You are on page 1of 17

Chiến tranh Đông Dương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Bước tới: menu, tìm kiếm
Mục từ "Chiến tranh Đông Dương" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Chiến
tranh Đông Dương (định hướng).
Chiến tranh Đông Dương

Một phần của Các cuộc chiến tranh Đông Dương

Thời gian 19 tháng 12 năm 1946 – 1 tháng 8


năm 1954
Địa điểm Đông Dương thuộc Pháp, phần lớn
tại Việt Nam
Kết quả Việt Minh chiến thắng
Pháp rút khỏi Việt Nam
Việt Nam bị phân chia tạm thời tại
Vĩ tuyến 17
Tham chiến
Liên hiệp Pháp Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà
• Pháp
• Quân đội
o Quân
Nhân dân Việt
đoàn
Nam
Viễn
Đông
Pathet Lào
Pháp
• Liên bang • Mặt trận Lào
Đông Dương Issara
• Nam Kỳ quốc • Chính phủ
• Quốc gia Việt kháng chiến Lào
Nam
o Quân Khmer Issarak
đội Quốc
gia Việt
Nam • Chính phủ
• Vương quốc kháng chiến
Lào Campuchia
• Vương quốc
Campuchia

United Kingdom

• Ấn Độ thuộc
Anh

Nhật Bản

MAAG
Chỉ huy
Philippe Leclerc de Hồ Chí Minh
Hauteclocque (1945-46) Võ Nguyên Giáp
Jean-Étienne Valluy Nguyễn Chí Thanh
(1946-48) Hoàng Văn Thái
Roger Blaizot (1948- Văn Tiến Dũng
49) Phạm Văn Đồng
Marcel-Maurice Trường Chinh
Carpentier (1949-50) Souphanouvong
Jean de Lattre de
Tassigny (1950-51)
Raoul Salan (1952-53)
Henri Navarre (1953-
54)
Lực lượng
Theo phương Tây: Theo phương Tây:
Quân Pháp: 190.000 125.000 lính chính quy
Các đồng minh ở thuộc địa 75.000 ở các quân khu
Đông Dương: 55.000 250.000 dân quân[4]
Quốc gia Việt Nam: Theo Việt Nam:
150.000 [1]
80.000 quân chính quy
-1.000.000 du kích (1946)[5]
120.000 quân chính quy
Theo Việt Nam: 100.000
1.000.000 du kích (1947)[6]
(1946)[2] 230.000 quân chính quy
239.000 (1950) [3]
-3.000.000 du kích (1950)[7]

166.000 quân chính quy


2.000.000+ du kích (1953)[8]
Tổn thất
Liên hiệp Pháp: 75.581 chết Ước tính: 300.000 chết
64.127 bị thương 500.000 bị thương
40.000 bị bắt 100.000 bị bắt

Quốc gia Việt Nam và đồng


minh thuộc địa: 419.000
chết, bị thương hoặc bị bắt[9]

Theo Việt Minh: Nửa triệu


chết và bị thương[10]
.

[hiện]
x•t•s
Chiến tranh Đông Dương

Chiến tranh Đông Dương, ở Việt Nam được gọi là Kháng chiến chống Pháp, là cuộc
chiến diễn ra tại Đông Dương thuộc Pháp từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 tới 1 tháng 8
năm 1954 giữa Quân đội viễn chinh Pháp và lực lượng Việt Minh của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa cùng các nhóm kháng chiến khác của Lào và Campuchia. Cuộc chiến diễn ra
trên khắp Việt Nam và lan ra cả các nước láng giềng Lào và Campuchia, nhưng chiến sự
chính diễn ra chủ yếu tại miền Bắc Việt Nam.

Cuộc Chiến tranh này ở Việt Nam còn được gọi là: (Chiến tranh chống thực dân Pháp,
Kháng chiến chín năm, 9 năm kháng chiến trường kỳ, Thời 9 năm, Hồi 9 năm). Các tài
liệu nghiên cứu, sách báo ở nước ngoài phần lớn gọi là Chiến tranh Việt-Pháp hoặc
Chiến tranh Đông Dương.

Pháp tham gia cuộc chiến này vì ý muốn tiếp tục giữ Đông Dương là thuộc địa, sau khi
người Nhật đã bại trận và mất quyền kiểm soát Đông Dương. Đây là lý do chính trị và
tâm lý hơn là kinh tế[11]. Những người Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu Pháp để mất
Đông Dương, sở hữu của Pháp hải ngoại sẽ nhanh chóng bị mất theo[12] Đa số lãnh đạo
Pháp cho rằng so với một cuộc xâm chiếm thuộc địa cổ điển với việc chiếm giữ các trung
tâm dân số và mở rộng dần theo kiểu "vết dầu loang" mà người Pháp đã thực hiện rất
thành công ở Maroc và Algeria, cuộc chiến này sẽ chỉ có quy mô hơn một chút. Tuy
nhiên, mặc dù Pháp chiếm ưu thế quân sự trong thời gian đầu, lực lượng Việt Minh đã
phát triển ngày càng mạnh và kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ ngày càng rộng.[12]

Trong khi đó, mục tiêu của Việt Minh và các nhóm kháng chiến khác là giành độc lập
cho các dân tộc mình. Cuộc chiến giữa một cường quốc trên thế giới và một đất nước
nghèo nàn lạc hậu đã diễn ra gần như lời Hồ Chí Minh đã nói:

"Nó sẽ là một cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ đứng yên thì sẽ bị voi dẫm chết.
Nhưng hổ không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra ngoài vào ban
đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào
rừng tối. Và dần dần, con voi sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở Đông
Dương sẽ như vậy." [13]

Sau Đại chiến thế giới lần thứ 2, trên lãnh thổ của Đế quốc Pháp đã bùng nổ nhiều phong
trào đòi độc lập, nhưng gây thiệt hại lớn nhất cho Pháp là Chiến tranh Đông Dương.

Mục lục
[ẩn]

• 1 Hoàn cảnh
o 1.1 Thời Pháp thuộc
o 1.2 Việt Nam tuyên bố độc lập - Pháp quay trở lại Đông Dương
o 1.3 Căng thẳng dẫn đến bùng nổ
• 2 Diễn biến cuộc chiến tranh
o 2.1 Thế thượng phong của Pháp và các cố gắng thương lượng của Việt
Minh
o 2.2 Pháp sa lầy và giải pháp Bảo Đại
o 2.3 Chiến tranh đẩy mạnh - Việt Minh phản công
 2.3.1 Việt Minh phản công quân Pháp
o 2.4 Kế hoạch Navarre và trận Điện Biên Phủ
• 3 Sự tham gia của Mỹ
• 4 Hiệp định Genève
• 5 Kết quả
• 6 Tham khảo
• 7 Chú thích

• 8 Liên kết ngoài

[sửa] Hoàn cảnh


[sửa] Thời Pháp thuộc

Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm
1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng Sài Gòn và ba tỉnh lân cận cho Pháp. Năm 1869,
Pháp chiếm nốt ba tỉnh kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ).
Đến năm 1885, Pháp xâm chiếm xong những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc
chiến phức tạp ở miền Bắc. Pháp tuyên bố là họ sẽ "bảo hộ" Bắc kỳ và Trung kỳ (nơi họ
tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn nhà Nguyễn).

Trong suốt thời kỳ từ khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam, đã có nhiều cuộc khởi
nghĩa và phong trào chống Pháp do vua, quan, hoặc nông dân tổ chức, nhưng tất cả đều bị
thất bại.

Quân Pháp tấn công quân Thanh ở Lạng Sơn

Năm 1927, những người Việt cấp tiến đã thành lập Việt Nam Quốc dân đảng (giống
Trung Hoa Quốc dân Đảng). Đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại,
Việt Nam Quốc dân đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm, những người Việt theo
chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng
trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận Bình
dân trong chính quyền Pháp.

Năm 1940, Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được với chính
quyền Vichy ở Pháp để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Thực dân Pháp chỉ tồn tại
đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật lật đổ Pháp trên toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật
thiết lập một chính quyền Bảo Đại bù nhìn với chính phủ do một nhà nho uy tín là Trần
Trọng Kim đứng đầu.

Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) do Hồ Chí Minh thành lập
năm 1941 với vai trò một mặt trận thống nhất dân tộc để giành độc lập. Tổ chức này do
Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, thu hút được sự tham gia và ủng hộ của nhiều
người Việt Nam và ngày càng lớn mạnh. Tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân, lực lượng vũ trang của Việt Minh và tiền thân của Quân đội Nhân dân
Việt Nam, được thành lập tại Cao Bằng.

Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ
nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng
đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại
Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói
này.

[sửa] Việt Nam tuyên bố độc lập - Pháp quay trở lại Đông Dương
Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, lực lượng Việt Minh đã tổ chức thành
công cuộc Cách mạng tháng Tám. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt
Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tuy nhiên, theo hiệp ước Potsdam, lực lượng Đồng Minh gồm quân Anh và quân Trung
Quốc vào Việt Nam để giải giáp vũ khí Nhật. Cả Anh và Trung Hoa Dân Quốc đều muốn
hạ bệ chính phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Anh ủng hộ sự trở lại của Pháp tại
Đông Dương, còn Trung Hoa muốn đưa lực lượng thân Trung Quốc lên nắm quyền.

Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch tiến vào với danh nghĩa giải giáp quân
Nhật, nhưng mang theo kế hoạch Diệt Cộng Cầm Hồ. Đội quân ô hợp này đốt phá cướp
bóc hết sức tàn bạo[cần dẫn nguồn].

Ở miền Nam, chỉ 4 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, phái bộ quân sự Anh đã có
mặt ở Sài Gòn, theo sau là liên quân Anh-Pháp. Quân Anh trên danh nghĩa là theo lệnh
Đồng Minh vào giám sát quân Nhật đầu hàng nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho
quân Pháp vào Nam Bộ. Chính phủ lâm thời của Cộng hòa Pháp muốn khôi phục lãnh
thổ thuộc địa Đông Dương. Ngày 19, Pháp tuyên bố sẽ lập chính quyền tại miền Nam.
Ngày 23, với sự giúp đỡ của quân Anh, quân Pháp nổ súng chiếm quyền kiểm soát Sài
Gòn (ngày này sau được Việt Nam gọi là ngày Nam Bộ Kháng chiến). Nước Việt Nam
vừa giành được độc lập đã lại đứng nạn ngoại xâm.

Ngày 9 tháng 10, tướng Pháp Leclerc đến Sài Gòn, theo ông là lực lượng gồm 40.000
quân Pháp để chiếm giữ miền Nam Việt Nam và Campuchia. Từ cuối tháng 10, quân
Pháp bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch phá vây, mở rộng đánh chiếm ra vùng xung quanh Sài
Gòn và các tỉnh Nam Bộ.

Bức điện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi sự ủng hộ
của Mỹ
Từ cuối tháng 9 năm 1945, các đoàn quân "Nam tiến" của Vệ quốc đoàn (quân đội của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) bắt đầu lên đường vào Nam chống Pháp[14]. Các tướng lĩnh
quan trọng như Nguyễn Bình, Nguyễn Sơn... được cấp tốc cử vào. Trong hai tháng cuối
năm 1945 và tháng 1 năm 1946, lực lượng Việt Minh tại các tỉnh Nam Bộ đã chiến đấu
ngăn chặn làm chậm bước tiến của quân Pháp. Tuy nhiên, do lực lượng chênh lệch, sau
một thời gian, các lực lượng này đều phải rút ra những căn cứ đầm lầy và rừng núi, xây
dựng chiến khu để bảo tồn lực lượng cho kháng chiến lâu dài.

Tập tin:Nguyen Ba Khoan-Doan quan Nam tien.jpg


Đoàn quân Nam tiến

Trong suốt năm 1946, mặc dù hai bên cùng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh, chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cố gắng hết mức thương lượng với Pháp để cứu vãn
hòa bình và đẩy lui thời điểm nổ ra cuộc chiến tranh.

[sửa] Căng thẳng dẫn đến bùng nổ

Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Phòng. Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp
chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Phòng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và
khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến
xuất nhập khẩu. Ngày 20 tháng 11, hải quân Pháp bắt giữ một thuyền buồm Trung Quốc
chở xăng được cho là để giao cho Việt Minh. Trong khi tàu được kéo vào bờ, du kích địa
phương trên bờ đã bắn vào quân Pháp. Quân Pháp bắn trả và chiến sự nhanh chóng lan ra
toàn thành phố. Hai bên mau có đạt được ngừng bắn, nhưng hai ngày sau, Tướng Jean-
Étienne Valluy, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, lệnh cho quân Pháp chiếm
toàn quyền kiểm soát thành phố. Ngày 23 tháng 11, Đại tá Dèbes gửi tối hậu thư yêu cầu
người Việt ra khỏi khu phố Tàu của Hải Phòng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi,
Dèbes lệnh cho tầu chiến Pháp bắn phá thành phố, trong một buổi chiều đã giết chết hơn
6.000 người dân[15] hoặc hơn 2.000 người theo một nguồn khác.[16]. Sau đó, khoảng 2.000
lính Pháp tràn vào thành phố trong khi pháo tiếp tục bắn phá vùng ngoại ô. Quân Pháp
gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Chiến sự kéo dài cho
đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28 tháng 11.

Sau sự kiện Hải Phòng, kế hoạch phòng thủ Hà Nội bắt đầu được chuẩn bị để chính phủ
Việt Nam có thời gian sơ tán về các vùng núi lân cận. Một số ít lực lượng chính phủ đóng
tại Bắc Bộ phủ và một doanh trại gần đó. Còn phần lớn lực lượng quân sự của Việt Nam
trong vùng đóng tại ngoại ô của thủ đô. Bù lại, trong nội thành có gần 10.000 du kích và
tự vệ. Bao gồm những thanh niên đầy nhiệt tình ủng hộ cách mạng, các lực lượng này
được trang bị chủ yếu bằng vũ khí tự tạo. Đối địch với họ là vài nghìn binh sĩ Lê dương
Pháp, chủ yếu đóng trong Thành Hà Nội, phần còn lại đóng xen kẽ tại 45 điểm trong
thành phố như Phủ Toàn quyền, ga Hà Nội, nhà băng Đông Dương, nhà thương Đồn
Thủy, cầu Long Biên, và sân bay Gia Lâm.

Các cơ quan của chính phủ Việt Nam bí mật chuyển dần ra các địa điểm đã được chuẩn
bị trước ở bên ngoài thành phố. Trong thành phố, quân và dân Hà Nội bắt đầu xây dựng
các chiến lũy phòng thủ trên đường phố, quân Pháp cũng củng cố các vị trí phòng thủ của
mình. Ngày 6 tháng 12, Hồ Chí Minh kêu gọi quân Pháp rút về các vị trí họ đã giữ từ
trước ngày 20 tháng 11, nhưng ông không nhận được phản hồi. Trả lời phỏng vấn của
nhà báo Pháp vào hôm sau, Hồ Chủ tịch khẳng định rằng Chính phủ Việt Nam hy vọng
tránh được chiến tranh - cái sẽ gây đau khổ lớn cho cả hai nước. "Nhưng nếu chúng tôi
phải đối mặt với chiến tranh", ông nói, "chúng tôi sẽ chiến đấu chứ không từ bỏ quyền tự
do của mình".

Ngày 12 tháng 12, Léon Brum, thủ tướng mới của Pháp tuyên bố ý định giải quyết xung
đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày sau, Hồ Chí
Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Brum với các gợi ý cụ thể về cách giải quyết
xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài Gòn, yêu cầu chuyển tiếp tới Paris.

Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao ủy Pháp d'Argenlieu về việc
tăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt, Valluy, người có chung
quyết tâm với d'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đã quyết
định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo xung đột và đưa Paris vào sự đã rồi.
Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho tướng Morlière phá các chướng ngại vật mà Việt Minh
dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến Sài Gòn, Vallue
viết thêm bình luận của mình, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu trì hoãn các hành động
quân sự cho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến được Paris, khi đó đã quá
muộn.

Ngày 17 tháng 12, quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào các đường phố Hà Nội để phá các
công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng
Bún (Hà Nội), rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và
bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội. Người Việt không phản ứng. Hôm
sau, Pháp ra một tối hậu thư đòi chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó,
Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm
việc trị an ở Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả
đường từ ngoại ô vào thành phố. Sáng hôm sau (ngày 19 tháng 12), Pháp ra tối hậu thư
thứ ba, đòi chính phủ Việt Nam đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí
của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố.

Đối với người Việt, tình hình không khác với sự kiện Hải Phòng hồi tháng trước, khi Đại
tá Dèbes cũng đã ra các lệnh tương tự trước khi bắn phá thành phố. Sáng ngày 18 tháng
12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị cho các cuộc tấn công quân Pháp vào hôm sau. Đồng
thời, sợ rằng bức điện gửi Thủ tướng Brum có thể chưa đến nơi, ông gửi một bức điện
thẳng tới Paris. Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng kéo dài hòa bình, Hồ Chủ tịch
viết một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để
đàm phán "tìm giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại". Sau khi được tin Sainteny
từ chối gặp Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương
Ðảng mở rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Nội, và tuyên bố rằng trong tình hình hiện tại,
không thể nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến mà Hồ Chủ tịch đã viết, thông qua văn kiện "Toàn dân kháng chiến" do Tổng Bí
thư Trường Chinh dự thảo. Thời điểm bắt đầu nổ súng được quyết định là 8 giờ tối cùng
ngày. Chiến tranh Đông Dương bắt đầu.
[sửa] Diễn biến cuộc chiến tranh
Tại Hà Nội, đúng 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, công nhân Nhà máy điện Yên Phụ
phá máy, 20 giờ 3 phút, đèn điện trong thành phố vụt tắt, ít phút sau, pháo binh Việt Nam
từ pháo đài Láng bắn dồn dập vào Thành. Sáng ngày 20 tháng 12, lời kêu gọi kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam, đăng trên báo
Cứu quốc và các báo Hà Nội, với lời thề quyết tử: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!".

Cuộc Kháng chiến chống Pháp được tóm lược trong tài liệu Kháng chiến nhất định thắng
lợi, một tài liệu tuyên truyền của Trường Chinh, phát hành những ngày đầu kháng chiến.
Tài liệu chia kháng chiến ra 3 giai đoạn: cầm cự, phòng ngự, phản công. Diễn biến chiến
tranh về sau đúng như vậy.

• Cầm cự: bao gồm gian đoạn vừa đánh vừa đàm trước 19/12/1946 đến hết Chiến
dịch Việt Bắc. Thời này có cuộc Nam Bộ Kháng Chiến, cầm cự miền Nam, miền
Trung, Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp 6/3/1946 và Tạm ước Việt–Pháp 14/9/1946 Hà
Nội 1946, nỗ lực vãn hồi hòa bình, di tản lên chiến khu. Cuối cùng là đánh bại
Pháp trong Chiến dịch Việt Bắc.
• Phòng ngự: sau chiến dịch Việt Bắc đến hết Chiến dịch Biên Giới. Có các chiến
dịch lớn: Chiến dịch Đông Bắc, Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, Chiến dịch Biên Giới.
• Phản công: Chiến dịch Trung Du (tháng 12-1950), Chiến dịch Đồng Bằng (tháng
5-1951), Phòng tuyến Taxinhi,Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Chiến dịch Tây Bắc
(14/10 – 1/12/1952), Chiến dịch Hòa Bình 1952, Chiến dịch Thượng Lào (8/4 –
3/5/1953), Kế hoạch Nava, Chiến cục Đông Xuân 1953-1954, Chiến dịch Điện
Biên Phủ (13/3 – 7/5/1954), Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà
bình ở Đông Dương (21/7/1954)

Phương pháp tiến hành chiến tranh của quân đội Việt Minh chỉ đơn giản có hai điều, xây
dựng lực lượng và đánh tiêu hao địch. Phương pháp này đã đi suốt lịch sử lớn mạnh của
Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

[sửa] Thế thượng phong của Pháp và các cố gắng thương lượng của Việt
Minh

Bài chi tiết: Nam Bộ Kháng Chiến và Chiến dịch Việt Bắc 1947

Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, các lực lượng vũ trang của Việt Minh đã
nổ súng chống Pháp tại nhiều khu vực thành thị trên cả nước: Hà Nội, Nam Ðịnh, đường
số 5, Vinh, Huế, Đà Nẵng..., hoàn thành nhiệm vụ bao vây kìm chân và tiêu diệt quân
Pháp, tạo thời gian cần thiết để quân chủ lực tản về các căn cứ ở nông thôn và để các cơ
quan, công xưởng di chuyển lên vùng chiến khu. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại Hà Nội
(Xem Trận Hà Nội 1946). Tại đây, quân Pháp phải chiến đấu giành giật từng con phố và
phải chịu thương vong lớn, khoảng 100 lính Pháp được coi là bị giết, 45 công dân Châu
Âu thiệt mạng, 200 người mất tích[17]Trong một hoàn cảnh chiến đấu vô cùng khó khăn và
chênh lệch về vũ khí, sau 57 ngày đêm chiến đấu ngoan cường trong lòng thành phố, đến
đêm 17 tháng 2 năm 1947 Trung đoàn Thủ đô mới rút ra khỏi nội thành.[18] Đa số nhân
dân Hà Nội và vùng ven cũng đã bỏ thành phố vượt sông Hồng tản cư lên phía Bắc, tạo
thế "vườn không nhà trống".

Hồ Chí Minh vẫn chưa bỏ cuộc trong việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Ngay ngày
đầu tiên của cuộc chiến, Việt Minh rải truyền đơn trên đường phố Hà Nội thông báo với
"nhân dân Pháp" rằng chính phủ Việt Nam sẵn lòng tồn tại hòa bình trong Liên hiệp
Pháp, rằng chiến tranh nổ ra là do "bọn thực dân phản cách mạng tìm cách chia rẽ và gây
chiến", rằng chỉ cần Pháp công nhận độc lập và thống nhất của Việt Nam thì thái độ hợp
tác và hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc sẽ được lập tức khôi phục. Ngày hôm sau, đài
Việt Minh bắt đầu định kì phát các lời kêu gọi tái đàm phán. Ngày 23 tháng 12, Hồ Chí
Minh viết thư cho Marius Moutet, Bộ trưởng Bộ các lãnh thổ thuộc địa, và tướng Henri
Leclerc, đề nghị một cuộc họp giữa đại diện cả hai bên. Một vài ngày sau, ông chính thức
đề nghị ngừng bắn và tổ chức một cuộc hội nghị hòa bình mới tại Paris trong khuôn khổ
Hiệp định sơ bộ hồi tháng 3. Nhưng tất cả đều không đem lại kết quả gì, người Pháp
muốn có phản ứng quân sự mạnh trước khi tính đến chuyện đàm phán. Emile Bollaert,
Cao ủy Pháp mới được bổ nhiệm từ tháng 3 năm 1947, được tướng Leclerc khuyên "đàm
phán bằng mọi giá". Những người thân cận ông như Pierre Messmer và Paul Mus cũng
thiên về chiều hướng đối thoại. Nhưng đã có hơn 1.000 binh sĩ Pháp chết hoặc mất tích,
và cộng đồng người Pháp ở Đông Dương phản đối kịch liệt việc thương lượng với Việt
Minh.

Ngày 23 tháng 4, qua Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch lại
gửi thông điệp tới Bollaert đề nghị ngừng bắn lập tức và đàm phán. Tự tin vào ưu thế
quân sự, Bollaert đáp lại bằng một loạt các điều kiện đòi Việt Minh hạ vũ khí trước khi
khôi phục hòa bình. Hồ Chí Minh từ chối thẳng các yêu cầu này khi Paul Mus đến chiến
khu Việt Bắc gặp ông để truyền đạt thông điệp trên.

Mùa hè năm 1947, lực lượng chủ lực của Việt Minh có khoảng 60.000 người, chưa kể tự
vệ và du kích địa phương. Vũ khí thiếu, chủ yếu là do tự tạo và lấy được của Pháp. Yếu
về hỏa lực nhưng cơ động và có hỗ trợ lớn của nhân dân, các tiểu đoàn Việt Minh ngày
càng có khả năng tránh các trận càn của Pháp và tấn công đối phương lại những nơi mình
lựa chọn. Quân chủ lực chính quy của Việt Minh tổ chức như quân đội phương Tây,
nhưng thừa kế nhiều kinh nghiệm chiến tranh cổ truyền của Việt Nam. Việt Minh tổ chức
du kích là những chiến sĩ bán quân sự, nửa bí mật nửa công khai, sống tại nhà, vừa làm
ruộng vừa chiến đấu trong lòng địch.

Cuộc chiến tranh du kích tại đồng bằng gây khó khăn lớn cho Pháp. Ở mọi nơi, Việt
Minh vẫn tự do đi lại, tuyển quân, thu thuế. Có những hội tề (chính quyền làng xã thân
Pháp) được lập ra để che mắt Pháp nhưng hành động theo Việt Minh. Dân chúng gánh
thóc gạo từ vùng do Pháp chiếm đóng đi nộp thuế cho Việt Minh. Các đội du kích được
thành lập khắp các vùng bị chiếm quấy rối quân Pháp, Pháp phải để phần lớn quân chủ
lực giữ đồng bằng Bắc Bộ. Mặc dù là vùng do Pháp kiểm soát, nhưng thực chất đồng
bằng màu mỡ đông dân đó vẫn là nguồn cung cấp nhân lực, hàng hóa và lương thực lớn
nhất cho Việt Minh. Thắng lợi duy nhất của Pháp trong mùa hè này là về chính trị, khi
sách lược hà khắc của tướng Nguyễn Bình [cần dẫn nguồn], tổng chỉ huy Việt Minh tại Nam
Bộ, đã làm nhiều người Việt ở Nam Bộ xa lánh [cần dẫn nguồn] và đẩy lãnh đạo của các phái
Hòa Hảo, Cao Đài về phía Pháp.

Hoàn thành việc đánh rộng ra vùng đồng bằng, Pháp quyết định tiến công lên Việt Bắc để
sớm kết thúc chiến tranh. Ngày 7 tháng 10 năm 1947, Chiến dịch Léa, cuộc tấn công vào
chiến khu Việt Bắc, bắt đầu. Quân Pháp tiến nhanh và mau chóng định vị được những nơi
đóng các cơ quan đầu não của đối phương, nhưng Hồ Chí Minh và chính phủ của ông đã
đi thoát, lực lượng vũ trang của Việt Minh lặng lẽ lẩn vào rừng rồi quay ra đánh quân
Pháp tại những nơi mà họ chọn. Tuy Pháp không đạt được mục đích tiêu diệt căn cứ Việt
Bắc, nhưng họ đã cắt được đường số 4 và kiểm soát biên giới Việt Trung tại Cao Bằng,
cô lập Việt Minh với thế giới bên ngoài.

[sửa] Pháp sa lầy và giải pháp Bảo Đại

Bài chi tiết: Quốc gia Việt Nam

Sau chiến dịch Léa, xung đột lặng xuống. Thiếu phương tiện để tiếp tục các chiến dịch
tấn công, quân Pháp chỉ giới hạn trong các hoạt động vừa phải ở đồng bằng. Nhưng cũng
tại đồng bằng, Việt Minh tổ chức các đội du kích hoạt động bán công khai, sống tại nhà,
vừa làm ruộng vừa chiến đấu, thực hiện các hoạt động quấy rối quân Pháp. Các cán bộ
Việt Minh vẫn đi lại tuyển quân, thu thuế trong vùng Pháp kiểm soát. Những vùng này
vẫn tiếp tục là nơi cung cấp một số loại nhu yếu phẩm như thuốc men, lương thực, vải
vóc... cho Việt Minh. Tại các chiến khu, Việt Minh củng cố căn cứ, tổ chức tự sản xuất
lương thực và vũ khí để có thể tự tồn tại lâu dài.

Quân Pháp bắt giữ một người tình nghi là Việt Minh

Tại đồng bằng sông Hồng, các đội du kích được thành lập khắp các vùng bị chiếm quấy
rối quân Pháp. Cuối chiến tranh, du kích cầm giữ phần lớn quân Pháp trong vùng đồng
bằng. Mỗi chuyến hàng của Pháp từ Hải Phòng về Hà Nội phải tụ thành đoàn lớn, nhiều
xe tăng và lính bảo vệ mới đi thoát. Các đường bộ bị đào bới ngăn cản xe cơ giới, đường
sắt bóc hết gang thép làm vũ khí.

Ở miền Trung Việt Nam, Việt Minh xây dựng được một vùng giải phóng kéo dài từ Hội
An đến Mũi Đại Lãnh, gần như ngăn đôi đất nước. Ở miền Nam, quân Pháp ở tình thế tốt
hơn do lực lượng Việt Minh ở đây ở xa và liên lạc rất khó khăn với lực lượng ở miền
Bắc. Lực lượng của tướng Nguyễn Bình bị đẩy vào vùng đầm lầy và rừng núi, họ còn gặp
sự chống đối của các nhóm dân tộc chủ nghĩa [cần dẫn nguồn] khác của người Việt.

Pháp bắt đầu tìm cách xây dựng một chính quyền bản xứ người Việt để làm đối trọng với
Việt Minh, và để thuyết phục Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự để Pháp có thể tiếp tục đứng
chân tại Đông Dương[19]. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và
Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên
hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Tuy nhiên, chính quyền Quốc gia Việt
Nam non trẻ rất yếu ớt do các quyền quan trọng về quân sự, tài chính và ngoại giao đều
do người Pháp nắm giữ và quyền hành cao nhất trên thực tế là Cao ủy Pháp. Quân đội
Quốc gia Việt Nam được thành lập nhưng được huấn luyện kém và không có sĩ quan chỉ
huy cấp cao người Việt[20]. Pháp chỉ đơn giản là đưa những người lính mới tuyển mộ được
vào các quân đoàn viễn chinh của chính Pháp, tại đó, người chỉ huy là các sĩ quan Pháp.

[sửa] Chiến tranh đẩy mạnh - Việt Minh phản công

Năm 1950, Chiến tranh Đông Dương có sự thay đổi quan trọng, chuyển sang một giai
đoạn mới. Về phía Pháp, chiến tranh đã vào thế sa lầy tuy họ đã dùng đến 40-45% ngân
sách quân sự và 10% ngân sách quốc gia. Với sự nổ ra của Chiến tranh Triều Tiên vào
tháng 6 năm 1950, Mỹ thay đổi thái độ về Chiến tranh Đông Dương, coi Triều Tiên và
Việt Nam là hai chiến trường phụ thuộc lẫn nhau trong cuộc chiến của phương Tây chống
lại chủ nghĩa cộng sản, tổng thống Mỹ Truman tuyên bố sẽ viện trợ quân sự trực tiếp cho
các nỗ lực của Pháp tại Đông Dương[21]. Phía bên kia, năm 1949 ở Trung Quốc, Đảng
Cộng sản đã giành được quyền lực trên toàn quốc, họ nhanh chóng công nhận và thiết lập
quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Thành công của Việt Minh trong Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950 đã phá được thế bị
cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông dải biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng tới
Vịnh Bắc Bộ để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ. Việt Minh bắt đầu chuyển sang thế chủ
động tấn công.

Bác sĩ Pháp chăm sóc cho 1 binh sĩ Việt Minh bị thương


Không còn hy vọng tiến công hay bao vây chiến khu Việt Bắc, Pháp tổ chức Phòng tuyến
Taxinhi để bảo vệ vùng đồng bằng. Từ khi chuyển sang chủ động tiến công, các chiến
dịch liên tiếp của Việt Minh, Chiến dịch Trung Du, Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Chiến
dịch Hà Nam Ninh, Chiến dịch Hoà Bình, Chiến dịch Tây Bắc, Chiến dịch Thượng Lào
đã bóc vỏ Phòng tuyến Taxinhi khỏi đồng bằng, buộc Pháp duy trì một lực lượng lớn bên
trong để bảo vệ vùng đồng bằng Bắc Bộ.

[sửa] Việt Minh phản công quân Pháp

Năm 1951, Việt Minh bắt đầu thực hiện các trận chiến quy mô lớn theo kiểu kinh điển.
Nhưng họ đã phải chịu thiệt hại lớn, các chiến dịch Hoàng Hoa Thám và Hà Nam Ninh bị
thất bại trước quân Pháp do tướng de Lattre de Tassigny chỉ huy. Trận Hòa Bình mà de
Lattre mở vào tháng 11 năm 1951 đã trở thành "cối xay thịt" đối với cả hai bên. Khi trận
đánh kết thúc vào tháng 2 năm 1952, Việt Minh chịu thương vong lớn, nhưng họ đã học
được cách đối phó với chiến thuật và vũ khí của Pháp, và họ đã thâm nhập được sâu hơn
vào trong vòng cung phòng thủ của Pháp.

Cuối năm 1952, Việt Minh đánh sang vùng núi phía Tây Bắc Việt Nam rồi vượt sang
lãnh thổ Lào[22]. Chỉ huy mới của Pháp, tướng Raoul Salan cố gắng chặn đứng cuộc tấn
công này bằng cách đánh vào các tuyến hậu cần của Việt Minh, nhưng không có kết quả.
Đến tháng 12, quân Việt Minh vẫn chiếm giữ vùng biên giới Việt-Lào trong khi quân
Pháp đã quay trở lại bên trong tuyến phòng thủ mạnh bảo vệ đồng bằng sông Hồng. Ở
miền Trung, Việt Minh đã đạt được những thành công quan trọng. Vùng kiểm soát của
Pháp ở Tây Nguyên đã bị thu hẹp lại chỉ còn vài vùng ven biển hẹp ở quanh Huế, Đà
Nẵng, và Nha Trang. Những khu vực duy nhất mà Pháp còn có thành công là Nam Kỳ và
Campuchia.

Mùa xuân năm 1953, Việt Minh tổ chức một lực lượng lớn đánh sang Lào với sự hỗ trợ
của Pathet Lào. Quân Pháp thành công trong việc ngăn không để Việt Minh chiếm được
Cánh đồng Chum và đến tháng 4 thì chặn được Việt Minh. Mùa mưa đến buộc Việt Minh
phải quay trở lại căn cứ.

Ở các vùng khác, Việt Minh tấn công phối hợp đồng bộ từ Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên,
Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Bộ, buộc Pháp phân tán xé lẻ khối quân cơ động. Việt Minh tiến
đánh Tây Bắc, Pháp không còn lực lượng cơ động để ứng cứu, hình thành Chiến cuộc
Đông Xuân 1953-1954.

[sửa] Kế hoạch Navarre và trận Điện Biên Phủ

Bài chi tiết: Trận Điện Biên Phủ


Việt Minh phất cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của Pháp tại Điện Biên Phủ

Tháng 7 năm 1953, chỉ huy mới của Pháp, tướng Henri Navarre, đến Đông Dương. Được
sự hứa hẹn về việc Mỹ tăng viện trợ quân sự, Navarre chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn
công mà báo chí Pháp và Mỹ gọi là "Kế hoạch Navarre".

Ngày 18-7-1953, Navarre mở cuộc hành quân "Con én" vào Lạng Sơn và cuộc hành binh
"Camargue" vào Quảng Trị phá hủy được một số dụng cụ và máy móc của Việt Minh. Ở
Lạng Sơn, Pháp diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ của địch trong khu tam giác là
mối hăm dọa trên quốc lộ số 1 (Trung Việt).

Liên tiếp với hai cuộc hành quân này, mồng 9-8-53 Pháp rút quân ra khỏi Na Sản bằng
không vận. Trước đây, năm 1952, Pháp đặt chiến lũy Na Sản để ngăn Việt Minh trên con
đường tiến của họ qua xứ Lào.[23]

Cùng lúc đó, tướng Võ Nguyên Giáp đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn hơn vào
Lào. Với 5 sư đoàn, ông hy vọng sẽ mở được một con đường xuyên Lào thọc qua
Campuchia để sau đó hội quân với lực lượng Việt Minh ở miền Nam để tấn công vào Sài
Gòn trong khi 60.000 du kích và 5 sư đoàn chủ lực ở miền Bắc sẽ cầm chân Pháp tại đó.
Đến tháng 12 năm 1953 và tháng 1 năm 1954, Việt Minh đã chiếm được phần lớn vùng
Nam và Trung Lào. [24]

Để đối phó, Navarre thiết lập một căn cứ quân sự ở vùng Tây Bắc Việt Nam, chặn giữa
tuyến đường chính của Việt Minh sang Lào. Ông xem căn cứ này vừa là một vị trí khóa
chặn, vừa là một cái bẫy để nhử đối phương vào một trận đánh lớn theo kiểu kinh điển và
có tính chất quyết định mà tại đó họ sẽ bị tiêu diệt bởi pháo binh và hỏa lực không quân
Pháp. Navarre đã chọn Điện Biên Phủ - vùng đất nằm trong một thung lũng lớn, cách Hà
Nội 200 dặm đường không trong khi Pháp chỉ có khoảng 100 máy bay - và nhường các
điểm cao xung quanh cho Việt Minh, ông cho rằng khi đó Việt Minh không đủ khả năng
đưa pháo lên Điện Biên Phủ nên sẽ không có nguy hiểm gì từ các điểm cao.

Tướng Giáp quyết định vào "bẫy", nhưng ông đưa vào Điện Biên Phủ 4 sư đoàn cùng với
một số lượng lớn pháo do Trung Quốc viện trợ. Những hoạt động du kích của Việt Minh
khắp nơi không cho Pháp tập hợp một đội quân cơ động ứng cứu. Những Đơn vị phòng
không đầu tiên của Việt Minh được huấn luyện ở Trung Quốc về nước tham chiến. Một
lực lượng khổng lồ dân công làm công tác vận tải. Các đơn vị mạnh nhất của Việt Minh
bao vây quân Pháp ở Điện Biên Phủ.

Cuộc vây hãm Điện Biên Phủ diễn ra từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 khi quân
Pháp đầu hàng. Ở Washington đã có cuộc tranh luận về việc Mỹ có nên trực tiếp can
thiệp bằng quân sự, nhưng tổng thống Eisenhower đã quyết định loại bỏ khả năng này do
chính quyền Anh sẽ không ủng hộ.

Cục diện chiến trường Đông Dương, tại thời điểm trong và sau Chiến dịch Điện Biên
Phủ, Việt Minh (tức Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa) kiểm soát khoảng 2/3 lãnh thổ Việt
Nam, nhưng chủ yếu là các vùng nông thôn và rừng núi, chưa kiểm soát được các thành
phố lớn, Pháp kiểm soát một số tỉnh đồng bằng và các thành phố lớn đông dân cư, một số
tỉnh đồng bằng nằm trong vùng tranh chấp.

Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất của Việt Minh trong toàn bộ chiến tranh
Đông Dương. Trên phương diện quốc tế trận này có một ý nghĩa rất lớn: lần đầu tiên
quân đội của một quốc gia thuộc địa châu Á đánh thắng bằng quân sự một quân đội của
một cường quốc châu Âu. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì thuộc địa Đông
Dương của Pháp và buộc nước này ra khỏi Đông Dương. Ngày 8 tháng 5, hội nghị
Geneva bắt đầu họp bàn về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương.

[sửa] Sự tham gia của Mỹ


Sau Thế chiến 2, Anh và Pháp liên minh với nhau bảo vệ hệ thống thuộc địa cũ. Ban đầu,
Mỹ ủng hộ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà [cần dẫn nguồn], mặc dù điều này gây mâu thuẫn gay
gắt giữa Mỹ và Anh, Pháp. [cần dẫn nguồn] Các phong trào độc lập và cách mạng ở Mỹ La tinh,
Trung Quốc trước đây được Mỹ ủng hộ và có lợi cho người Mỹ, vốn kém các nước châu
Âu thuộc địa.

Pháp đã mệt mỏi vì chiến tranh, họ mong muốn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng
người Việt đánh người Việt" hy vọng giảm bớt hao tổn người và tiền bạc. Một mặt, Pháp
thành lập Quốc Gia Việt Nam năm 1949, phát triển quân đội người bản xứ. Một mặt,
Pháp thuyết phục Mỹ rằng Pháp đang "chống cộng" chứ không phải mục đích chính là tái
chiếm thuộc địa. Ở Mỹ các thế lực chống cộng cực đoan nắm quyền, Hoover thực hiện
các chiến dịch khủng bố chống cộng. Người Mỹ tin Pháp [cần dẫn nguồn] và giúp tiền bạc cho
Pháp.

Đến cuối chiến tranh, 80% chiến phí chủ yếu của Pháp do Mỹ cấp, lên đến 1,5 tỷ USD.
Cuối chiến tranh, người Mỹ trực tiếp chở 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ
trợ không quân cho quân Pháp. Nhờ điều đó mà người Pháp mới có thể duy trì được cuộc
chiến.

Đến nay nhiều người Mỹ vẫn không biết vì sao họ bị lôi kéo vào chiến tranh[cần dẫn nguồn]. Ít
người nói đến việc nước Mỹ đã bị Pháp kéo vào cuộc. [cần dẫn nguồn]

[sửa] Hiệp định Genève


Bài chi tiết: Hiệp định Genève, 1954
Những lính Pháp cuối cùng qua cầu Long Biên rút khỏi Hà Nội năm 1954

Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hoà
bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả nên từ
ngày 8 tháng 5 vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận.

Do sức ép của Trung Quốc và Liên Xô, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đồng ý với
một bản hiệp định mang lại cho họ ít hơn những gì họ đã giành được trên chiến trường[24].
Tuy ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam được tuyên bố độc lập, và điều quan trọng là
sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được công nhận, nhưng Việt Nam bị tạm
thời chia đôi thành hai khu vực quân sự để hai bên quân đội, Việt Minh và Pháp, tập kết.
Quân Pháp sẽ rút dần khỏi Việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử đi đến thống nhất Việt Nam sẽ
được thực hiện trong vòng 2 năm.

[sửa] Kết quả

Đại đoàn 308 tiến qua Quảng trường Đông Kinh nghĩa thục về tiếp quản thủ đô năm 1954

Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất này, thương vong của Pháp là 140.992,
trong đó có 75.867 chết và mất tích, 65.125 bị thương; các quân đội đồng minh ở Đông
Dương chịu thương vong 31.716 người, trong đó có 18.714 chết và mất tích, 13.002 bị
thương. Thương vong của Việt Minh được ước tính khoảng gấp 3 lần tổng thương vong
của Pháp và đồng minh. Khoảng 25.000 dân thường Việt Nam bị thiệt mạng. [24]

Cuộc chiến đã góp phần làm nước Pháp suy sụp và phân hóa. Các chính phủ hiếu chiến bị
lật đổ liên tiếp. [cần dẫn nguồn] Pháp chi phí 3.000 tỷ quan, tương đương 7 tỷ USD (trung bình
1 tỉ quan/ngày). Chính phủ Pháp thay đổi 20 lần, trung bình mỗi chính phủ chỉ tồn tại 7
tháng (có chính phủ chỉ tồn tại trong 7 ngày). 7 lần cao uỷ Pháp bị triệu hồi, 8 tổng chỉ
huy quân đội Pháp kế tiếp nhau bị thua trận. [cần dẫn nguồn]

Theo kết quả của hiệp định Geneva, Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng vừa giành
được thắng lợi quan trọng trên chiến trường, tập kết về miền Bắc. Lực lượng Quốc gia
Việt Nam, trong đó có những người mong muốn độc lập cho Việt Nam nhưng bác bỏ lý
luận đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản của những người cộng sản [cần dẫn nguồn], theo
quân đội Pháp tập kết về miền Nam. Trên 1 triệu người dân từ miền Bắc đã di cư vào
Nam (trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, chiếm khoảng 2/3 số người Công
giáo ở miền Bắc), và 140.000 người từ miền Nam tập kết ra Bắc. [25].
Người di cư vào Nam theo chương trình Passage to Freedom (Con đường đến Tự Do)
(8.1954)

Ngày 10 tháng 10 năm 1954, quân Pháp chính thức rút khỏi Hà Nội, Quân đội Nhân dân
Việt Nam vào tiếp quản thủ đô. Thời kỳ hòa bình tại miền Bắc Việt Nam bắt đầu. Ở miền
Nam, quân đội Pháp dần dần rút đi và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt
Nam.

Tuy nhiên, hiệp định Geneva không đem lại được hòa bình cho Đông Dương. Tổng tuyển
cử thống nhất Việt Nam không được chính quyền ở miền nam thực hiện. Việt Nam bị
chia cắt thêm 20 năm nữa với chiến tranh tiếp tục nổ ra trên toàn Đông Dương với sự
tham gia của Mỹ thay cho Pháp. Cuộc chiến mới có quy mô và sức tàn phá lớn hơn
nhiều.

Trên phạm vi thế giới, sự kết thúc của Chiến tranh Đông Dương cũng đánh dấu sự sụp đổ
của chế độ thuộc địa trên toàn thế giới. Chẳng bao lâu sau đó, các thuộc địa cũ của Pháp
như Algérie, Tunisia và Maroc cũng theo gương Việt Nam nổi dậy.

[sửa] Tham khảo


• Spencer C.Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, ABC-CLIO, 2000
• William Duiker, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, 2000

You might also like