi, nên ngụ ý vào cây gỗ thông để nói tài mình chỉ đáng giúp
nước, không đáng làm vua. Ngô lại phê phán thêm: Bố con Quý Ly đều là dùng trí thuật lừa dối lẫn nhau.
8
Xem thêm Chính biên quyển IX, tờ 39-40.
326 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Lúc ấy sét đánh chết 3 người.


Tháng 4, mùa hạ. Làm sổ hộ.
Trước đây, Quý Ly bàn mưu với bầy tôi rằng: "Làm thế nào có được trăm vạn quân để đối địch
với giặc phương bắc?". Đồng tri xu mật sứ Hoàng Hối Khanh nhân xin họp nhân số lại làm thành sổ hộ:
từ 2 tuổi trở lên đều ghi vào sổ; người ở kinh kỳ đến trú ngụ các nơi phiên trấn bắt phải về nguyên quán,
kê tên vào sổ, không được ẩn lậu. Khi sổ hộ làm xong, kiểm điểm người từ 15 đến 60 tuổi, được gấp bội
hơn số trước. Từ đấy, tuyển quân lính được thêm nhiều hơn.
Lập phép hạn chế dùng gia nô.
Lúc ấy, bọn Hoàng Hối Khanh, Nguyễn Hi Chu và Đồng Thức lựa theo ý họ Hồ, nên thường
khuyên Hán Thương giết con cháu nhà Trần, giảm bớt số điền nô, để đè nén thế lực họ Trần. Hán
Thương mới lập ra phép hạn chế gia nô. Những người được phép dùng gia nô, cứ theo cấp bậc của mình
mà dùng nhiều dùng ít khác nhau; số gia nô thừa phải đem sung công. Gia nô đều ghi dấu hiệu vào trán.
Lời chua - Ghi dấu hiệu vào trán: Quan nô làm hình dáng "hỏa châu"1; gia nô
của công chúa ghi hình dáng "dương đường" (chưa rõ hình thế nào); gia nô của đại
vương ghi "khoanh đỏ", của quan nhất hay nhị phẩm đều ghi "một khoanh đen", của
quan tam phẩm trở xuống ghi "hai khoanh đen".
Sửa đắp thành Tây Đô.
Trước đây, bên ngoài thành tại kinh đô mới, Quý Ly bắt dân Thanh Hóa trồng tre gai làm như cái
thành bao la ở ngoài và bắc cầu cống, đặt hàng quán, đào khe cừ, để tiện đi lại. Còn thành Tây Đô thì
thân thành đều xây bằng đá, sau lại bị đổ. Nay Hán Thương hạ lệnh cho các lộ nung gạch để sửa đắp lại.
Quy định quan chế và hình luật.
Tháng 10, mùa đông. Hán Thương bổ dụng Nguyễn Phi Khanh làm Hàn lâm viện học
sĩ.
Phi Khanh trước tên là Ứng Long, đỗ thái học sinh triều nhà Trần, lấy con gái Nguyên Đán, Trần
Nghệ Tông lấy cớ là dòng dõi hàn vi mà lại lấy con gái tông thống nhà vua2, nên bỏ không dùng. Đến
nay Hán Thương mới cất nhắc bổ dụng và cho đổi tên là Phi Khanh.
Lời chua - Phi Khanh: Thân phụ Nguyễn Trãi.
Nhâm Ngọ (1402). Hán Thương, năm Thiệu Thành thứ 2. (Minh, năm Kiến Văn thứ 4).
Tháng 2, mùa xuân. Hán Thương duyệt quân đội.
Tháng 6, mùa hạ. Bổ dụng Đồng Thức làm Ngự sử trung tán.
Đồng Thức cũng đỗ thái học sinh triều nhà Trần. Hán Thương ví Đồng Thức như Ngụy Trưng nhà
Đường3, nên ban cho họ là họ Ngụy.
Lời chua - Thức: Người ở Chí Linh, Nam Sách4.
Tháng 7, mùa thu. Hán Thương sai tướng là Đỗ Mãn đánh Chiêm Thành. Chiêm Thành
dâng đất xin hàng, Đỗ Mãn đem quân về.

1
Theo Tùy Đường gia hoại và truyện Nam Man trong Đường thư thì hoả châu là một viên ngọc có sắc óng ánh, sản ở
Lâm Ấp, viên lớn bằng quả trứng gà. Có lẽ lúc bấy giờ theo hình dáng viên ngọc này ghi vào trán những người quan nô.
2
Trần Nguyên Đán là tằng tôn (chắt) Trần Quang Khải, tôn thất nhà Trần.
3
Ngụy Trưng, một tể tướng nhà Đường. Ngụy hình dáng thấp bé, nhưng can ngăn vua một cách mạnh bạo. Thời Đường Thái
Tông, Ngụy dâng hơn hai trăm tờ sớ can ngăn, đều là đích đáng, Thái Tông phải kính sợ.
4
Nay thuộc tỉnh Hải Dương.
327 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

Hán Thương thấy bọn Trần Tùng đi đánh Chiêm Thành không thành công, phải rút về1, lại dùng
Đỗ Mãn làm đô tướng, Nguyễn Vị và Nguyễn Bằng Cử làm chiêu thảo sứ, đem đại quân sang đánh. Khi
đại binh kéo đến biên giới Chiêm Thành, Đinh Đại Trung làm tiên phong, gặp tướng Chiêm Thành là Chế
Thất Nan2, hai bên giao chiến đều bị chết. Chúa Chiêm Thành là Ba Đích Lại hoảng sợ, sai người cậu là
Bố Điền đem dâng các sản vật địa phương và dâng đất Chiêm động; để xin cho rút quân. Khi Bố Điền
đến nơi, Quý Ly bắt ép thay làm tờ biểu khác dâng cả đất Cổ Lũy nữa. Rồi đem hai đất ấy chia làm 4
châu là: Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa, đặt chức An phủ sứ lộ Thăng Hoa để trấn trị, còn ở đầu nguồn thì đặt
làm trấn Tân Ninh.
Lời chua - Chiêm Động: Xem Trần Dụ Tông, năm Đại Trị thứ 10 (Chính biên X,
20).
Cổ Lũy: Xem Trần Dụ Tông, năm Thiệu Phong thứ 13 (Chính biên X, 5).
Tân Ninh: Nay là các đất Chiên Đàn, Ô Da và Thu Bồn tỉnh Quảng Nam.
Bổ dụng Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa.
Cảnh Chân dâng thư xin theo việc cũ nhà Hán, nhà Đường, hiệu triệu nhân dân nộp thóc để việc
phòng bị biên giới được đầy đủ; những người đã nộp thóc thì hoặc ban tước cho, hoặc tha tội cho, tùy
theo số thóc nộp nhiều hay ít. Quý Ly phê vào thư ấy rằng: "Biết được mấy chữ mà dám nói những việc
đời Hán, đời Đường, thật đúng như lời cổ ngữ: "Người ngọng hay nói chỉ tổ làm trò cười mà thôi".
Bổ dụng Chế Ma Nô Đã Nan, người Chiêm Thành, làm Cổ Lũy thượng hầu.
Lúc còn triều nhà Trần, Ma Nô Đã Nan chạy sang nước ta, trao cho làm hiệu chính hầu; đến nay
đổi phong chức này, sai trấn trị hai châu Tư và Nghĩa, để chiêu tập khuyên bảo những người thuộc về
dòng giống Chiêm Thành. Việc này là có ý mưu đồ tiến lấy đất Chiêm.
Lời chua - Ma Nô Đã Nan: Con chúa Chiêm Thành Chế Bồng Nga.
Tháng 8, mùa thu. Hán Thương cử hành lễ tế giao, chưa đến lúc lễ thành đã thôi.
Theo phép cũ3, nghi vệ lễ tế giao4 rất long trọng, chia ra 3 hạng lễ là: lễ lớn, lễ trung bình và lễ
nhỏ.
Lễ lớn: 3 năm một lần cử hành, thiên tử ngồi xe thái bình5, khắc gỗ làm hình 40 người tiên mặc
áo gấm năm màu, cầm cờ tinh dẫn đường đi trước, hoặc thiên tử đi thuyền ở hồ Chu Tước6 dùng gấm
làm dây kéo thuyền.
Lễ trung bình: 2 năm một lần cử hành, thiên tử ngồi cỗ ỷ bách cầm.
Lễ nhỏ: hằng năm cử hành một lần, thiên tử ngồi cỗ ỷ nhỏ.
Lễ tế giao này suốt đời nhà Trần chưa cử hành lần nào, đến nay Hán Thương mới đắp đàn giao
ở Đốn Sơn, chọn ngày lành, đi xe vân long, ra cửa nam thành, trăm quan và cung tần, mạng phụ7 theo

1
Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 37-38.
2
Sách Toàn thư và Đại Việt sử ký bản kỷ đều chép là Chế Cha Nan.
3
Phép cũ ở đây không nói rõ là phép của triều nào, có lẽ đặt từ triều nhà Lý, không phải của nhà Trần. Vì phần dưới đoạn văn này
chép rằng: "Suốt đời triều Trần, chưa cử hành lễ tế này".
4
Giao là một nơi xa kinh thành phỏng trăm dặm. Đời cổ, gặp tiết đông chí, vua tế trời ở Nam Giao, gặp tiết hạ chí, tế đất ở Bắc
Giao, nên tế trời đất gọi là lễ tế giao.
5
Xe thái bình chế từ triều Lý, xem Chính biên quyển III, tờ 12.
6
Hồ Chu tước thuộc phường Bích Câu, xem Chính biên quyển XXVI, tờ 29.
7
Đàn bà được vua phong hiệu cho gọi là mạng phụ. Có 2 hạng mạng phụ là: nội mạng phụ và ngoại mạng phu. Nội mạng phụ là
những người được phong hiệu ở trong cung, như bọn phi tần, ngoại mạng phụ là công chúa, vợ tước vương và đàn bà nhờ chồng
mà được phong, như quận quân, hiệu quân, phu nhân, nhụ nhân, ...
328 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XI

thứ tự đi sau. Mũ áo đàn bà, kém mũ áo của chồng một bậc, người đàn bà nào chính bản thân làm nên
sang hiển, thì mũ áo không phải kém mũ áo của chồng. Lúc làm lễ, Hán Thương vì dâng chén rượu, run
tay, rượu đổ xuống đất, nên thôi không làm trọn lễ.
Quy định lại phép đánh thuế tô1 và thuế dung2.
Trước kia, về triều nhà Trần, tư điền của dân cứ mỗi mẫu thu thóc 3 thăng; đất bãi trồng dâu,
mỗi mẫu thu tiền 9 quan hoặc 7 quan. Đinh nam mỗi năm nộp tiền 3 quan3. Đến nay Hán Thương thay
đổi lại cho thi hành: mỗi mẫu ruộng thu thóc 5 thăng; đất bãi trồng dâu chia ra 3 bậc: bậc cao nhất mẫu
mẫu thu 5 quan, bậc trung bình mỗi mẫu 4 quan, bậc thấp nhất mỗi mẫu 3 quan. Thuế đinh nam thì căn
cứ vào số ruộng để đánh thuế: người nào có ruộng từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu tiền 3 quan; người nào
ruộng kém số ấy sẽ được giảm bớt dần; người không có ruộng cùng trẻ bồ côi và đàn bà góa mà có
ruộng đều được miễn thuế dung.

1
Thuế ruộng đất.
2
Thuế lực dịch.
3
Xem thêm Chính biên quyển V, tờ 22-23 về phép thuế khóa triều nhà Trần.
329 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục


Chính Biên

Quyển thứ XII


Từ Quý Mùi (1403), Hồ Hán Thương năm Khai Đại thứ nhất, đến hết Đinh Dậu (1417), thuộc
Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 15, gồm 15 năm.
”
Quý Mùi (1403). (Hán Thương, năm Khai Đại thứ nhất; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ nhất).
Tháng 2, mùa xuân. Hán Thương dời dân đi Thăng Hoa.
Trước đây, Chiêm Thành dâng đất Chiêm Động và Cổ Lũy, họ dời hết dân đi nơi khác mà bỏ đất
không; Quý Ly chia đất ấy làm lộ Thăng Hoa1. Đến nay mới đem dân các lộ, người nào không có ruộng
mà có của đến đấy để ở. Người mới đến cùng với người cũ của lộ ấy còn sót lại đều biên tên vào quân
ngũ, nhưng thích hai chữ tên châu hiện ở2 vào cánh tay. Năm sau, lại cho vợ con những người đã di đến
khi trước đi theo. Những người này, lúc đi đường biển gặp gió bão, bị chết đuối nhiều. Lòng dân rất là
náo động.
Đặt tứ phụ3 ở kinh kỳ.
Cơ sở ở Tây Đô đã xây dựng xong, Hán Thương lại đổi phủ Thanh Đô làm phủ Thiên Xương, phủ
Diễn Châu làm phủ Linh Nguyên, hợp với Cửu Chân, Ái Châu gọi là "tứ phụ", đổi tên núi Đại Lại làm núi
Kim Âu.
Lại đặt chức Thị giám4 ở kinh kỳ, ban phát cân, thước, thưng, đấu, định giá trị tiền giấy để buôn
bán được lưu thông. Lúc ấy những người buôn bán phần nhiều chê tiền giấy nát, nên lập điều luật để bắt
tội người nào chê bai tiền giấy, làm cao giá hàng hoặc đóng cửa hàng và người nào giúp đỡ bênh vực
những việc ấy.
Lời chua - Cửu Chân: Xem Trần Duệ Tông, năm Long Khánh thứ 3 (Chính biên
XI, 37).
Ái Châu: Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính
biên XXI, 20-21).
Diễn Châu: Xem thuộc Đường, Cao Tông, năm Điều Lộ thứ nhất (Tiền biên IV,
20).
Hán Thương lập nhà Thái Miếu và các Tẩm Miếu5.
Hán Thương hạ lệnh ở kinh thành đặt Đông thái miếu để thờ phụng tiên tổ nhà mình, Tây thái
miếu để thờ phụng thân thích bên ngoại là Minh Tông, Nghệ Tông nhà Trần; mồ mả các tiên tổ ở phủ
Thiên Xương và Linh Nguyên đều gọi là lăng, thiết lập tẩm miếu.

1
Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 42, việc đặt lộ Thăng Hoa.
2
Lộ Thăng Hoa thống hạt bốn châu là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, nay dân ở châu nào thích hai chữ tên châu vào cánh tay, như chữ
"Thăng Châu, Nghĩa Châu", ...
3
Đời cổ, những địa điểm ở gần kinh kỳ gọi là "phụ", ý nói những địa điểm ấy có trách nhiệm giúp đỡ kinh kỳ.
4
Một chức giữ việc trông coi các nơi buôn bán.
5
Quy chế về tôn miếu đời cổ, ngôi nhà dựng đằng trước gọi là miếu, đằng sau gọi là tẩm.
330 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Sứ thần nhà Minh sang.


Thành tổ nhà Minh mới lên ngôi vua, Hán Thương sai sứ sang mừng việc đăng quang và xin
phong tước. Nhà Minh sai hành nhân1 là Dương Bột đem sắc thư sang dụ bồi thần2 và phụ lão trong
nước phải xét xem dòng dõi nhà Trần có còn hay không, lời tâu của Hán Thương3 thực hay giả, đều phải
tâu bày sự thực. Hán Thương lại sai sứ theo sang triều đình nhà Minh đệ nộp tờ trạng cam đoan của bồi
thần và phụ lão nhận là đúng như lời tâu trước của Hán Thương. Vua nhà Minh tin là thực, phong Hán
Thương làm An Nam quốc vương. Từ đấy, sứ thần nhà Minh đi lại nước ta như mắc cửi, nào yêu cầu,
nào hạch sách, Hán Thương phải khổ sở về sự ứng tiếp.
Sai Phạm Nguyên Côi và Đỗ Mẫn sang đánh Chiêm Thành, không được thắng lợi, rút
quân về.
Hán Thương đã lấy được đất Chiêm Động và Cổ Lũy, có ý muốn lấy hết cả đất của người Chiêm
Thành, dự định chia các đất ở phía nam châu Tư, châu Nghĩa là Bản Đạt Lang, Hắc Bạch và Sa Li Nha
làm châu huyện. Mới bổ dụng Phạm Nguyên Côi làm đô tướng quân thủy, Hồ Vấn làm phó; Đỗ Mẫn làm
đô tướng quân bộ, Đỗ Nguyên Thác làm phó. Quân thủy, quân bộ tất cả 20 vạn, đều phải chịu dưới
quyền điều khiển của Nguyên Côi; người nào ra trận mà nhút nhát sẽ xử trảm, điền sản và vợ con sung
công. Khi quân đã đến Chiêm Thành, sắm sửa nhiều khí giới chiến đấu, bao vây thành Chà Bàn4, vì quân
đi đã chín tháng, bị hết lương ăn, lại không hạ được thành, nên phải kéo về.
Trước đây, người Chiêm Thành cầu cứu với nhà Minh, nhà Minh dùng 9 chiếc binh thuyền vượt
biển sang cứu, gặp đạo quân của bọn Nguyên Côi, người nhà Minh bảo Nguyên Côi rằng: "Nên rút quân
về ngay, không nên ở lại nữa". Khi bọn Nguyên Côi về đến kinh thành, Quý Ly quở trách về tội không sao
giết hết được quân nhà Minh, còn Nguyên Trác vì trái tướng lệnh, nên phải tội đày làm lính.
Lời chua - Thành Chà Bàn: Xem Trần Duệ Tông, năm Long Khánh thứ 5 (Chính
biên X, 41).
Bản Đạt Lang, Hắc Bạch, Sa Li Nha: Vì sự thay đổi, nay không rõ ở đâu.
Bắt đầu đặt quan chức và liêu thuộc trong bộ thự5 Quảng Tế.
Người phương sĩ6 là Nguyễn Đại Năng biết dùng lối châm cứu để chữa bệnh. Hán Thương bổ
dụng Đại Năng giữ chức tá nhị ở bộ thự Quảng Tế. Bộ thự Quảng Tế có đặt quan chức và liêu thuộc bắt
đầu từ đây.
Lời chua - Bộ thự Quảng Tế: Tức tơ tào7 thuộc về ngành y tế.
Đại Năng: Người ở Giáp Sơn8, thuộc Hải Dương.
Giáp Thân (1404). (Hán Thương, năm Khai Đại thứ 2; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 2).
Tháng 2, mùa xuân. Hán Thương sai sứ sang nhà Minh.

1
Tên quan, giữ việc lễ nghi, triều yết và giao thiệp với nước ngoài.
2
Đời cổ, bầy tôi của vua nước chư hầu đối với thiên tử Trung Quốc tự xưng là "bồi thần".
3
Hán Thương sai sứ sang nhà Minh tâu là dòng dõi họ Trần bị tuyệt tự, Hán Thương tự lấy tư cách là cháu ngoại tạm giữ công việc
trong nước. Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 39.
4
Cũng gọi là Đồ Bàn.
5
Nguyên văn chép chữ "thự", nghĩa là một đơn vị hành chính.
6
Người dùng phương thuật chữa bệnh theo phương pháp ngoại khoa.
7
Nguyên văn chép chữ "ti", chữ này đến triều nhà Nguyễn gọi là "tơ", đơn vị hành chính của tỉnh, như tơ phiên, tức bộ phận của
bố chính; tơ niết, tức bộ phận của án sát.
8
Cũng đọc là Hiệp Sơn.
331 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Trước đây, Chiêm Thành dâng nước ta hai thớt voi để xin hoãn binh, sau dùng lời trí trá tâu với
nhà Minh rằng: "Bị nhà Hồ lấn đất và đòi lấy voi của nước ấy định làm lễ cống nhà Minh". Đến nay, nhà
Minh sai sứ sang hỏi, Hán Thương sai Phan Hòa Phủ đem con voi mà Chiêm Thành đã dâng khi trước
đưa sang cho nhà Minh.
Định lại phép thi.
Hán Thương phỏng theo phép ba kỳ thi ở thời nhà Nguyên, chia làm bốn kỳ, lại thêm một kỳ thi
viết chữ và tiính, cộng thành năm kỳ thi. Cứ ba năm một lần mở khoa thi, năm nay thi hương, người nào
trúng tuyển được miễn dao đài tạp dịch, đến năm sau thi ở bộ Lễ, người nào trúng tuyển được lựa chọn
bổ dụng, lại năm sau nữa thi hội, người nào trúng tuyển được sung vào Thái học sinh. Lúc ấy sĩ tử mới
do bộ Lễ thi, gồm 170 người được trúng tuyển, chưa kịp thi hội, sau vì việc quân nhà Minh sang xâm lấn,
nên thôi không thi nữa.
Lời chua - Theo Thông giám tập lãm thì năm Hoàng Khánh thứ 3 (1314) đời
Nhân Tông nhà Nguyên mới định phép thi, cứ tháng 8 năm trước, các quan quận huyện
trong nước đề cử những người hiền tài trong quận huyện mình lên triều đình, đến tháng
2 năm sau, thi hội ở kinh sư, người nào trúng tuyển sẽ được vua thân hành ra bài thi: kỳ
đệ nhất, thi hai bài minh kinh và kinh nghi; kỳ đệ nhị, thi các bài phú, chiếu, cáo, chương
và biểu theo cổ thể; kỳ đệ tam, thi một bài văn sách, hỏi về kinh sử và thời sự.
Định lại hiệu quân.
Trước đây, xét định quân ngũ, chọn người nào mạnh khoẻ mà nhà nghèo sung vào quân trợ
dịch, sau đổi làm quân bồi vệ. Đến nay chia quân ra tả và hữu, dùng tên loài lân, loài phượng để đặt tên
hiệu quân, chọn các quan văn võ người cùng họ với họ Hồ để quản lĩnh.
Đào Liên Cảng, không thành công.
Quý Ly sai đào Liên Cảng từ Tân Bình đến giáp giới Thuận Hóa, để việc chuyên chở được tiện lợi,
nhưng vì bùn cát cứ nổi bềnh lên, nên không thành công, phải bỏ.
Lời chua - Liên Cảng: Nay ở xã Thủy Liên, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Đóng thuyền chiến.
Lúc ấy, nhà Minh muốn gây việc binh đao. Hán Thương hạ lệnh đóng thuyền đinh sắt, đặt hiệu
thuyền là "tải lương cổ lâu". Thuyền ấy ở bên trên bắc tre làm đường đi lại, bên dưới hai người chèo một
mái chèo, có thể tiện lợi cho việc chiến đấu; tuy mượn tiếng vận tải để đặt tên thuyền, nhưng thực ra là
để phòng bị quân nhà Minh.
Sứ thần nhà Minh sang.
Trước đây, Trần Khang1, gia nô nhà Trần Nguyên Huy, vì là bè đảng của Trần Tôn2, nên trốn
sang Lão Qua. Nay Trần Khang theo đường Vân Nam đến Yên Kinh, đổi tên là Thiêm Bình và nói dối là
con Trần Nghệ Tông, tố cáo công việc lấn cướp, bạo nghịch và lừa dối của Quý Ly. Vua nhà Minh sai ngự
sử là Lý Kỳ sang nước ta tra hỏi. Khi Lý Kỳ đã sang qua quan ải, đánh đập những người hộ tống, bắt phải
đi thật nhanh cho được đường, không kể gì nhật trình đã định; khi đến quán sứ, lại đi xem xét tình thế
khắp nơi rồi trở về. Quý Ly sợ lộ việc sai người đuổi theo để giết đi; lúc theo đến Lạng Sơn, thì Kỳ đã
sang qua quan ải bên kia rồi. Kỳ về triều, đem hết cả tình trạng gian dối của Hán Thương tâu bày cho
vua nhà Minh biết.

1
Trần Tôn nguyên trước giữ chức thiếu bảo triều nhà Trần, lúc quân Chiêm Thành sang lấn cướp, Tôn ngầm thông mưu với giặc,
khi giặc rút lui, Trần Thuận Tông hạ chiếu bắt để trị tội, Tôn nhảy xuống nước tự tử, còn bè đảng là Trần Khang chạy sang Lão
Qua. Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 13.
2
Trần Tôn nguyên trước giữ chức thiếu bảo triều nhà Trần, lúc quân Chiêm Thành sang lấn cướp, Tôn ngầm thông mưu với giặc,
khi giặc rút lui, Trần Thuận Tông hạ chiếu bắt để trị tội, Tôn nhảy xuống nước tự tử, còn bè đảng là Trần Khang chạy sang Lão
Qua. Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 13.
332 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Lời chua - Thiêm Bình: Sử nhà Minh chép là Thiên Bình.


Lão Qua: Xem Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 3 (Chính biên XI, 13).
Ất Dậu, (1405). (Hán Thương, năm Khai Đại thứ 3; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 3).
Tháng 2, mùa xuân. Hán Thương sai Hoàng Hối Khanh cắt đất nhường cho nhà Minh.
Trước đây, Hoàng Quảng Thành, thổ quan châu Tư Minh, tâu với vua Minh rằng Lộc Châu
nguyên là đất cũ của châu Tư Minh. Vua nhà Minh sai người sang nước ta dụ bảo trả lại đất ấy cho châu
Tư Minh, nhưng Quý Ly không nghe. Nay lại sai sứ thần sang đòi, Quý Ly cho Hối Khanh sung làm cát
địa sứ1. Hối Khanh đem đất 59 thôn ở Cổ Lâu trả cho nhà Minh; sau Quý Ly quở trách Hối Khanh về tội
trả đất quá nhiều. Những thổ quan do nhà Minh đặt ra để giữ đất mới nhượng ấy, Quý Ly ngầm sai
người bản thổ đánh thuốc độc cho chết.
Lời chua - Tư Minh: Nay thuộc tỉnh Quảng Tây nhà Thanh. Sách Việt thuật nói:
"Lộc châu thuộc về Tư Minh, sau bị mất về Giao Chỉ, gần đây lại khám xét rõ ràng, lấy lại
như cũ, nay lệ thuộc vào châu Tây Long2 và huyện Tây Lâm3 là nơi mới đặt". Thế thì đất
Cổ Lâu mà Quý Ly cắt ra để nhường cho nhà Minh có lẽ là chỗ này.
Có nạn đói. Hạ lệnh cho dân các lộ phải bán thóc.
Các quan ở lộ, phủ, châu và huyện kiểm tra số thóc của nhà giàu, bảo họ bán cho dân theo giá
hai bên cùng thỏa thuận. Bán nhiều hay ít tùy theo số thóc hiện có.
Tháng 6, mùa hạ. Sét đánh vào đông cung của Hán Thương. Hạ chiếu trưng cầu lời nói
thẳng; Ân xá.
Đặt bốn kho quân khí.
Dân đinh người nào có tài nghệ khéo, đều sung vào làm việc công, sửa chữa chế tạo khí giới để
đồ quân dụng được đầy đủ.
Tháng 7, mùa thu. Hán Thương đi tuần du xem xét núi sông ở kinh lộ và các cửa biển;
tháng 8, trở về kinh đô.
Trước đây, Hán Thương sai đóng cọn gỗ ở nơi xung yếu tại các cửa biển và sông cái để phòng bị
chống cự quân giặc; đến nay lại thân đi xem xét việc này, là có ý muốn biết được nơi nào hiểm trở, nơi
nào bình thường.
Nhà Minh sai bọn hoạn quan Nguyễn Toán sang nước ta.
Trước kia, Thái tổ nhà Minh sai người sang nước ta bắt phải nộp người thày chùa, người hỏa giả4
và gái đẹp đấm bóp5, Đế Hiện nhà Trần sai tìm những hạng người ấy đem nộp. Trong số đó có hoả giả là
bọn Nguyễn Toán, Nguyễn [Tông] Đạo, Từ Cá và Ngô Tín. Sau nhà Minh cho bọn thầy chùa và tú nữ trở
về, chỉ để lại bọn hỏa giả sung vào chức nội quan. Nay nhà Minh cho rằng bọn Nguyễn Toán am hiểu núi
sông nước ta, nên sai sang để dòm dỏ tình thế trong nước.
Tháng 9. Hán Thương định lại quy chế quân ngũ.
Quân ngũ: nam và bắc chia làm 12 vệ, đông và tây chia làm 8 vệ, mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18
người, đại quân 30 đội, trung quân 20 đội, doanh 15 đội, đoàn 10 đội, cấm vệ đô 5 đội; có đại tướng
quân thống lĩnh.

1
Sứ thần nhận trách nhiệm cắt đất nhường cho nhà Minh.
2
Nay đều là huyện và đều thuộc đạo Điền Nam, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
3
Nay đều là huyện và đều thuộc đạo Điền Nam, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
4
Người bị thiến mất bộ phận sinh dục.
5
Nguyên văn chép là "án ma tú nữ".
333 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Sai sứ sang nhà Minh.


Hán Thương thường bị nhà Minh tra hỏi, nên sai tả ti lang trung Phạm Canh, thông phán Lưu
Quang Đình sang nhà Minh dâng lễ cống và tạ lỗi. Việc này là có ý muốn dập tắt việc binh hỏa. Nhà Minh
giữ Canh ở lại mà cho Quang Đình về.
Ban tước cho phụ lão các lộ và cho hội họp uống rượu.
Quý Ly thấy mình tuổi đã 70, nên ban ơn cho phụ lão các lộ, những người từ 70 tuổi trở lên, đàn
ông được ban tước một tư1, đàn bà được ban cho tiền giấy; phụ lão ở kinh thành được ban tước và được
hội họp uống rượu.
Đắp thành Đa Bang.
Hán Thương nhận thấy nếu quân nhà Minh kéo sang, thì Đa Bang chính là địa điểm xung yếu
nhất, nên sai Hoàng Hối Khanh đắp thành để hãn ngữ; lại phân phối các vệ quân ở Đông Đô2 đi đóng cọc
ở sông Bạch Hạc để hãn ngữ cánh quân nhà Minh từ mặt Tuyên Quang tiến sang.
Lời chua - Thành Đa Bang: Nay ở xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây.
Sông Bạch Hạc: Xem Trần Thánh Tông, năm Thiệu Long thứ 5 (Chính biên VII,
4-5).
Hội họp các quan văn võ trong kinh thành và ngoài các lộ bàn về kế hoạch nên đánh
hay nên hòa.
Hán Thương hạ lệnh các viên An phủ sứ ở các lộ về triều để cùng với các quan trong kinh bàn về
kế hoạch nên đánh hay nên hòa. Lúc ấy có người khuyên nên đánh, nói: "Không nên để quân Minh kéo
vào nước sẽ làm mối lo sau này". Nguyễn Quân, trấn thủ Bắc Giang, cho rằng hãy nên tạm hòa, chiều
theo ý muốn bên địch, để hoãn binh, thì hơn. Tả Tướng quốc là Trừng nói: "Tôi không sợ đánh, chỉ sợ
lòng dân có theo hay không theo mà thôi". Quý Ly đem cái hộp bằng vàng ban cho Trừng.
Bính Tuất (1406). (Hán Thương, năm Khai Đại thứ 4; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 4).
Tháng 4, mùa hạ. Nhà Minh sai đốc tướng là bọn Hàn Quan và Hoàng Trung đem quân
hộ tống Trần Thiêm Bình về nước ta; Hán Thương sai người đón đường giết đi.
Trước đây, Thiêm Bình nói dối vua nhà Minh rằng: "Dòng dõi họ Trần chỉ còn một mình tôi, tôi
cùng giặc nhà Hồ không đội trời chung được, dám xin nhà vua xuất phát ngay sáu quân3 đánh kẻ có tội
để tỏ rõ oai trời".
Sau khi Lý Kỳ trở về Trung Quốc4, Hán Thương liền sai Nguyễn Cảnh Chân dâng tờ biểu tạ tội và
xin đón Thiêm Bình về tôn lên làm chúa. Vua nhà Minh sai hành nhân5 là Niếp Thông đem tờ sắc sang dụ
Hán Thương: "Nếu quả đón Thiêm Bình về tôn làm chúa, thì sẽ ban cho khanh tước thượng công và
phong cho một quận lớn". Hán Thương lại sai Cảnh Chân theo Niếp Thông sang báo cáo về việc đón
Thiêm Bình.
Đến nay, vua nhà Minh sai bọn Hàn Quan đem 5000 quân hộ tống Thiêm Bình về nước. Hàn
Quan đóng ở lại địa đầu biên giới không tiến quân, chỉ một mình Hoàng Trung đem quân đánh vào cửa
ải Linh Kênh. Quân nhà Hồ bị thua, đại tướng Phạm Nguyên Côi và tướng quân Chu Bỉnh Trung đều tử
trận. Gặp lúc ấy viên tướng quản lĩnh quân Thánh Dực là Hồ Vấn từ Vũ Cao bất thình lình dẫn quân đến,

1
Xem chú thích số 2 ở Chính biên quyển VII, tờ 4.
2
Tức Thăng Long.
3
Xem chú thích số 3 ở Chính biên quyển IX, tờ 34.
4
Xem thêm Chính biên quyển XII, tờ 6.
5
Xem chú thích số 3 ở Chính biên quyển XII, tờ 2.
334 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

thành ra quân nhà Minh bị thua to, nửa đêm bỏ trốn. Trước đấy viên tướng trong quân Thánh Dực là Hồ
Xạ và Trần Đĩnh đã đem quân chặn cửa ải Chi Lăng, quân nhà Minh không sao tiến lên được. Hoàng
Trung sai người thầy thuốc trong quân ngũ là Cao Cảnh Chiếu đưa thư và giải Thiêm Bình sang bên quân
nhà Hồ. Trong thư nói: "Theo lời Thiêm Bình, hắn chính là con vua An Nam, nếu đưa hắn về nước, thì đi
đến đâu không ai là không hưởng ứng. Thế mà từ khi đưa hắn về nước đến nay, trong nước không một
người nào theo cả, như thế tỏ ra là gian dối. Nay đưa Thiêm Bình trả lại, xin để cho quân lính được ra
khỏi quan ải". Hồ Xạ nhận lời, bèn giải nộp Thiêm Bình để tâu công chiến thắng. Hán Thương sai chém
Thiêm Bình, thưởng cho người có công đều được tước ba tư1. Hồ Xạ vì cớ không bắt được Hoàng Trung
nên chỉ được thưởng tước 2 tư. Các quan văn võ dâng biểu mừng, Hán Thương từ chối không nhận.
Lời chua - Chi Lăng: Xem Lê Đại Hành, năm Thiên Phúc thứ 2 (Chính biên I, 17,
18).
Linh Kênh2: Xem Lý Nhân Tông, năm Quảng Hựu thứ 5 (Chính biên III, 47).
Vũ Cao: Không rõ ở đâu.
Hán Thương sai sứ thần sang nhà Minh.
Sau khi Hán Thương đã giết Thiêm Bình, liền dùng An phủ sứ ở Tam Giang là Trần Cung Túc làm
chánh sứ và thông phán ở Ái Châu là Mai Tú Phu làm phó sứ, Thiêm phán là Tưởng Tư làm tòng sự, cùng
đi sang nhà Minh biện bạch việc gian trá giả mạo của Thiêm Bình và xin được đi lại cống nạp như cũ.
Nhà Minh giữ cả sứ giả lại, không cho về.
Mộ thêm quân lính.
Hán Thương cho rằng quân nhà Minh bị thua một trận, tất nhiên sẽ lại kéo sang, nên hạ lệnh cho
người có phẩm tước chiêu mộ những người trốn tránh phiêu lưu làm quân dũng hãn, đặt chức thiên hộ,
bá hộ để cai quản. Lại sai đóng cọc gỗ ở bờ phía nam sông Nhị Hà nối tiếp nhau suốt hơn bảy trăm dặm;
ở các sông và cửa biển đều hạ cây xuống để ngăn cản. Lại hạ lệnh cho dân Bắc Giang và Tam Đái dựng
nhà cửa ở nơi đất hoang rậm rạp về bờ phía nam sông Cái, dự bị làm chỗ di cư trong khi phải rút lui.
Lời chua - Bắc Giang: Tức Kinh Bắc. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận
thứ 1 (Chính biên XXI, 28-29).
Tam Đái: Xem ngang với Tống Thái Tổ, năm Kiến Đức thứ 4 (Tiền biên V, 29-
30).
Tháng 9, mùa thu. Nhà Minh sai đại tướng quân Chu Năng, phó tướng quân là bọn
Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân sang đánh Hồ Hán Thương.
Trước kia, bọn hoạn giả Nguyễn Toán nói nước ta giàu có phồn thịnh; người nhà Minh đã có ý
muốn chiếm lấy. Đến lúc Hán Thương lấn cướp ngôi vua nhà Trần, làm việc thí nghịch, nhà Minh thường
sai người tra hỏi, muốn mược cớ để gây việc binh đao. Nay Hán Thương lại giết Thiêm Bình, nên vua nhà
Minh quyết kế cho quân sang đánh, bèn dùng Thành Quốc công Chu Năng làm đại tướng, Tân Thành
hầu Trương Phụ, Tây Bình hầu Mộc Thạnh làm tả hữu phó tướng, Phong Thành hầu Lý Bân, Vân Dương
bá Trần Húc làm tả hữu tham tướng, chia quân làm hai đạo, hẹn ngày cùng xuất phát. Khi tiến quân đến
Long châu, Chu Năng chết, Trương Phụ được bổ lên thay. Phụ bèn theo đường Bằng Tường thuộc Quảng
Tây tiến quân đến quan ải Pha Lũy, kéo thẳng đến sông Phú Lương; tả phó tướng Thạnh cũng từ đường
Mông Tự thuộc Vân Nam tiến quân đánh quan ải Phú Lệnh, kéo thẳng đến sông Thao. Hai đạo quân
cùng hội họp ở sông Bạch Hạc, đóng từng hàng đồn ở bờ phía bắc sông. Hán Thương hạ lệnh cho tả
tướng quốc Nguyên Trừng3, đại tướng Hồ Đỗ đem quân thủy, quân bộ ra chống cự.

1
Xem chú thích số 2 ở Chính biên quyển VII, tờ 4.
2
Chính biên quyển III, tờ 47 chép là Lãnh Kênh.
3
Tả tướng quốc Nguyên Trừng ở đây với tả tướng quốc Trừng ở tờ 10 ở trên là một người, tức là con trưởng của Quý Ly. Ở đây,
Cương mục in lầm là Nguyễn Trừng.
335 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Trước đây, quân nhà Minh tiến vào biên giới nước ta, đã dự bị treo bảng văn kể tội nhà Hồ, lại
nói phao lên là sẽ lập con cháu họ Trần để nối lại tông thống đời đã mất mà cứu vớt lấy dân. Đến nay
bọn Phụ và Thạnh chia ra viết những lời lẽ ở bảng văn ấy vào nhiều miếng ván gỗ, rồi thả xuống sông
cho nước thuận dòng trôi xuống. Vì thế quân lính của Hán Thương trông thấy, không ai có chí khí chiến
đấu. Bọn Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân đều là những người bất mãn với nhà Hồ, đón
quân Minh để đầu hàng; người nhà Minh đều trao cho quan tước.
Lời phê1 - Minh Yên Lệ2 với Hồ Quý Ly cũng chẳng khác gì nhau. Tự thân mình
đã không chính trực, dầu có mệnh lệnh cũng không thi hành được. Sao không tự xét
mình xem sao đã? Hai người này đều là bọn tham tàn mà thôi.
Lời chua - Long châu, Bằng Tường: Thuộc phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây nhà
Thanh, đều tiếp giáp với biên giới tỉnh Lạng Sơn nước ta.
Mộng Tự: Tên huyện, thuộc phủ Lâm An, tỉnh Vân Nam, tiếp giáp với tỉnh Hưng
Hóa3 nước ta.
Pha Lũy quan: Ở xã Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn, nay là Nam
Quan4.
Phú Lệnh quan: Thuộc tỉnh Tuyên Quang.
Mạc Địch, Nguyễn Huân: Đều người ở Chí Linh thuộc Nam Sách.
Tháng 12, mùa đông. Quân nhà Minh đánh phá được thành Đa Bang5, liền chiếm lấy
Đông Đô6.
Quân của Hán Thương cầm cự với quân nhà Minh, muốn cố thủ nơi hiểm trở, không ra đánh, để
làm cho quân nhà Minh mòn mỏi. Mộc Thạnh bàn với Trương Phụ rằng: "Những hàng rào gỗ mà bên
địch7 dựng lên đều sát liền sông, quân ta không thể tiến lên được; chỉ có Đa Bang là nơi đất cát bằng
phẳng có thể đóng quân, chỗ ấy tuy thành đất khá cao, bên dưới có mấy tầng hào, nhưng khí giới đánh
thành của ta đều đầy đủ, đánh mà chiếm lấy cũng có phần dễ". Phụ bèn hạ lệnh rằng: "Quân giặc8 chỉ
cậy có thành này, mà chúng ta lập công cũng ở một trận này; tướng sĩ nào trèo lên thành được trước, sẽ
đặc cách hậu thưởng không câu nệ theo thứ bậc thông thường". Hạ lệnh xong, sai quân nhân đêm tối
đánh úp thành, dùng cách đốt lửa sáng và thổi tù và để báo hiệu với nhau. Trương Phụ chỉ huy đô đốc
Hoàng Trung đánh mặt tây bắc, Mộc Thạnh chỉ huy đô đốc Trần Tuấn đánh mặt đông nam, dùng vân
thê9 để sát vào thành mà trèo lên. Quân nhà Hồ chống cự không được, rút lui vào thành. Sáng hôm sau,
quân nhà Hồ khoét thành lùa voi ra đánh. Quân nhà Minh dùng những bức vẽ có hình sư tử trùm cho
ngựa để xông vào, lại có súng thần cơ hỏa khí yểm hộ: voi phải co vòi lùi về, quân nhà Minh theo voi tiến

1
Chỉ việc vua nhà Minh tra hỏi việc Quý Ly lấn cướp thí nghịch.
2
Con thứ tư Minh Thái Tổ, được phong là Yên vương ở Bắc Bình, nên gọi là Yên Lệ. Sau khi Minh Thái Tổ mất, Kiến Văn đế lên nối
ngôi, Lệ đem quân vào kinh sư, đuổi Kiến Văn đế, cướp ngôi vua, tức là Minh Thành Tổ, một tên vua đã sai binh tướng sang đánh
chiếm nước ta.
3
Bây giờ là biên giới Lào Cai.
4
Bây giờ là Mục Nam quan.
5
Xem thêm Chính biên quyển XII, tờ 9, về địa điểm thành Đa Bang.
6
Tức Thăng Long.
7
Chỉ quân nhà Hồ.
8
Chỉ quân nhà Hồ.
9
Vân thê nghĩa đen là thang mây, một quân khí đời cổ dùng để đánh thành, sở dĩ gọi tên là vân thê, ý nói cái thang cao lắm, có
thể trèo lên đến mây được. Theo sách Vũ bị chí, cách chế tạo vân thê như thế này: Dùng phiến gỗ lớn làm cái bàn, dưới cái bàn
có sáu bánh xe, trên cái bàn đặt hai cái thang, mỗi cái dài hơn hai trượng, hai cái thang đều có trục chuyển động, có thể dựng
cao lên hoặc hạ thấp xuống được. Khi đã đem vân thê đến thành bên địch, thì kéo trục cho hai cái thang đứng ngược lên, rồi
quân sĩ trèo lên thang ấy để dòm ngó vào trong thành.
336 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

vào. Thành bị vỡ, các đạo quân khác của nhà Hồ ở ven sông đều tan rã, lui về giữ sông Hoàng Giang.
Quân nhà Minh nhân thế thắng, cứ theo dọc sông Phú Lương kéo xuống. Đi đến đâu, chúng đốt những
hàng rào bằng gỗ, tiến thẳng đến Đông Đô, bắt cướp con gái, vàng, lụa, tính toán lương thực tích trữ,
phân phối chức quan giữ việc, chiêu tập dân phiêu lưu, làm kế đóng giữ lâu dài.
Lời chua - Hoàng Giang: Xem Trần Thái Tông, năm Nguyên Phong thứ 7 (Chính
biên VI, 44).
Đinh Hợi (1407). (Trần Đế Ngỗi, năm Hưng Khánh thứ 1. Từ tháng 10 trở về trước
thuộc về Hán Thương, năm Khải Đại thứ 5. - Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 5).
Tháng 2, mùa xuân. Mộc Thạnh nhà Minh đánh cho quân nhà Hồ bị thua to ở sông
Mộc Hoàn; quân nhà Hồ rút lui, giữ cửa biển Đại An.
Mộc Thạnh, tả phó tướng nhà Minh, nghe biết Hồ Nguyên Trừng đóng quân ở Hoàng Giang, bèn
đem quân thủy, quân bộ đều tiến, đến sông Mộc Hoàn, đóng dinh trại đối ngạn với sông Hoàng Giang.
Nguyên Trừng dùng ba trăm chiếc thuyền lớn tung quân ra đánh, quân của Thạnh ở hai bên bờ sông
đánh khép lại: quân của Nguyên Trừng bị thua to, lui về giữ cửa Muộn Hải. Hồ Đỗ và Hồ Xạ bỏ bến Bình
Than, cũng chạy đến cửa Muộn, hết sức đắp đồn lũy, để tính kế cầm cự lâu dài, gặp lúc quân nhà Minh
đuổi đến nơi, lại phải lui giữ cửa biển Đại An. Thị trung Trần Nguyên Chỉ, Trung thư lệnh Trần Sư Hiền và
người ở Kiến Hưng1 là Nguyễn Nhật Kiên cũng tụ tập dân chúng, bắt giết viên trấn phủ2 rồi đều đầu hàng
quân nhà Minh.
Quân hai bên đối lũy, ngày đêm đánh nhau, gặp lúc ấy mưa nắng thất thường, sinh ra tật dịch.
Quân nhà Minh thấy rằng cửa Muộn Hải đất ẩm thấp, không thể đóng quân lâu được, giả vờ đem quân
rút lui, đến cửa Hàm Tử, đóng dinh trại kiên cố để đợi quân địch. Hồ Nguyên Trừng cũng đón Quý Ly và
Hán Thương từ Tây Đô đến, lại tiến quân đóng ở Hoàng Giang, để cầm cự với quân nhà Minh.
Lời chua - Sông Mộc Hoàn: Ở xã Mộc Hoàn3, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Nội4.
Sông này tiếp giáp với Hoàng Giang.
Cửa Muộn Hải: Ở địa phận huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, nay bị bồi lắp.
Bình Than: Tên bến đò. Xem Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 4 (Chính biên
VII, 28).
Cửa Hàm Tử: Xem Trần Nhân Tông, năm Trùng Hưng thứ nhất (Chính biên VII,
39).
Cửa biển Đại An: Tức cửa biển Đại Nha. Xem Lý Hậu Đế năm thứ nhất (Tiền biên
IV, 13).
Tây Đô: Ở địa phận Xuân (trước là Hoa) Giai, Phương Giai và Tây Giai thuộc
huyện Vĩnh Lộc (trước là Phúc), tỉnh (trước là trấn) Thanh Hóa, có một tên nữa là Thành
nhà Hồ, do Quý Ly đắp, nay vẫn còn.
Tháng 3. Hồ Nguyên Trừng tiến quân đến cửa Hàm Tử, quân nhà Minh đón đánh, quân
của Nguyên Trừng bị thua to.

1
Kiến Hưng: Nay gồm các huyện Nghĩa Hưng, Ý Yên, Vụ Bản tỉnh Nam Định. Lúc ấy Phan Hòa Phủ làm trấn phủ sứ ở Kiến Hưng.
Theo Toàn thư thì chỉ có Nguyễn Nhật Kiên đem dân chúng giết trấn phủ sứ Phan Hòa Phủ, còn Trần Nguyên Chỉ và Trần Sư
Hiền đã đầu hàng quân Minh từ trước.
2
Kiến Hưng: Nay gồm các huyện Nghĩa Hưng, Ý Yên, Vụ Bản tỉnh Nam Định. Lúc ấy Phan Hòa Phủ làm trấn phủ sứ ở Kiến Hưng.
Theo Toàn thư thì chỉ có Nguyễn Nhật Kiên đem dân chúng giết trấn phủ sứ Phan Hòa Phủ, còn Trần Nguyên Chỉ và Trần Sư
Hiền đã đầu hàng quân Minh từ trước.
3
Xã Mộc Hoàn nay thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Huyện Phú Xuyên nay thuộc tỉnh Hà Tây.
4
Xã Mộc Hoàn nay thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Huyện Phú Xuyên nay thuộc tỉnh Hà Tây.
337 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Nguyên Trừng, Hồ Đỗ và Đỗ Mãn lại đem quân thủy, quân bộ nhất tề từ Hoàng Giang tiến lên.
Hồ Xạ, Trần Đĩnh quản lĩnh đạo quân đóng ở bờ phía nam; Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang quản lĩnh
đạo quân đóng ở bờ phía bắc; Đỗ Mẫn và Hồ Vấn quản lĩnh đạo thủy quân, tất cả bảy vạn người, nói
phao là hai mươi mốt vạn, cùng nhau tiến đến cửa Hàm Tử. Thuyền chiến nối liền nhau hơn mười dặm,
chắn ngang giữa sông. Nhà Minh đặt quân mai phục, rình khi quân nhà Hồ trễ nải, đem hai cánh quân
thủy và bộ xông ra. Quân bộ của nhà Hồ không thể đối địch được, cùng nhau trốn chạy, gặp phục binh
nhà Minh, đều quay dáo, nhảy xuống sông chết, chỉ có cánh quân thủy được thoát thân. Thuyền tải
lương chìm đắm hầu hết. Lúc ấy đạo quân của Hồ Xạ còn ở lại sau, biết mặt trước có quân mai phục,
không chịu tiến lên, Hồ Đỗ sai người trách móc, Hồ Xạ mới tiến quân, cũng đều bị thua. An phủ sứ Bắc
Giang là Nguyễn Hi Chu bị bắt, Hi Chu mắng nhiếc Trương Phụ là giặc tàn bạo, Phụ sai giết đi.
Tháng 4, mùa hạ. Quân nhà Minh tiến đánh Lỗi Giang, quân của Hán Thương tự tan
vỡ.
Bị thua trận ở Hàm Tử, Quý Ly và Hán Thương đem liêu thuộc do đường biển chạy lui vào Thanh
Hóa. Quân nhà Minh đuổi theo, đến Lỗi Giang, quân nhà Hồ không đánh nhau mà tự tan vỡ. Ngụy Thức1
xin hai bố con nhà Hồ tự thiêu mình cho chết và nói: "Nước mất rồi, người vua chúa không nên chết ở
tay người khác". Quý Ly giận, chém chết Ngụy Thức, rồi chạy vào Nghệ An.
Lời chua - Lỗi Giang: Tức phân lưu của sông Mã, ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hóa, hạ lưu con sông này thông với sông Đại Lại.
Tháng 5. Quân nhà Minh kéo đến cửa biển Kỳ La, bắt được Quý Ly, Hán Thương cùng
con cháu, liêu thuộc của hắn.
Trương Phụ biết Hán Thương trốn chạy vào Nghệ An, bèn cùng tả phó tướng Thạnh theo đường
bộ tiến quân, lại phân phái Liễu Thăng đem chu sư2 do đường thủy đuổi theo, khi đuổi đến cửa biển Kỳ
La, đánh cho quân nhà Hồ phải thua to, bắt được Quý Ly, hôm sau lại bắt được Hán Thương cùng con
hắn là Nhuế ở núi Cao Vọng. Những tướng tá sau này đều bị bắt: Hữu tướng quốc Quý Tì và con hắn là
Phán trung đô Vô Cữu, Tả tướng quốc Nguyên Trừng, tướng quân Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Nghiện
Quang và Đoàn Bồng. Còn những người khác như Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn và
Đỗ Mẫn thì đã đầu hàng quân Minh từ trước rồi. Duy viên Hành khiển hữu tham tri chính sự Ngô Miễn và
viên trực trưởng Kiều Biểu nhảy xuống sông tự tử, vợ Ngô Miễn là Nguyễn Thị cũng chết theo.
Lúc hai cha con nhà Hồ chạy đến Kỳ La, có phụ lão ra bái yết, nói: "Chỗ này tên là "Ky Lê"3, ở
trên kia có núi "Thiên Cầm"4, đấy đều là điềm không tốt, xin đừng lưu ở đây". Hai họ Hồ nổi giận, chém
chết người phụ lão ấy; đến nay, quả nhiên Hán Thương bị bắt ở đây.
Trước kia, Hán Thương bổ Hối Khanh giữ chức tuyên úy sứ lộ Thăng Hoa, Hối Khanh dùng viên
quan bản thổ là đại tri châu Đặng Tất và Phạm Thế Căng làm chân tay. Tất cùng viên châu phán Nguyễn
Lỗ ghen ghét nhau về công trạng. Khi nhà Hồ bị thua chạy, sắc phong cho Chế Ma Nô Đã Nan làm Thăng
Hoa quận vương để phủ dụ người Chiêm Thành, lại sai Hối Khanh đem số dân đã dời đến ở khi trước và
dân bản thổ giao cho Lỗ quản lĩnh để đem đi viện trợ5. Hối Khanh đều ẩn giấu việc ấy đi, không tuyên bố
ra. Gặp lúc quân của Chiêm Thành đến tranh lại đất cũ, bọn dân đã dời đến khi trước sợ hãi tan rã. Hối

1
Ngụy Thức giữ chức ngự sử trung tán triều Hồ Hán Thương. Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 41.
2
Quân lính đi thuyền, dùng vào trận thủy chiến.
3
Chữ "Ky Lê" theo Hán văn viết Ky: trói, buộc, giàm đầu ngựa. Lê: có nhiều nghĩa, có danh từ riêng là tên của một họ (Tiên tổ Quý
Ly làm con nuôi Lê Huấn mới đổi là Lê).
4
Thiên cầm nghĩa đen là trời bắt. Vì tên chỗ đất này một chỗ có nghĩa bóng là trói họ Lê (Ky Lê), một chỗ có nghĩa là trời bắt
(Thiên cầm), nên mới nói là điềm không tốt.
5
Đoạn văn này sử Cương mục chép không rõ ràng, như hai chữ cuối câu chép là phó viện, nghĩa là đem đến viện trợ. Không rõ
đem đến đâu và viện trợ đạo quân nào? Theo Toàn thư và Sử Ký bản kỷ đều chép Hán Thương viết thư bảo Hối Khanh lấy
một phần ba số dân mới dời đến và quân lính ở bản thổ giao cho Lỗ quản lĩnh làm quân "cần vương".
338 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Khanh trốn về Hóa châu, Tất và Lỗ cũng đem quân thủy, quân bộ kế tiếp đến đó. Chỉ có một mình Đã
Nan chống nhau với quân Chiêm Thành, thế lực trơ trọi yếu đuối, bị quân Chiêm Thành giết chết.
Lỗ và Tất đánh nhau hơn một tháng, Lỗ bị thua, chạy sang Chiêm Thành. Đến khi nhà Hồ mất,
Chiêm Thành lại chiếm cứ Thăng Hoa, cướp Hóa Châu; nhà Minh trao quan chức cho Tất để chống cự.
Quân Chiêm Thành phải rút về. Tất sai người đưa Hối Khanh về, đến cửa biển Đan Thai, thì Hối Khanh tự
vẫn, Trương Phụ đem thủ cấp bêu tại chợ Đông Đô.
Lời phê1 - Mấy lần lật lọng lời thề nguyền, tính toán lấn cướp ngôi vua một cách
xảo quyệt! Đến bây giờ có thể xảo trá để thoát thân được không? Đạo trời báo ứng, rõ
ràng không sai, chả đáng sợ lắm sao?
Lời chua - Trực trưởng: Tên quan.
Núi Cao Vọng, cửa biển Kỳ La: Nay ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Ky Lê: Tức cửa biển Kỳ La.
Thiên Cầm2: Nguyên tên là Thiên Cầm3. Tương truyền ngày trước Lạc Hùng
vương đi chơi đến chỗ này, nghe thấy có tiếng sáo trời, nên đặt tên là Thiên Cầm4.
Người phụ lão không muốn cho Hán Thương lưu lại ở đấy, nên nhân thanh âm gần với
nhau mà nói trệch đi để truật Hán Thương: "Kỳ La" gọi trệch là "Ky Lê", chữ "cầm" là
đàn đổi ra chữ "cầm" là bắt.
Cửa biển Đan Thai: Ở chỗ giáp giới hai huyện Nghi Xuân và Chân Lộc thuộc tỉnh
Nghệ An, nay là cửa biển Hội Thống.
Tháng 6. Nhà Minh đổi An Nam làm Giao Chỉ, lập phủ, huyện, đặt quan lại, miễn tô
thuế ba năm.
Bố con Hồ Quý Ly đã bị bắt, nhà Minh hạ chiếu tìm con cháu nhà Trần lập làm vua. Quan lại và
kỳ lão5 đều nói: "Họ Trần không còn người nào có thể thừa kế được. An Nam nguyên trước là Giao Châu,
xin khôi phục lại chế độ quận huyện, cho dân được đổi mới". Bấy giờ nhà Minh bèn đổi An Nam làm Giao
Chỉ. Cách sắp đặt như thế này:
- Đặt 17 phủ, là: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, Tân An, Kiến Xương, Phụng Hóa,
Kiến Bình, Trấn Man, Tam Giang, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa
và Thăng Hoa. Mười bảy phủ này lệ thuộc thẳng vào ti Bố Chính.
- Đặt năm châu, là: Quảng Oai, Tuyên Hóa, Quy Hóa, Gia Bình và Diễn Châu.
- Còn những nơi xung yếu khác thì đặt 12 vệ để khống chế.
- Về phần quan chức thì đặt ba ti6, bổ dụng thượng thư Hoàng Phúc kiêm giữ công việc hai ti Bố
Chính và Án Sát, Lữ Nghị giữ công việc Đô Ti7, Hoàng Trung làm chức phó trong Đô Ti.
- Công việc cai trị cấm việc sai dịch và miễn thu các thứ thuế trong ba năm.

1
Chỉ việc Quý Ly bị quân nhà Minh bắt ở cửa biển Kỳ La.
2
Trời bắt.
3
Đàn trời.
4
Tham khảo sách Đại Việt sử ký bản kỷ, tác giả (có thuyết nói là Ngô Thì Sĩ) chua: Lúc hai họ Hồ bị bắt, núi này chưa có tên
là "Thiên Cầm". Đến triều nhà Lê, viên tư mã Lê Khôi lên chơi núi này, nghe thấy trên không có tiếng như tiếng đàn, cho nên đặt
tên núi là "Thiên Cầm.
5
Có lẽ chỉ một số quan lại đã đầu hàng quân Minh và một số kỳ lão bị quân Minh dụ dỗ hoặc doạ nạt, chứ không phải quan lại và
kỳ lão cả nước.
6
Xem chú thích số 3, Chính biên quyển XII, tờ 4.
7
Tức Đô chỉ huy sứ ti.
339 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Trương Phụ nhà Minh bắt giải Quý Ly, Hán Thương và họ hàng đồ đảng đưa về Kim
Lăng.
Trương Phụ sai bọn hoành hải tướng quân Lỗ Lân, đô đốc thiêm sự Liễu Thăng bắt giải Quý Ly
và con là Hán Thương, Nguyên Trừng, Triệt, Uông, cháu là Nhuế, Mỗ, Phạm, em là Quý Tì, con Quý Tì là
Vô Cữu, ngụy1 tướng quân Hồ Đỗ, Đoàn Bồng, ngụy2 Hành khiển Nguyễn Nghiện Quang, Lê Cảnh Kỳ đến
Kim Lăng hiến tiệp. Vua nhà Minh ngự điện nhận tù binh và hỏi Quý Ly rằng: "Giết vua, cướp nước, như
thế có phải là đạo người bầy tôi không?". Quý Ly không trả lời được, bèn giao cả xuống giam vào ngục
tù, chỉ tha cho con là Trừng, cháu là Nhuế. Sau, Quý Ly ở trong ngục được tha ra, bắt đi thú thủ ở Quảng
Tây; Trừng vì lành nghề chế binh khí, dâng phép chế súng lên vua Minh, nên được tha ra để dùng.
Lời phê3 - Rất đáng tiếc Quý Ly không được như Khánh Phong4 nước Tề, đối
đáp với Công tử Vi5, để làm sướng tai mắt ngàn đời.
Lời cẩn án - Sử cũ chép: "Khi Quý Ly đến Kim Lăng, vua nhà Minh giả vờ trao
cho chức tham chính, sai người hộ tống đến nơi làm việc, rồi giết chết ở dọc đường". Có
lẽ nào đánh bắt được người đầu sỏ của giặc, không đem làm tội một cách đường hoàng
mà lại phải dùng kế giả dối để giết bao giờ? Thật là vô lý! Nay theo sách Minh sử kỷ sự
cải chính lại.
Nhà Minh hạ chiếu trưng cầu những nhân sĩ có tài đức văn học ẩn dật ở núi rừng cùng
những người am hiểu thông thạo tạp nghệ.
Vua nhà Minh sai bọn Trương Phụ tìm tòi dò hỏi những người ẩn dật ở núi rừng, có tài, có đức,
thông suốt năm kinh, văn hay, học rộng, thạo việc, am hiểu thư toán, nói năng hoạt bát, hiếu đễ, chăm
làm ruộng, tướng mạo khôi ngô, gân sức cứng rắn, cùng những người hiểu biết nghề cầu cúng, làm
thuốc, xem bói, đều đưa sang Kim Lăng, sẽ trao cho quan chức, rồi cho về trấn trị các phủ, châu, huyện.
Lệnh ấy ban ra, những bọn bon chen đua nhau hưởng ứng, chỉ có Bùi Ứng Đầu cáo từ là bị bệnh đau
mắt và mấy người nữa như bọn Hạ Trai học sinh là Lý Tử Cấu trốn ẩn không ra mà thôi. Lúc ấy người ta
có câu ngạn ngữ rằng: "Dục hoạt, nhập ẩn lâm san; dục tử, Minh triều tố quan" (muốn sống, ẩn ở núi
rừng; muốn chết, hãy làm quan với nhà Minh). Sau đến lúc nhà Lê khởi nghĩa, những người làm quan với
nhà Minh mà có tiếng tàn ác đều bị giết. Câu ngạn ngữ trên thành ra câu sấm.
Lời chua - Hạ Trai: Triều đình nhà Trần trước, học sinh chia ra 3 bậc, là: thượng
trai, trung trai và hạ trai.
Đô chỉ huy sứ của Minh là Nguyễn Đại phạm tội, Trương Phụ bắt giết đi.

1
Sứ thần nhà Nguyễn cho rằng nhà Hồ cướp ngôi vua nhà Trần, không phải là triều chính thống, nên những quan tước của bầy tôi
triều ấy họ đều ghép chữ "ngụy" lên trên, là có ý để phân biệt với bầy tôi triều chính thống.
2
Sứ thần nhà Nguyễn cho rằng nhà Hồ cướp ngôi vua nhà Trần, không phải là triều chính thống, nên những quan tước của bầy tôi
triều ấy họ đều ghép chữ "ngụy" lên trên, là có ý để phân biệt với bầy tôi triều chính thống.
3
Chỉ việc vua nhà Minh hỏi tội, Quý Ly không trả lời được.
4
Khánh Phong, người thời Xuân Thu, một quyền thần nước Tề, giết Tề Trang Công để chuyên quyền. Khi Tề Cảnh Tông lên ngôi,
toan giết Khánh Phong; Phong chạy sang nước Ngô. Công tử Vi, con thứ hai Sở Cung Vương, khi Cung Vương mất. Công tử Vi
đuổi con người anh cả của mình mà cướp ngôi, tức là Sở Linh vương. Linh vương muốn làm ơn với nước Tề, đem quân đánh nước
Ngô, bắt Khánh Phong. Linh vương ra lệnh cho Khánh Phong thân đeo xiềng xích đứng trước mặt các quân tướng mà rao to lên
rằng: "Từ rầy đừng ai bắt chước như Khánh Phong này giết vua mà chuyên quyền bính". Khánh Phong liền đứng trước mặt tướng
sĩ, rao to lên rằng: "Đừng có ai bắt chước Công tử Vi kia đuổi con nhà anh để cướp ngôi vua". Khánh Phong rao dứt lời, tướng sĩ
đều cười ồ. - Lời phê này ý nói tiếc rằng Quý Ly không biết đem việc "đuổi Kiến Văn đế, cướp lấy ngôi vua" hỏi vặn lại Minh
Thành tổ. Xem thêm chú thích số 2, Chính biên quyển XII, tờ 14.
5
Khánh Phong, người thời Xuân Thu, một quyền thần nước Tề, giết Tề Trang Công để chuyên quyền. Khi Tề Cảnh Tông lên ngôi,
toan giết Khánh Phong; Phong chạy sang nước Ngô. Công tử Vi, con thứ hai Sở Cung Vương, khi Cung Vương mất. Công tử Vi
đuổi con người anh cả của mình mà cướp ngôi, tức là Sở Linh vương. Linh vương muốn làm ơn với nước Tề, đem quân đánh nước
Ngô, bắt Khánh Phong. Linh vương ra lệnh cho Khánh Phong thân đeo xiềng xích đứng trước mặt các quân tướng mà rao to lên
rằng: "Từ rầy đừng ai bắt chước như Khánh Phong này giết vua mà chuyên quyền bính". Khánh Phong liền đứng trước mặt tướng
sĩ, rao to lên rằng: "Đừng có ai bắt chước Công tử Vi kia đuổi con nhà anh để cướp ngôi vua". Khánh Phong rao dứt lời, tướng sĩ
đều cười ồ. - Lời phê này ý nói tiếc rằng Quý Ly không biết đem việc "đuổi Kiến Văn đế, cướp lấy ngôi vua" hỏi vặn lại Minh
Thành tổ. Xem thêm chú thích số 2, Chính biên quyển XII, tờ 14.
340 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Đại, trước là bầy tôi nhà Hồ, sau đầu hàng nhà Minh, vì có công dẫn dắt cha con nhà Hồ, Trương
Phụ làm trát văn trao cho chức Đô chỉ huy sứ. Từ đấy, Đại kiêu căng, làm nhiều điều phi pháp, hoang
dâm, nghiện rượu, lại có chí ngấm ngầm phản lại. Trương Phụ bèn giết đi.
Quân nhà Minh rút về nước.
Trương Phụ và Mộc Thạnh dẫn quân về nước, để viên giữ ti Đô chỉ huy sứ là Lữ Nghị và viên giữ
hai ti Bố chính và Án sát là Hoàng Phúc ở lại trấn thủ nước ta. Phụ dâng lên vua Minh địa đồ bờ cõi đã
mở rộng được, mặt đông và mặt tây cách nhau 1760 dặm, mặt nam và mặt bắc cách nhau 2700 dặm,
đặt nha môn1 vừa lớn vừa nhỏ 472 sở. Vua nhà Minh ban khen, thưởng cho tướng sĩ tùy theo công trạng
của từng người.
Tháng 10, mùa đông. Giản Định vương nhà Trần là Ngỗi khởi binh ở Tràng An, tự lập
làm vua.
Ngỗi, con thứ của Trần Nghệ Tông, trước phong là Giản Định vương, nhà Hồ đổi phong Nhật
Nam quận vương. Khi nhà Hồ bị bại, Trương Phụ yết bảng tìm bắt con cháu họ Trần, Ngỗi phải trốn
tránh lẫn lút đến bến Yên Mô ở Tràng An. Người ở Thiên Trường là Trần Triệu Cơ đem dân chúng theo,
Ngỗi bèn xưng làm Giản Định hoàng đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh. Người nhà Minh đem quân đến
đánh, vì quân mới họp tập, nên chưa đánh nhau mà tự tan vỡ, Ngỗi phải chạy vào Nghệ An. Viên đại tri
châu ở Hóa Châu là Đặng Tất nghe tin, liền giết quan nhà Minh, đem quân đến họp. Tất dâng con gái
cho Giản Định, Giản Định phong cho Tất làm quốc công, cùng nhau mưu tính việc khôi phục.
Lời chua - Bến Yên Mô: Nay ở xã Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Trần Nguyệt Hồ xương vương ở Bình Than; quân nhà Minh đánh, bắt được.
Phạm Chấn, thổ hào Đông Triều, khởi binh ở Bình Than, lập Trần Nguyên Hồ làm chúa, tự gọi là
quân Trung nghĩa. Nhà Minh sai quân đến đánh, Nguyệt Hồ bị bắt, Phạm Chấn chạy trốn.
Trước đây, Bùi Bá Kỳ, tì tướng Trần Khát Chân, tự xưng là "Nam triều trung nghĩa thần" (người
tôi trung nghĩa nước Nam) chạy trốn sang nhà Minh, báo cáo nạn nước. Bá Kỳ nói: "Tổ phụ tôi trước đều
là đại thần giữ chính quyền triều nhà Trần, mẹ tôi là người họ thân với họ Trần, lúc bé tôi được vào chầu
quốc vương, làm quan đến ngũ phẩm; vì cha con Quý Ly giết vua, cướp nước, nên tôi phải bỏ quan đi
trốn, nương náu trong hang núi, trong bụng vẫn nghĩa phải đến khuyết đình2, phơi bày gan dạ, giằn giọc
lo lắng hàng mấy năm, nay mới được trông thấy mặt trời3. Tôi trộm nghĩ: cha con Quý Ly làm việc cướp
nước bạo nghịch, không kính trọng mệnh lệnh triều đình, xin hoàng đế cử đạo quân thương dân đánh kẻ
có tội, trừ khử bọn hung bạo gian tà, lập con cháu nhà Trần, để tôn nghiêm cái nghĩa làm cho đời đã mất
được kế tục lại. Được như thế, thì tôi dẫu chết cũng không nát xương. Nay tôi xin học theo lòng trung
nghĩa của Bao Tư4, thương khóc kêu gào dưới cửa khuyết, xin hoàng đế rủ lòng thương soi xét cho". Vua
nhà Minh nhận được lời tâu, lấy làm cảm động, sai viên quan có trách nhiệm cấp cho cơm áo. Gặp lúc ấy
Trần Thiêm Bình từ Lão Qua sang, người nhà Minh hỏi Bá Kỳ có biết người này không. Bá Kỳ trả lời
không biết. Đến lúc nhà Minh đưa Thiêm Bình về nước ta, hỏi nên dùng bao nhiêu người hộ tống. Thiêm
Bình nói: "Chỉ độ vài ngàn người là đủ, hễ về đến nơi tự khắc người ta phục tùng". Bá Kỳ nói: "Không
nên". Vua nhà Minh giận, bèn đem an trí Bá Kỳ ở Cam Túc. Đến lúc Thiêm Bình bị bại, vua nhà Minh cho
triệu Bá Kỳ về, dụ dỗ là sẽ lập con cháu họ Trần, mà Bá Kỳ sẽ được làm bầy tôi phụ tá. Khi Trương Phụ
đem quân sang nước ta, cho Bá Kỳ đi theo trong quân ngũ, do đấy trao cho chức tham nghị. Bá Kỳ nhận
chức, nhưng không cùng bạn đồng liêu bàn tính công việc, chỉ ở nhà riêng, lại thu nạp những viên quan
cũ triều Trần hiện bị sa cơ lỡ bước. Nay Nguyệt Hồ khởi binh, người nhà Minh ngờ là Bá Kỳ đem lòng
phản lại, liền bắt Bá Kỳ đưa sang Kim Lăng.

1
Một sở công, đơn vị hành chính, nơi các viên chức làm việc.
2
Cung khuyết của triều đình nhà Minh.
3
Tượng trưng dung nghi một vị thiên tử. Ở đây chỉ vua nhà Minh.
4
Người thời Xuân Thu, làm quan đại phu nước Sở, khi nước Ngô diệt nước Sở, Bao Tư sang cầu cứu với nước Tần, đứng dựa vào
tường khóc suốt 7 ngày không ngớt tiếng; vua nước Tần cảm động, mới cho quân sang cứu, đánh lui được quân nước Ngô.
341 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Lời chua - Đông Triều: Tên huyện, nay thuộc tỉnh Hải Dương.
Bá Kỳ: Người ở Phù Nội thuộc Thanh Miện, Hồng Châu1.
Bình Than: Xem Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ tư (Chính biên VII, 28).
Tháng 12. Đế Ngỗi sai bọn Trần Nguyên Tôn thu thập quân lính ở Bình Than. Quân
nhà Minh đến đánh úp, quân của bọn Nguyên Tôn bị tan vỡ, chạy vào Nghệ An.
Toán quân của Nguyệt Hồ tan rã, Giản Định đế sai bọn Trần Nguyên Tôn, Trần Dương Đình,
Trần Nghiện Chiêu lại cùng Phạm Chấn thu thập số quân còn lại, hội họp ở Bình Than. Quân nhà Minh
đến đánh, lại tan vỡ, bèn cùng nhau chạy vào Nghệ An.
Đế Ngỗi bắt giết những người đầu hàng nhà Minh là bọn Trần Thúc Dao, Trần Nhật
Chiêu cùng đồ đảng của chúng hơn sáu trăm người.
Thúc Dao và Nhật Chiêu đều là tôn thất nhà Trần, trước kia đầu hàng nhà Minh, Trương Phụ cho
Thúc Dao giữ Diễn Châu, Nhật Chiêu giữ Nghệ An. Nay quân của Giản Định kéo đến, lấy cớ rằng bọn này
không ra đón rước trước, nên bắt giết đi.
Dân bị đói to, phát sinh chứng dịch.
Mậu Tí (1408). (Trần, năm Hưng Khánh thứ 2; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 6).
Tháng giêng, mùa xuân. Nhà Minh hạ chiếu đại xá.
Quân của Giản Định nổi dậy, nhiều người hưởng ứng đi theo, nhà Minh cho rằng người trong
nước vẫn nhớ vua cũ, nên giả vờ dùng chính sách khoan hồng để thu phục lòng dân, bèn hạ tờ chiếu, đại
lược nói: "Trẫm nghĩ những dư dân2 vì lòng vẫn ngu muội, hoặc nhân nghèo đói bức bách, hoặc bị bọn
cường bạo xua đuổi, hoặc bị bọn gian trá dỗ dành, bất đắc dĩ mà phải làm liều, tình cũng đáng thương,
nếu nhất luật bắt tội, lòng trẫm thực không nỡ. Vậy ngày nào tờ chiếu này đến nơi, thì những người có
tội đều tha bổng. Các quan lại nên thể theo lòng nhân của trẫm, đối với dân không được nghiêm khắc,
không được vơ vét của dân, tất cả mọi việc không cần cấp đều tạm đình bãi".
Tháng 6, mùa hạ. Đặng Tất nhà Trần đánh tan được quân Phạm Thế Căng ở cửa biển
Nhật Lệ, chém được Phạm Thế Căng.
Trước đây, quân của Trương Phụ kéo đến cửa biển Bố Chính, Thế Căng đón đường xin hàng,
Phụ cấp trát văn trao cho giữ chức tri phủ ở Tân Bình. Thế Căng tự tiện tác oai tác phúc, tự xưng là Duệ
Vũ đại vương, tụ họp nhiều người chiếm giữ đất Tân Bình. Đặng Tất đem quân đến đánh, phá tan được
ở cửa biển Nhật Lệ, bắt chém được Thế Căng.
Lời chua - Cửa biển Nhật Lệ: Xem Trần Duệ Tông, năm Long Khánh thứ 4
(Chính biên X, 39).
Cửa biển Bố Chính: Nay ở địa giới 2 huyện Bình Chính và Bố Trạch thuộc tỉnh
Quảng Bình, tức là cửa sông Gianh.
Tháng 12. Đế Ngỗi phá tan được quân nhà Minh ở bến Bô Cô.
Đế Ngỗi sai Tất điều động quân ở các lộ Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu và Thanh
Hóa, tiến ra đánh thành Đông Đô. Khi quân kéo đến Tràng An, quan thuộc cũ cùng hào kiệt các nơi rủ
nhau hưởng ứng vui theo, Tất đều tùy theo tài năng từng người trao cho quan chức. Lòng người phấn
khởi, thế quân mạnh thêm.
Trước đây, lúc Đế Ngỗi khởi binh, viên thủ tướng nhà Minh đã đem việc ấy tâu cho triều đình nhà
Minh biết. Vua nhà Minh lại sai Kiềm Quốc công Mộc Thạnh đem bốn vạn quân, theo đường Vân Nam
tiến sang nước ta. Đến đây, Mộc Thạnh cùng quân của đô chỉ huy Lữ Nghị hội họp ở Bô Cô, gặp lúc ấy

1
Nay thuộc tỉnh Hải Dương.
2
Những dân không chịu phục tùng với triều mới.
342 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Đế Ngỗi cũng đem quân từ Tràng An đế. Quân hai bên gặp nhau, bên nào cũng chia quân thủy, quân bộ
để cầm cự với nhau. Đế Ngỗi cầm dùi thúc trống, bắt quân sĩ nhân cơ hội đánh tung ra, đánh nhau từ
giờ tị đến giờ thân1, quân nhà Minh thua chạy, quân ta chém được Lữ Nghị và thượng thư Lưu Tuấn2, chỉ
có một Mộc Thạnh thoát thân chạy đến thành Cổ Lộng, Đế Ngỗi hạ lệnh cho các quân sĩ rằng: "Bây giờ
nhân thế chẻ tre3, đánh quét một trận ruổi dài, làm cho chúng không kịp bịt tai khi gặp sét đánh mạnh,
rồi ta tiến lên lấy thành Đông Đô, thì thế nào cũng phá được". Đặng Tất nói: "Hãy bắt hết bọn giặc còn
sống sót, không nên để mối lo về sau". Vua tôi mưu tính dùng dằng mãi không quả quyết. Gặp lúc ấy
viện binh nhà Minh kéo đến đón tiếp Mộc Thạnh về thành Đông Quan. Tất bèn chia quân bao vây các
thành ở các châu, phủ, đưa tờ hịch đi các lộ hội họp binh sĩ, rồi sẽ tiến đánh.
Lời phê4 - Đặng Tất để nhỡ cơ hội, rước lấy tai họa, chả đáng tiếc lắm sao?
Lời chua - Thành Đông Quan: Tức thành Đông Đô, nhà Minh đem Đông Đô làm
phủ lỵ Giao Châu, gọi là thành Đông Quan.
Bô Cô: Tên bến đò, ở địa phận huyện Phong Doanh, tỉnh Nam Định, đối diện với
tỉnh thành Ninh Bình, trước gọi là Bồ Cô, nay đổi là xã Hiếu Cổ.
Thành Cổ Lộng: Nhà Minh đắp, nay ở xã Bình Cách, huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định, nền cũ hãy còn, tục gọi là thành Cách.
Kỷ Sửu (1409). (Trần, năm Hưng Khánh thứ 3. Từ tháng 3 trở về sau, thuộc về Đế Quý
Khoáng, năm Trùng Quang thứ 1. - Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 7).
Tháng 2, mùa xuân. Ngỗi giết quốc công Đặng Tất và tham mưu quân sự Nguyễn
Cảnh Chân.
Người hoạn giả Nguyễn Quỹ và học sinh Nguyễn Mộng Trang nói kín với Đế Ngỗi rằng: "Tất và
Cảnh Chân chuyên quyền bổ dụng người này, cất chức người khác, nếu không liệu tính sớm đi, sau này
khó lòng mà chế phục được". Đế Ngỗi tin lời. Chu sư của Đế Ngỗi tiến đến đóng ở Hoàng Giang, cho
triệu hai người ấy đến, Đế Ngỗi sai người đánh chết Đặng Tất, Cảnh Chân chạy lên bờ, lực sĩ đuổi theo
chém chết.
Lời phê - Đương lúc điên bái lưu ly, vua tôi cùng lòng cùng sức với nhau, còn e
rằng không làm nổi công việc, thế mà tự tàn hại lẫn nhau, làm mất cả tay chân, như thế,
tránh sao khỏi bại vong được?
Lời chua - Hoàng Giang: Xem Trần Thái Tông, năm Nguyên Phong thứ 7 (Chính
biên VI, 44).
Tháng 3. Bọn Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Nhu rước Trần Quý Khoáng đến Nghệ An, lập
làm vua.
Quý Khoáng là con Mẫn vương Ngạc và là cháu Nghệ Tông, trước kia Quý Khoáng làm quan
nhập nội thị trung.
Cảnh Dị, con Nguyễn Cảnh Chân; Đặng Dung, con Đặng Tất. Hai người này bực tức về việc cha
họ không có tội gì mà bị giết, nên đem binh lính Thuận Hóa về Thanh Hóa, rước Quý Khoáng đến Nghệ
An lập làm vua. Quý Khoáng lên ngôi vua ở Chi La, đổi niên hiệu là Trùng Quang, dùng Nguyễn Súy làm
Thái phó, Cảnh Dị làm Thái bảo, Dung làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Chương làm Tư mã.

1
Phỏng từ 11 giờ đến 16 giờ.
2
Theo Toàn thư thì Lưu Tuấn làm thượng thư bộ binh nhà Minh. Nhưng Cương mục in lầm chữ "thượng thư" thành "thượng
tận", nên có người hiểu "thượng tận" là tên người, rồi nhận lầm là "Thượng Tận" bị quân ta giết cùng một lúc cùng với Lữ Nghị và
Lưu Tuấn.
3
Chẻ tre chỉ khó khăn ở mấy gióng gốc, đã bửa đôi được mấy gióng gốc, thì những gióng kia có thể bỏ dao ra mà dùng tay để róc
đôi ra được. Nhà binh dùng thế chẻ tre để ví với việc đánh giặc, đã thắng được một đầu, thừa thế thắng mà đánh, thì trận sau
cũng có thể giải quyết một cách dễ dàng như người chẻ tre.
4
Chỉ việc Đặng Tất dùng dằng không quả quyết tiến quân.
343 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Bấy giờ Đế Ngỗi ở thành Ngự Thiên, chống cự với quân nhà Minh; bọn Nguyễn Súy ngầm họp
quân đến đánh úp, bắt được Đế Ngỗi. Mẹ Đế Ngỗi và bầy tôi là bọn Lê Tiệt, Lê Nguyên Đỉnh bàn nhau
khởi binh đánh úp lại Đế Quý Khoáng. Việc bị tiết lộ. Đế Quý Khoáng bắt giết bọn Tiệt và Nguyên Đỉnh,
còn thì tha cả. Gặp khi ấy Nguyễn Súy đưa Đế Ngỗi đến Nghệ An, Đế Quý Khoáng thay mặc mũ áo
thường ra đón tiếp. Lúc ấy trời u ám đã lâu, bỗng quang đãng, ở trên không bốn mặt đầy sắc mây vàng,
mọi người đều kinh ngạc. Đế Quý Khoáng bèn tôn Đế Ngỗi làm thượng hoàng, cùng nhau mưu tính việc
khôi phục.
Lời chua - Ngự Thiên: Tên huyện, tức làng Đa Cương xưa, mộ tổ nhà Trần ở
đấy, cho nên gọi là Ngự Thiên; nhà Lê theo gọi tên ấy; nay đổi là Hưng Nhân thuộc tỉnh
Hưng Yên1.
Chi La: Tên huyện, nay là La Sơn, thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Tháng 7, mùa thu. Quân nhà Minh đến Mỹ Lương, bắt được Đế Ngỗi nhà Trần, đưa về
Kim Lăng.
Quân của Mộc Thạnh bị thua2, vua nhà Minh lại sai Trương Phụ làm tổng binh, Thanh Viễn hầu
Vương Hữu làm phó tướng, đem quân sang cứu. Lúc ấy Đế Ngỗi cùng Đế Quý Khoáng tiến quân, đánh
chiếm các châu huyện. Quân của Đế Ngỗi đóng ở Hạ Hồng, quân của Đế Quý Khoáng đóng ở Bình Than,
hào kiệt các lộ đều hưởng ứng. Người nhà Minh đóng chặt cửa thành, cố giữ. Lúc quân Trương Phụ đã
kéo đến, thế quân nhà Minh lại mạnh. Đế Ngỗi đi thuyền chạy đến trấn Thiên Quan; Phụ chia quân đuổi
theo, khi đuổi đến Mỹ Lương, bắt được Đế Ngỗi và Thái bảo Trần Hi Cát, đưa về Kim Lăng.
Lời chua - Mỹ Lương: Tên huyện, nay thuộc tỉnh Sơn Tây3, giáp giới với Nho
Quan.
Tháng 8. Quân nhà Minh tiến đánh cửa Hàm Tử, Đế Quý Khoáng nhà Trần rút quân
giữ Nghệ An.
Trước đây, Đế Ngỗi chạy đến Thiên Quan, Đế Quý Khoáng ngờ Đế Ngỗi có bụng gì khác, sai
người đuổi theo không kịp, bèn sai Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử để chống với quân nhà Minh. Quân của
Dung thiếu lương ăn, chia nhau đi gặt lúa sớm để làm lương ăn. Người nhà Minh dò biết, đem quân thủy
tiến đánh, quân của Dung bị vỡ. Đế Quý Khoáng nghe tin Dung bị thất thủ, tự liệu sức mình không thể
chống được, bèn bỏ Bình Than, dẫn quân lui về Nghệ An. Trương Phụ thắng trận, đi đến đâu chém giết
thả cửa, hoặc xếp thây người làm quả núi, hoặc bồn ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy
mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc4 để mua vui, thậm chí có người theo lệnh giặc, mổ bụng người chửa, cắt
lấy hai tai5 của mẹ và con để dâng cho giặc. Những phủ huyện từ Thanh Hóa trở ra Bắc, trước kia Đế
Quý Khoáng đã đánh phá, nay lại đặt quan chức để trấn trị. Trong nước ai có chiêu dụ được nhân dân
yên phận phục tùng và ai cướp của giết người đắc lực đều được Trương Phụ làm trát văn trao cho quan
chức để yên ủi lòng những người ấy. Trương Phụ lại tâu với vua Minh xin thăng hai châu Thái Nguyên và
Tuyên Hóa lên làm phủ.
Lời phê6 - Trương Phụ học được thủ đoạn tàn khốc "một người có tội dây dưa
đến mười họ" của Minh Thành Tổ1, nên dám bạo ngược làm tuyệt diệt dân của trời; bất

1
Nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
2
Xem thêm Chính biên quyển XII, tờ 27-28.
3
Nay là một phần huyện Chương Mỹ (Hà Tây) và huyện Lương Sơn (Hoà Bình).
4
Nhục hình bào lạc do chúa Trụ nhà Thương đặt ra. Hình phạt ấy như thế này: Dùng cái cột đồng có bôi mỡ sẵn, hơ vào lửa cho
nóng, xung quanh cột đồng đều có đốt lửa. Bọn hung ác bắt người ta phải đi lên trên cột đồng, nếu rơi xuống thì rơi vào đống
lửa, chúng thấy thế cùng nhau vui cười.
5
Đời cổ, binh sĩ đi đánh trận khi giết được địch thì xẻo lấy cái tai bên trái của địch, dâng lên chủ súy để tính công, cứ mỗi cái tai
tính là một mạng người. Ở đây, quân của Trương Phụ mổ bụng người chửa, rồi xẻo lấy tai mẹ và tai con (đều tai bên trái) dâng
lên cho Phụ; dâng cả tai mẹ và tai con như thế, vừa tỏ ra là tay giết người táo bạo, vừa được tính là hai mạng người.
6
Chỉ việc Trương Phụ tàn sát nhân dân.
344 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

nghĩa như thế, tất nhiên cuối cùng sẽ rước lấy cái chết, chứ dùng sức mạnh để lấy nước
người ta thế nào được?
Lời chua - Cửa Hàm Tử: Xem Trần Nhân Tông, năm Trùng Hưng thứ 1 (Chính
biên VII, 39).
Tuyên Hóa: Tức Tuyên Quang.
Thái Nguyên: Tức Ninh Sóc. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10
(Chính biên XXI, 31-32).
Canh Dần (1410). (Trần, năm Trùng Quang thứ 2; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 8).
Tháng giêng, mùa xuân. Trương Phụ nhà Minh đặt đồn điền.
Trương Phụ cho rằng việc quân nhu tổn phí rất nhiều, bèn ra lệnh cho thuộc hạ đặt đồn điền ở
nơi gần thành; lại thu thóc lúa ở các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên và Tam Giang để làm lương trù bị cho
quân lính.
Lời chua - Tam Giang: Tên phủ. Xem Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ
10 (Chính biên XI, 29).
Tháng 5, mùa hạ. Đế Quý Khoáng đánh nhau với quân nhà Minh ở Hồng Châu, bị thua.
Đế Quý Khoáng đem bọn Nguyễn Cảnh Dị lại tiến quân đến Hồng Châu, phá vỡ được đạo quân
của Giang Hạo, đô đốc nhà Minh; nhân thế thắng, tiến thẳng đến Bình Than. Hào kiệt nghe tiếng, nhiều
người hưởng ứng. Đồng Mặc, người Thanh Hóa, hiệu là Lỗ Lược tướng quân, tung quân ra đánh quân
nhà Minh, bắt được chỉ huy Tả Địch. Đế Quý Khoáng trao cho Mặc quản trị phủ Thanh Hóa. Lại có bọn
Nguyễn Ngân Hà, Lê Nhị, Lê Khang, Đỗ Cối và Nguyễn Hiêu cũng đều đem dân chúng đánh giết quân
nhà Minh. Nhưng vì quân không có người thống lãnh, hiệu lệnh không thống nhất, nên quân nhà Minh đi
đến đâu, thì quân sĩ ở nơi ấy liền bị tan vỡ. Đế Quý Khoáng lại dẫn quân về Nghệ An.
Tân Mão (1411). (Trần, năm Trùng Quang thứ 3; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 9).
Tháng 2, mùa xuân. Nhà Minh lại hạ chiếu đại xá.
Đại lược tờ chiếu nói: "Nay Giao Chỉ đã thuộc về quan chức - phương2, mà trăm họ chưa được
yên nghỉ, nghĩ thương dân ấy sau khi khổ sở, nên đặc cách ban bố ơn huệ khoan nhân, ngõ hầu làm cho
nhân dân được thấm nhuần đức trạch". Vua nhà Minh lại dụ bọn quan lại, quân và dân rằng: "Người Giao
Chỉ đều là dân của trời, nay đã cai trị chúng, thì chúng đều là con đỏ của trẫm. Những người ấy một lúc
đi theo giặc, trẫm nghe tin chúng phải chịu tội chết, thực lấy làm đau đớn trong lòng, có lẽ nào lại nỡ để
cho chúng như thế? Gây ra tội ác chỉ có mấy người mà thôi, còn trăm họ thì có tội gì đâu? Dân ở ven
biển, ở hang núi, vì sự ức hiếp, hoặc giúp lương thực, hoặc bị đem đi theo, đến đâu làm giặc cướp ở đấy,
đều do sự bất đắc dĩ, bị người khác làm cho lầm lẫn, chứ không phải bản tâm chúng định làm càn. Vậy
nếu biết đổi lỗi ngay thì đều được cùng hưởng phúc mới. Trong những người biết đổi lỗi ấy, người nào có
dũng cảm, có kiến thức, biết bắt nộp được vài ba người gây ra tội ác, thì tất nhiên ban cho chức trọng
quan cao. Còn những người bị bắt nộp, nếu biết rửa bỏ hết ý nghĩ cũ, tự nguyện đi theo con đường mới,
thì không những được tha tội, mà lại còn được quan tước hiển vinh là khác nữa".
Tháng 9, mùa thu. Đế Quý Khoáng sai sứ sang nhà Minh xin phong tước.
Trước đây, Đế Quý Khoáng sai Hành khiển Nguyễn Nhật Ti và Thẩm hình Lê Ngân sang nhà Minh
xin phong tước; vua nhà Minh giận, bắt giam hai người ấy rồi giết đi. Đến nay lại sai Hành khiển Hồ

1
Minh Thành Tổ đem quân vào Nam Kinh, Kiến Văn đế tự nhảy vào đống lửa, Thành Tổ lên ngôi vua, sai Phương Hiếu Nhụ thảo tờ
chiếu, Hiếu Nhụ vừa khóc vừa mắng lại, Thành Tổ nói: "Nhà ngươi không nghĩ đến chín họ à?". Hiếu Nhụ nói: "Đến mười họ cũng
chả làm gì?". Hiếu Nhụ bị Thành Tổ giết, họ hàng bạn bè của Hiếu Nhụ dây dưa chết đến vài trăm người. Hình pháp thảm khốc
nhất đời xưa, một người phải tội, chỉ dây dưa đến chín họ là cùng, Thành Tổ giết đến cả học trò của Hiếu Nhụ, nên gọi là mười
họ.
2
Quan chức - phương giữ sổ sách, ghi đất đai thuộc phạm vi cai trị của một nước. Ở đây ý nói đất Giao Chỉ đã thuộc về nhà Minh,
đã ghi vào sổ sách nhà Minh, do quan chức - phương nhà Minh giữ.
345 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Nghiện Thần sung chức chánh sứ cầu phong, Thẩm hình Bùi Nột Ngôn làm phó, sang nhà Minh, đem
dâng tờ biểu và phẩm vật địa phương cùng người vàng, người bạc thế mạng, mỗi thứ một người. Khi bọn
Nghiện Thần đến Yên Kinh, vua Minh sai Hồ Nguyên Trừng mượn cớ là tình nghĩa cố cựu, hỏi về tình
hình trong nước mạnh yếu hư thực thế nào, Nghiện Thần nói hết cho Nguyên Trừng biết. Nột Ngôn
không chịu khuất phục. Vua nhà Minh giả vờ phong cho Đế Quý Khoáng làm Bố chánh sứ ở Giao Chỉ,
Nghiện Thần làm tri phủ Nghệ An. Khi về đến nước, Nột Ngôn đem việc Nghiện Thần tiết lộ tình hình
trong nước và nhận quan chức do nhà Minh phong trình bày hết cho Đế Quý Khoáng biết, Đế Quý
Khoáng bèn bắt giam Nghiện Thần rồi giết đi.
Lời phê1 - Sự thể đã đến như thế, mà còn thỉnh cầu càn dỡ mãi, thật là mù
quáng về thời cơ, không còn hiểu gì cả!
Lời chua - Nghiện Thần: Năm Khai Đại thứ 3 (1405) đời Hồ Hán Thương,
Nghiện Thần được dự trúng khoa thi cử nhân do bộ Lễ mở, sung vào Thái học sinh lý
hành2. Nhà Hồ mất, Đế Quý Khoáng khởi binh, Nghiện Thần lại ứng nghĩa đi theo.
Người nhà Minh bắt giáo thụ Lê Cảnh Tuân đưa sang Kim Lăng.
Trước kia, Lê Cảnh Tuân là hạ trai học sinh3 nhà Hồ. Đầu niên hiệu Hưng Khánh4, Cảnh Tuân
dâng cho tham nghị Bùi Bá Kỳ một bức "thư vạn ngôn" có ba phương sách: thượng sách, trung sách và
hạ sách. Đại lược ba kế sách nói: "Nhà Minh đã ra sắc lệnh cho Các hạ5 theo quân nhà Minh đi đánh dẹp,
đợi khi bắt được nhà Hồ, sẽ chọn con cháu họ Trần lập làm vua. Nay nhà Minh đặt ti Bố chính, trao chức
tước cao cả cho Các hạ, mà chỉ cấp người quét dọn ở nhà tôn miếu họ Trần. Nay nếu Các hạ biết tâu bày
rõ với nhà Minh là con cháu họ Trần hãy còn, để nhà Minh tuyên bố tờ chiếu khác, lại phong họ Trần làm
vua, đấy là thượng sách. Nếu không được như thế, thì từ bỏ quan chức, xin làm người giữ từ đường nhà
họ Trần, đấy là trung sách. Còn như cứ quyến luyến quan cao lộc hậu thì là hạ sách.
"Nếu Các hạ làm được thượng sách, thì tôi đây cũng như nhân sâm, cam thảo, chỉ xác, trần bì
chứa đầy trong bồ thuốc, mặc sức cho Các hạ sử dụng. Nếu làm trung sách, thì tôi xin giữ đồ tế khí, lui
tới ở trong từ đường họ Trần, mặc sức cho Các hạ sai bảo. Nếu làm hạ sách, thì tôi đi câu ở chỗ vắng, đi
cày ở nội rậm, cho trọn hết cái tuổi già mà thôi".
Đến khi nhà Minh tịch thu nhà Bá Kỳ6, bắt được bức thư này, sai người đi bắt Cảnh Tuân để xét
hỏi, nhưng gặp lúc loạn lạc, không rõ đi đâu. Đến nay, nhân mới đặt trường học ở Giao Châu, mới tìm
được Cảnh Tuân, bèn bắt đưa sang Kim Lăng, giam vào ngục cùng với con là Thái Điên, sau hai cha con
đều bị bệnh chết.
Nhâm Thìn (1412), (Trần, năm Trùng Quang thứ 4; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 10).
Tháng 6, mùa hạ. Đặng Dung và Nguyễn Súy nhà Trần đánh nhau với quân nhà Minh ở
bến Yên Mô, bị thua, chạy.
Trương Phụ và Mộc Thạnh dẫn quân tiến đánh Nghệ An, gặp quân của Súy và Dung ở bến Yên
Mô, hai bên đều liều chết đánh nhau. Súy và Cảnh Dị chạy trước ra biển, quân của Dung bị cô lập, không
có cứu viện, cũng phải dùng thuyền nhỏ vượt ra biển để trốn.
Tháng 7, mùa thu. Nhà Minh sai Hàn Quan sang trấn thủ.
Vua nhà Minh sai Hữu quân đô đốc đồng tri là Hàn Quan vận tải một vạn hộc lương ở Quảng
Đông sang tiếp tế cho quân ăn, rồi để luôn Hàn Quan ở lại trấn thủ Giao Châu.

1
Chỉ việc Quý Khoáng cầu phong.
2
Mới được dự vào hàng tiến sĩ, chưa phải đã đỗ thật.
3
Xem lời chua ở Chính biên quyển XII, tờ 22.
4
Niên hiệu Trần Đế Ngỗi.
5
Ngày trước, người dưới nói với người trên không dám nói rõ tên, nên xưng là "các hạ", tỏ sự tôn kính.
6
Xem thêm Chính biên quyển XII tờ 25, việc Bá Kỳ bị bắt.
346 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Nhà Minh hạ chiếu huấn dụ quan lại.


Đại lược tờ chiếu nói: "Trẫm vâng mệnh trời, thống trị thiên hạ, chỉ cốt làm cho dân trong thiên
hạ đều được yên ổn làm ăn. Giao Chỉ ở xa ngoài bãi biển, đất ấy trước kia thuộc về Trung Quốc, nay đã
khôi phục lại được, quân và dân quy phục đức hóa, đến nay kể hàng mấy năm rồi, hiện triều đình đã đặt
chức mục, bá, thú, lệnh cùng ti quân vệ, kén chọn người trung lương hiền tài để vỗ về cai trị dân. Thế
mà trẫm vẫn ngày đêm canh cánh trong lòng, nghĩ đến nơi ấy đất thì xa, dân thì nhiều, sợ giáo hóa
không thấm khắp, còn có người không được thấm nhuần ơn trạch yêu nuôi giáo dưỡng của quốc gia.
Nay các ngươi đều là bầy tôi trung lương, cần phải thể theo lòng vâng mệnh trời, yên nhân dân của
trẫm, hưng lợi trừ hại cho dân, thuận theo lòng yêu ghét của dân, mà bỏ hết lòng gian tham tệ hại,
khuyên dân cày cấy, trồng dâu, để khỏi trái thời làm ruộng, thì dân sẽ có áo mặc cơm ăn; đem hiếu để,
trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ để dạy dỗ dân, thì phong tục sĩ được thuần hậu; khuyên dân gặp lúc tang ma
hoạn nạn, điên bái lưu ly thì thương xót lẫn nhau, giúp đỡ cho nhau, người già dạy bảo người trẻ, người
dưới phục tòng người trên, đều theo tính trời, không trái với lễ, chớ làm việc trộm cướp, chớ làm điều
gian tà. Các ngươi chớ có điên đảo giấy tờ làm sai lệch phép tắc, chớ có theo lòng riêng làm mất lẽ công,
cần làm thế nào cho dân được yên nghiệp làm ăn, để cùng hưởng hạnh phúc đời thái bình. Như thế là
các ngươi làm đầy đủ chức trách của mình, biết vâng theo đức ý thay trời nuôi dân của trẫm, sự nghiệp
các ngươi sánh với người quan lại hiền tài đời cổ, tên tuổi các ngươi ghi mãi ở sử xanh, như thế chẳng
cũng đẹp đẽ lắm sao?".
Quý Tị (1413). (Trần, năm Trùng Quang thứ 5; Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 11). (Năm này
nhà Trần mất).
Tháng 4, mùa hạ. Trương Phụ nhà Minh đánh Nghệ An; Đế Quý Khoáng chạy đến Hóa
Châu.
Trước đây, Đế Quý Khoáng thấy rằng quân mình bị thua luôn, lương thực lại không được kế tiếp,
mới đem bọn Nguyễn Súy, Đặng Dung theo đường biển ra tuần tiễu ở Hải Đông, Vân Đồn cùng các bãi
biển để lấy lương ăn, và đánh bọn lính thú nhà Minh, rồi lại kéo về Nghệ An, số quân chỉ còn độ ba, bốn
phần mười. Đến nay Trương Phụ lại đem quân đến đánh, bèn chạy đến Hóa Châu, sai bầy tôi là Nguyễn
Biểu sung làm sứ cầu phong. Khi đem phẩm vật đến Nghệ An, Biểu bị Phụ giữ lại. Biểu giận, mắng Phụ
rằng: "Trong bụng toan tính việc đánh chiếm nước người ta, ngoài mặt lại phô trương là quân nhân
nghĩa, trước nói lập con cháu họ Trần, bây giờ lại đặt quận huyện, không những cướp bóc của cải, lại còn
giết hại nhân dân, mày thật là thằng giặc bạo ngược". Phụ giận, sai giết đi.
Lời chua - Nguyễn Biểu: Người ở Bình Hồ, La Sơn, Nghệ An.
Tháng 6. Trương Phụ nhà Minh đánh Hóa Châu.
Trước đây, quân của Trương Phụ kéo đến Nghệ An, Thái bảo nhà Trần là Phan Quý Hựu xin
hàng, Phụ mừng lắm, trong độ một tuần, Quý Hựu bị bệnh chết, Phụ trao cho con của Hựu là Liêu làm tri
phủ Nghệ An, lại thưởng cho gia đình Liêu rất hậu. Liêu đem tình hình tướng tá nhà Trần kẻ hay người
dở, núi sông trong nước chỗ hiểm chỗ bằng và số quân nhiều ít nói hết cho Phụ biết, bấy giờ Phụ mới
quyết chí đánh lấy Hóa Châu. Phụ họp các tướng bàn kế đánh chiếm. Mộc Thạnh nói: "Hóa Châu núi cao,
biển rộng, chưa dễ mà lấy được đâu". Phụ nói: "Tôi có sống được là ở Hóa Châu, tôi có chết cũng là ở
Hóa Châu, Hóa Châu mà chưa bình định xong, thì tôi còn mặt mắt nào trông thấy chúa thượng nữa?".
Phụ bèn đem chu sư tiến đánh Hóa Châu.
Lời chua - Phan Quý Hựu: Người ở Thạch Hà thuộc Nghệ An.
Tháng 9, mùa thu. Đặng Dung, quan Bình Chương nhà Trần, đánh nhau với Trương
Phụ nhà Minh ở Thái (Sái Già) cảng, quân của Đặng Dung bị tan vỡ, phải chạy.
Quân của Phụ kéo đến Thuận Châu. Nguyễn Súy, Đặng Dung cùng giữ sông Thái Gia, đặt phục
binh, nhân đêm đánh úp dinh Trương Phụ, Đặng Dung nhảy lên thuyền Trương Phụ toan bắt sống,
347 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

nhưng không rõ hình dáng người thế nào. Phụ vội vàng nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ1, chạy thoát thân.
Quân nhà Minh một lần nữa bị tan vỡ, thuyền bè, quân khí phần nhiều bị đốt cháy và phá hủy. Lúc ấy
quân của Nguyễn Súy không đến tiếp ứng ngay. Phụ thấy quân của Dung có ít, quay quân đánh quật lại.
Dung bị thua, phải chạy.
Lời phê2 - Trời nuông Trương Phụ!
Lời chua - Thuận Châu: Xem Lê Đại Hành, năm Hưng Thống thứ 4 (Chính biên
I, 27-28).
Sông Thái Gia: Không rõ ở đâu. Theo Minh sử và Minh sử kỷ sự của Cốc Ứng
Thái chép về việc này đều nói đánh ở sông Ái Tử, thì có lẽ Thái Gia tức là chỗ này.
Tháng 12, mùa đông. Đế Quý Khoáng cùng các tướng Đặng Dung, Nguyễn Súy,
Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ nhà Minh bắt.
Từ khi quân của Đế Quý Khoáng bị thua, phải ẩn núp trong núi rừng, tàn quân không sao tập
hợp lại được, Cảnh Dị và Đặng Dung muốn chạy sang Tiêm La, Phụ đuổi theo bắt được. Cảnh Dị mắng
chửi Phụ rằng: "Chính ta muốn giết mày, bây giờ lại bị mày bắt!". Mắng chửi mãi không ngớt mồm, Phụ
đem giết đi, lấy gan ăn. Đế Quý Khoáng chạy sang Lão Qua, Nguyễn Súy chạy sang Minh Linh cũng đều
bị quân nhà Minh bắt.
Lời chua - Tiêm La: Tên nước. Xem Lý Anh Tông, năm Đại Định thứ 10 (Chính
biên IV, 43-44).
Lão Qua: Tên nước. Xem Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 3 (Chính biên
XI, 13).
Minh Linh: Tức Ma Linh xưa. Xem Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chính
biên III, 29).
Đây trở lên, nhà Trần từ Bính Tuất (1226), Trần Thái Tông, năm Kiến Trung thứ 2, đến Kỷ Mão
(1399), Thiếu Đế, năm Kiến Tân thứ 2, gồm 12 vua, 174 năm. Phụ thêm: Hồ Quý Ly một năm, Hán
Thương 6 năm (1400-1406). Hậu Trần Đế Ngỗi 3 năm (1407-1409), Đế Quý Khoáng 4 năm (1410-1413),
gồm 2 vua, 7 năm, hợp cộng 188 năm.
Giáp Ngọ (1414). (Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 12).
Tháng giêng, mùa xuân. Nhà Minh làm sổ dân đinh ở Tân Bình và Thuận Hóa.
Trượng Phụ đã lấy được Tân Bình và Thuận Hóa, bèn đặt quan chia ra đóng giữ, để chiêu tập
yên ủy nhân dân, khám xét từng người, hợp lại làm thành sổ hộ. Rồi lại cho rằng đất ấy giáp giới Chiêm
Thành, đất đai vừa rộng vừa xa, cần phải khống chế, nên xin nói với vua nhà Minh đặt vệ, sở3, ghi tên
lính bản thổ để phòng ngự đất ấy.
Tháng 4, mùa hạ. Trương Phụ đưa Đế Quý Khoáng sang Yên Kinh, chưa đến nơi thì
Quý Khoáng mất, bình chương Đặng Dung, thái phó Nguyễn Súy đều chết theo.
Trương Phụ đã bắt được Đế Quý Khoáng và Dung, Súy, bèn dẫn quân về thành Đông Quan, sai
người đưa vua tôi Quý Khoáng sang Yên Kinh. Khi đi đến giữa đường, Đế Quý Khoáng nhảy xuống sông
chết; Dung nhảy theo. Duy còn Súy bị người lính canh bắt giữ lại, Sùy bèn ngày ngày cùng người lính
canh đánh cờ, dần dà làm thân, sau lấy bàn cờ đánh chết người canh, rồi cũng nhảy xuống sông chết.

1
Chữ này nguyên văn trong sách Cương mục chép là "thủy thuyền". Tham khảo sách Đại Việt sử ký bản kỷ chép là "tiểu
thuyền" thì đúng nghĩa hơn, nên dịch là thuyền nhỏ theo sách Đại Việt sử ký bản kỷ.
2
Chỉ việc Trương Phụ không bị Đặng Dung bắt sống.
3
Vệ: quân vệ, như Nghệ An vệ, Thuận Hóa vệ, ... Sở: thủ ngữ thiên hộ sở, như Diễn Châu thủ ngữ thiên hộ sở, Tân Bình thủ ngữ
thiên hộ sở, ...
348 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Lời phê - Lúc đầu nhà Trần may mà gặp Thoát Hoan nhà Nguyên, lúc cuối đời
Trần không may mà gặp Trương Phụ nhà Minh. Sự được hay thua, hưng thịnh hay suy
vong là do ở trời mà cũng do ở người. Nhưng vua tôi biết chết theo xã tắc1, làm sáng tỏ
đến ngàn đời.
Tháng 8, mùa thu. Trương Phụ nhà Minh về nước.
Phụ chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu, rồi cùng bọn Mộc Thạnh, Trần Hiệp về nước. Trước
đây, Phụ làm trát sức cho các quân nhân ai đã bắt được phụ nữ làm việc hầu hạ, thì đưa nộp ở cửa
quân; lúc ấy, các quan châu, phủ theo ý Phụ, bắt nhiều những dân nghèo phải phiêu lưu đem nộp. Nay
Phụ về, đem cả những người ấy đi theo.
Tháng 9. Nhà Minh lập Văn Miếu và đàn thờ bạch thần.
Hoàng Phúc xin với vua nhà Minh cho lập Văn Miếu và các đàn thờ thần xã tắc, núi sông, gió
mưa, ở các phủ, châu và huyện, theo thời tiết cúng tế.
Tháng 10, mùa đông. Nhà Minh đặt trường học ở các phủ, châu và huyện.
Tham nghị Bành Đạo Tường xin với vua nhà Minh đặt trường học ở các phủ, châu và huyện, tìm
hỏi những người học về nghề thầy cúng, thầy thuốc, thầy chùa và đạo sĩ, trao cho quan chức để giữ việc
dạy học ở các trường. Lại cấm con trai con gái không được cắt tóc2; phụ nữ mặc áo ngắn, quần dài, theo
y như thói ăn mặc phương Bắc.
Nhà Minh định phép đánh thuế.
Từ lúc nhà Minh chia đặt châu, huyện, việc thu thuế nhân đinh, điền sản chưa có ngạch nhất
định, vì cớ rằng số dân còn lộn xộn, lúc tăng lúc giảm bất thường. Đến nay mới định thành ngạch thuế,
cứ mỗi mẫu3 ruộng thu 5 thăng thóc, mỗi mẫu đất bãi thu một lạng tơ, mỗi một cân tơ thu một tấm lụa.
Ất Mùi (1415). (Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 13).
Tháng 4, mùa hạ. Nhà Minh sai quan chia nhau đến đóng ở bốn châu Thăng, Hoa, Tư
và Nghĩa.
Trước kia, nhà Hồ đặt bốn châu Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa4, dùng Đặng Tất, Nguyễn Súy trấn giữ.
Đến lúc Giản Định đế và Đế Quý Khoáng khởi binh, Tất và Súy đi theo, thì người Chiêm Thành lại chiếm
cứ đất ấy. Đến nay, Trương Phụ lại viết thư đưa dụ người Chiêm Thành, rồi lại đặt chức tri châu, đồng tri
châu, phân phối quan lại đến đóng giữ. Nhưng chỗ đất ấy Chiêm Thành vẫn có người trưởng quản, nhà
Minh chỉ chép tên suông vào sổ sách mà thôi, việc thuế khóa, sai dịch và việc đóng góp khác chưa thi
hành ở đây được.
Lời chua - Thăng, Hoa: Tên 2 châu, trước là đất Chiêm Động. Xem Trần Dụ
Tông, năm Đại Trị thứ 10 (Chính biên XI, 20-21).
Tư, Nghĩa: Tên 2 châu, trước là đất Cổ Lũy. Xem Trần Dụ Tông, năm Thiệu
Phong thứ 13 (Chính biên XI, 5).
Tháng 8, mùa thu. Nhà Minh mở trường thu vàng bạc.

1
Xã: đàn thờ thần thổ địa. Tắc: đàn thờ thần bách cốc, vì trong một nước phải nhờ đất để ở, nhờ thóc để ăn, nên ngày xưa thiên
tử và vua chư hầu đều tế thần xã tắc. Danh từ xã tắc tượng trưng cho quốc gia, xã tắc còn thì nước còn, xã tắc mất thì nước
mất, cho nên ngày xưa nước nọ diệt nước kia thì phá hủy đàn xã tắc của nước bị bại đi, để đánh dấu là nước ấy đã mất.
2
Theo lời chua trong Đại Việt sử kỷ bản kỷ thì, từ đời nhà Trần trở về trước, nước ta vẫn có tục cắt tóc, vẽ mình. Đến đời nhà
Trần, nhân dân ở mạn hạ lưu thích mạnh mẽ, nên vẫn cắt tóc xăm trán, nhất là những đô vật ở huyện Giao Thủy không thay đổi
tục cũ, vì họ thấy như thế là mạnh mẽ.
3
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử ký bản kỷ, lúc ấy nhà Minh bắt mỗi hộ phải khai 10 mẫu, mà diện tích mỗi
mẫu chỉ có 3 sào, tiếng là 10 mẫu, mà thực chỉ có 3 mẫu.
4
Xem thêm Chính biên quyển XI, tờ 42.
349 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

Phàm chỗ đất nào sản ra vàng bạc, đều lập trường cục, đặt quan cai quản, mỗi năm sai nội
quan1 và quan giữ trường cục đốc thúc dân đinh khai đào để lấy vàng bạc. Khi dân làm xong công việc,
các viên quan hội đồng kiểm điểm niêm phong để nộp. Lại bắt dân ở trên rừng dưới biển đi bắt tê, voi,
mò ngọc trai. Lúc ấy thuế khóa cao, đóng góp nặng, sức lực và của cải của dân đều bị kiệt quệ.
Lời phê - Cái tệ khai mỏ, có phải đến mạt thế mới có đâu? Gây ra tai hại đã bắt
đầu từ đây rồi.
Đặt quy chế về việc nấu muối và bán muối.
Các trường muối ở ven biển cũng đều đặt quan để cai quản, bắt những người nấu muối, mỗi
tháng số muối nấu được bao nhiêu đem nộp ti Đề Cử thu trữ, rồi chiêu mộ lái buôn lấy giấy khám hợp2 ở
ti Bố Chính, mới được lĩnh muối đem bán3. Người nào nấu lậu hoặc bán lậu đều phải tội như nhau. Các
phủ, huyện và châu đều đặt quan giữ công việc ti Thuế khóa và sở Hà bạc4.
Tháng 10, mùa đông. Nhà Minh lại sai Trương Phụ sang.
Đặt trạm giao thông.
Trương Phụ nói từ châu Khâm thuộc Quảng Đông rồi theo đường châu Vạn Ninh nước ta để đến
thành Đông Quan, phần nhiều đi theo đường thủy, về phần đường bộ chỉ có 291 dặm; con đường này so
với con đường cũ Khâu Ôn gần hơn được 7 trạm, nên đặt từng trạm để đi lại cho tiện. Vua nhà Minh
theo lời. Vì thế, từ Vạn Ninh, Đông Triều, Chí Linh đều đặt trạm đường thủy; còn ở Từ Sơn, Gia Lâm đều
đặt trạm đi bằng ngựa.
Lời chua - Vạn Ninh: Xem Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 4 (Chính biên
XI, 16).
Khâu Ôn: Tên huyện. Xem Trần Nhân Tông, năm Trùng Hưng thứ 1 (Chính biên
VII, 36).
Chí Linh: Xem Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 4 (Chính biên VII, 36).
Từ Sơn: Đất châu Cổ Pháp xưa; thuộc Minh gọi là huyện Từ Sơn; triều nhà Lê
thăng làm phủ, nay theo như cũ, thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Đông Triều: Xem Trần Đế Ngỗi, năm Hưng Khánh thứ 1 (Chính biên XII, 25).
Bính Thân (1416). (Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 14).
Tháng giêng. Mùa xuân. Nhà Minh bổ Nguyễn Huân làm bố chính sứ5; Lương Nhữ Hốt,
Đỗ Duy Trung làm tham chính6.
Trước đây, bọn tên Huân đầu hàng nhà Minh, Trương Phụ làm trát văn trao cho Huân làm tham
nghị, Nhữ Hốt làm tri châu Thanh Hóa, Duy Trung làm tri phủ Tam Giang. Đến nay, bọn này đem vàng
bạc cùng phẩm vật địa phương sang Yên Kinh vào chầu bái yết; vua nhà Minh khen ngợi. Những trát văn
bổ dụng trước nay đổi dùng giấy vàng của bộ Lại viết sắc phong cho, bọn này đều được thăng chức.
Nhân đấy vua Minh dụ bảo chúng rằng: "Trước kia, lúc bình định được Giao Chỉ, chúng bay đã hết lòng
thành theo việc nghĩa, quy thuận với triều đình, nay lại đến cửa khuyết triều yết, trẫm nghĩ đến lòng
thành ấy, nên đặc ân ban khen. Chúng bay càng phải cố gắng trung cần hơn nữa, kính giữ tiết tháo làm

1
Theo quan chế các triều đại xưa ở Trung Quốc thì nội quan mỗi triều một khác, riêng triều nhà Minh gọi hoạn quan là nội quan.
2
Giấy tờ chứng nhận có đóng dấu, khi cần phải xuất trình để khám xem dấu đóng trong giấy tờ có hợp với dấu công không.
3
Theo Toàn thư thì lái buôn phải nộp vàng mới được lĩnh giấy khám hợp. Ai có giấy khám hợp hạng lớn được lĩnh 10 cân, hạng
nhỏ được lĩnh một cân.
4
Sở Hà bạc đặt ở ven sông ven biển để đánh thuế buôn bán.
5
Tức chức quan Tham tri chính sự thời Trần, có trách nhiệm tham dự bàn bạc việc triều chính.
6
Một chức quan nằm trong Ty Bố chính.
350 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

tôi; đối với dân thì yên ủy yêu đương, để cho dân một phương đều an nghiệp làm ăn, cùng hưởng phúc
thái bình. Như thế thì trời sẽ phù hộ cho chúng bay hưởng nhiều tước lộc, để mãi mãi đến con cháu
không bao giờ hết". Sau đó bọn tên Huân lại sai người sang Yên Kinh xây dựng cung điện, vua nhà Minh
thấy rằng người ở phương xa phải khó nhọc khổ sở, nên hậu thưởng rồi cho về.
Lời phê1 - Mất hết lương tâm, nay một lũ người Nam Kỳ cũng giống như thế2!
Lời chua - Nguyễn Huân: Người ở Biến Khả, thuộc Chí Linh, Hải Dương.
Lương Nhữ Hốt: Người ở Trạo Vịnh, thuộc Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Đỗ Duy Trung: Người ở Ký Chế3 thuộc Cẩm Khê, Sơn Tây4.
Tháng 2. Nhà Minh tuyển lính.
Các hộ ở dân gian cứ ba người lấy một người, mỗi hộ tính theo tiêu chuẩn là 3 suất đinh, duy từ
Thanh Hóa trở vào nam, số nhân đinh ít, mỗi hộ tính theo tiêu chuẩn là 2 suất. Số lính này đem chia ra
cho phụ thuộc vào vệ, sở. Chổ nào dù không phải vệ, sở, nhưng là chỗ xung yếu cũng lập thành đồn lũy,
lấy lính ở dân sung vào việc canh giữ.
Lời chua - Nhà Minh đặt quân ngũ, có sở thủ ngữ thiên hộ, như các sở ở Tân
Bình.
Đinh Dậu (1417). (Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 15).
Tháng 2, mùa xuân. Nhà Minh triệu trấn thủ Trương Phụ về nước, dùng Phong Thành
hầu Lý Bân sang thay.
Nội quan là Mã Kỳ nói Trương Phụ tuyển lấy những người khoẻ mạnh hùng dũng ở bản thổ làm
"tay vi tử"5. Vua nhà Minh sinh lòng nghi ngờ, triệu Phụ về nước, dùng Bân sang trấn thủ thay và dùng
Kỳ giữ chức giám quân6. Từ đấy nhà Minh mới sai giám sát ngự sử chia ra từng ti đi tuần phòng xem xét.
Lúc ấy quan lại nhà Minh tham lam sách nhiễu không biết thế nào là cùng, tên Mã Kỳ lại càng
làm nhiều việc phi pháp, bắt dân nộp châu báu quá nhiều, dân không sao kham được sự khổ sở. Vì thế
lòng người náo động, binh lính bốn phương nổi lên, mà người nhà Minh không thể nào chống lại được.
Nhà Minh định thể lệ hằng năm cống nộp sinh viên.
Trước đây, các trường học ở châu và huyện, học sinh vào học không cứ năm tháng nhiều hay ít,
chỉ cần chọn người nào có học vấn và hạnh kiểm, thì sung vào việc cống nạp hằng năm, để bổ vào Quốc
Tử Giám. Trường học ở phủ mỗi năm cống nạp 2 người; ở châu cứ hai năm cống nạp 3 người; ở huyện
mỗi năm cống nạp 1 người. Sau định lại: Trường ở phủ mỗi năm cống 1 người; trường ở châu ba năm
cống 2 người, trường ở huyện hai năm cống 1 người.
Nhà Minh xét quan lại bằng cách sát hạch công việc đã làm.
Ngự sử Hoàng Tái nói nước ta mới sáp nhập bản đồ Trung Quốc, việc yên ủi giúp đỡ dân cần
phải ở người quan lại tốt, nên hạ lệnh cho ngự sử phải xét thực một cách nghiêm ngặt rồi tâu về triều để
định việc thăng giáng. Vua nhà Minh theo lời, bèn hạ lệnh cho những người đã làm chức việc lâu năm ở

1
Chỉ bọn Nguyễn Huân.
2
Lời phê này chúng tôi dịch thật sát với nguyên văn. "Người Nam Kỳ" đây là chỉ một số người đã đầu hàng giặc Pháp hồi Tự Đức.
3
Ký chế là dịch theo âm Hán - Việt, thực ra dân ở địa phương này gọi là Cấy Chấy.
4
Nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
5
Nguyên văn chép là "vi tử thủ". Theo chú thích trong Cương mục Chính biên XXXV, 14, vi tử là những người sung vào làm công
việc ở nơi quan phủ. Ở đây, có lẽ Trương Phụ chọn những người khoẻ mạnh hùng dũng đem vào dinh thự cho ở xung quanh
mình để đề phòng sự bất trắc.
6
Chức quan coi về quân lính.
351 Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XII

hai ti Bố Chính, Án Sát và phủ, châu, huyện đều đến Yên Kinh triều yết, chiểu theo các hạng hộ, khẩu,
điền, lương trong 3 năm, làm thành "sách tu tri"1 dâng nộp để tiện tra xét.
Nhà Minh chiếm cứ nước ta từ Giáp Ngọ (1414), Thành Tổ, năm Vĩnh Lạc thứ 12, đến Đinh Dậu
(1417), Thành Tổ, năm Vĩnh Lạc thứ 15, cộng 4 năm.

1
Quyển sổ cần để khảo cứu cho biết tình hình số hộ số khẩu, ruộng đất và thuế lương.

You might also like