« Home « Kết quả tìm kiếm

Quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- QUYỀN CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
- Khái niệm chung về quyền nhân thân của cá nhân.
- Khái niệm nhân thân.
- Khái Niệm quyền nhân thân.
- Khái quát chung về quyền nhân thân gắn với hình ảnh của.
- cá nhân.
- Khái niệm hình ảnh.
- Khái niệm quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhânError! Bookmark not defined..
- Đặc điểm quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhânError! Bookmark not defined..
- Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhânError! Bookmark not defined..
- Hành vi phát tán hình ảnh cá nhân nhằm mục đích xâm hại tới.
- Hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân vi phạm pháp luật dân sự chuyển hóa sang vi phạm pháp luật hình sự.
- Hoạt động báo chí xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân trong một số trường hợp.
- Nhận xét về thực trạng các dạng hành vi xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân về hình ảnh Error! Bookmark not defined..
- Các trách nhiệm do vi phạm quyền nhân thân của cá nhân về hình ảnh.
- Các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân.
- Nhận xét về việc áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân về hình ảnh.
- Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh.
- DANH MỤC HÌNH ẢNH.
- Trong các quyền của công dân thì không thể không nhắc đến “Quyền cá nhân về hình ảnh”..
- Bên cạnh vấn đề về đạo đức, lối sống của thanh niên hiện nay thì câu hỏi về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật Việt Nam cũng đang được đặt ra? Điều này cũng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng bối cảnh các thiết bị quay phim, chụp ảnh ngày càng hiện đại hơn: có khả năng ghi hình từ xa, ghi hình trong bóng đêm, được thiết kế nhỏ, gọn để dễ ngụy trang, cất giấu.
- Có thể nói chưa bao giờ nguy cơ bị xâm phạm hình ảnh cá nhân lại cao như.
- Đối với vấn đề quyền cá nhân đối với hình ảnh của mình thì Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng đã quy định khá cụ thể.
- Vậy đâu mới là giải pháp cho vấn đề này? Trước thực tế trên, bản thân tôi xin chọn đề tài “Quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu, tìm hiểu, với mong muốn làm rõ thêm về quyền cá nhân về hình ảnh, cũng như thực trạng phương pháp bảo vệ quyền nhân thân về hình ảnh trong xu thế phát triển hội nhập ở Việt Nam hiện nay..
- Liên quan đến chế định quyền nhân thân đã có nhiều người viết về các quy định chung về quyền nhân thân, các quy định về quyền nhân thân trong việc hiến các bộ phận cơ thể người, quyền hiến xác, quyền xác định lại giới tính hay như quyền nhân thân trong bí mật đời tư, cụ thể là:.
- Bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” của PGS.TS.
- Bài viết: “Quyền cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật một số nước phương tây – đối chiếu với pháp luật Việt Nam” của tác giả Chu Tuấn Đức..
- Luận văn thạc sỹ: “Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ luật dân sự năm 2005” của tác giả Lê Hương Trà năm 2008..
- Luận văn thạc sỹ: “Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định của BLDS năm 2005” của tác giả Lê Thị Hoa năm 2006..
- tiễn về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định trong pháp luật Dân sự Việt Nam” của tác giả Phùng Bích Ngọc năm 2011..
- Vì vậy, tác giả đã mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này, mới mục đích là đưa ra những giải pháp để giải quyết những tồn tại, vướng mắc của pháp luật quy định về quyền cá nhân về hình ảnh, cũng như việc áp dụng chế định luật này trong thực tiễn..
- Phương pháp tổng hợp, phân tích phản ảnh các vụ việc trong thực tiễn xét xử liên quan đến quy định của pháp luật hiện hành về quyền cá nhân đối với hình ảnh..
- về dân sự nói chung và chế định về quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt Nam nói riêng, bằng phương pháp phân tích, so sánh đã nói ở trên, cùng với thực tiễn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật luận văn đã hệ thống hóa các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền cá nhân về hình ảnh, ngoài ra luận văn còn nêu bật lên thực tế của các hành vi xâm phạm hình ảnh, thực trạng áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền cá nhân về hình ảnh trong thực tiễn hiện nay.
- Từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới về các quy định quyền cá nhân về hình ảnh..
- Nội dung nghiên cứu trong đề tài luận văn này là nội dung của quyền cá nhân về hình ảnh, về các thực trạng quy định của quyền cá nhân về hình ảnh, đồng thời nghiên cứu các phương pháp bảo vệ quyền cá nhân về hình ảnh và những quy định của pháp luật nói chung là pháp luật dân sự nói riêng về quyền nay..
- Về quyền nhân thân của cá nhân của cá nhân – quyền nhân thân không gắn với tài sản..
- Quyền cá nhân với hình ảnh.
- Các quan điểm quyền cá nhân về hình ảnh ở một số nước trên thế giới - Thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền cá nhân về hình ảnh..
- Chương 1: Khái quát chung về quyền nhân thân và quyền nhân thân gắn với.
- hình ảnh của cá nhân.
- Chương 2: Các hình thức xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh.
- Chương 3: Trách nhiệm do vi phạm quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh.
- Khái niệm chung về quyền nhân thân của cá nhân 1.1.1.
- Mỗi cá nhân đều luôn có nhu cầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển, kéo theo đó là các nhu cầu về tư tưởng, tinh thần, nó gắn liền với hai loại quyền đó là quyền về tài sản và các quyền về nhân thân.
- “Quyền nhân thân” là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ những quyền gắn liền với bản thân của mỗi con người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân và quyền này có liên quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín.
- Do đó quyền nhân thân là một quyền rất quan trọng trong các quyền dân sự, cũng bởi chính lý do này mà quyền nhân thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người đã được pháp luật thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ..
- Để hiểu rõ hơn về quyền nhân thân của cá nhân thì trước hết chúng ta cùng làm rõ khái niệm “nhân thân”..
- Khái niệm “nhân thân” được hiểu theo hai khía cạnh sau đây.
- Một là: theo từ điển Tiếng Việt “Nhân thân được hiểu là tổng hợp các đặc điểm về thân thể, tính cách và cuộc sống cá nhân của con người, về mặt thi hành pháp luật” [24]..
- Hai là: Dưới góc độ pháp lý thì hiện nay chưa có văn bản nào đề cập đến khái niệm “nhân thân”, xong chúng ta có thể tham khảo khái niệm nhân thân đề.
- cập đến trong công trình nghiên cứu cấp bộ với đề tài: Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định của BLDS của Tòa án nhân dân tối cao thì:.
- Nhân thân của một người bao gồm các đặc điểm sau: giới tính, độ tuổi, dân tộc, thành phần văn hóa, nghề nghiệp, điều kiện sống, hoàn cảnh gia đình, quá trình hoạt động chính trị xã hội, tính tình, tác phong...Mỗi người có một nhân thân riêng và chính nó biểu thị đặc điểm liên quan đến nhận thức và hành vi của từng người...[38]..
- Như vậy khái niệm nhân thân được hiểu là một khái niệm rộng, bao trùm nhiều đặc điểm khác nhau, và quan trọng nhất là các đặc điểm này phải liên quan mật thiết đến một cá nhân cụ thể..
- Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần của cá nhân được pháp luật thừa nhân và bảo vệ.
- Trong lịch sử lập pháp của nước ta nói chung và pháp luật dân sự nói riêng, thuật ngữ quyền nhân thân được ra đời khá muộn.
- BLDS Việt Nam 1995 là văn bản pháp lí lần đầu tiên đề cập đến quyền nhân thân, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hiện thực hóa quyền con người.
- Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Không ai có thể lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác [25]..
- Bên cạnh đó, lần đầu tiên cá nhân có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền nhân thân của mình không bị người khác vi phạm (Điều 27).
- Lần đầu tiên quyền nhân thân của cá nhân được quy định thành một hệ thống các quyền, có 20 quyền được quy định chi tiết trong 20 Điều luật..
- BLDS năm 1995 đã góp phần làm ổn định các quan hệ dân sự nói chung, quan hệ nhân thân nói riêng, các chủ thể có được công cụ pháp lý hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Với những quyền nhân thân được quy định trong BLDS năm 1995 so với thực tiễn đã có những sự thiếu hụt rất lớn, việc sửa đổi BLDS năm 1995 là tất yếu xảy ra..
- Từ đó sự ra đời của BLDS 2005 đã kế thừa những quy định về nhân thân trong BLDS năm 1995 và đã quy định cụ thể về quyền nhân thân tại Điều 24:.
- "Quyền nhân thân được quy định trong Bộ Luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [28, Điều 24].
- Theo quy định tại điều luật này thì quyền nhân thân sẽ có hai đặc điểm:.
- Một là: Quyền nhân thân mang đặc tính quyền cá nhân, không bị chi phối, phụ thuộc bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như: Độ tuổi, trình độ văn hóa, giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội...cũng bởi điều này mà pháp luật quy định mọi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân..
- Hai là: Quyền nhân thân của chủ thể không thể chuyển dịch cho chủ thể khác được.
- Nghĩa là: Quyền nhân thân không thể là đối tượng trong giao dịch dân sự (mua, bán, tặng, cho.
- Tuy nhiên trong một số trường hợp quyền nhân thân có thể được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật..
- Hoặc các quyền nhân thân gắn liền với tài sản có thể được phép chuyển giao....
- Nhìn vào hai đặc điểm này của quyền nhân thân thì chúng ta thấy một vấn.
- đề đặt ra là: Nếu như theo quy định trên thì quyền nhân thân chỉ gắn liền với mỗi cá nhân cụ thể thì theo quy định tại Điều 604 và Điều 611 BLDS năm 2005 đã đề cập đến: “Danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác” [28].
- Vậy, một vấn đề đặt ra là những quyền được quy định tại hai Điều luật trên đây của pháp nhân và chủ thể khác có được xem là quyền nhân thân không? Và nếu pháp nhân và chủ thể khác cũng là chủ thể của quyền nhân thân thì liệu đặc tính “Quyền cá nhân hóa”.
- trong quyền nhân thân có còn tồn tại? Tại Điều 1 Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định rằng:.
- Như vậy: Theo quy định tại Nghị định này đã thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các chủ thể khác.
- Từ việc phân tích trên đây cho thấy quyền nhân thân có thể mở rộng phạm vi chủ thể quyền nhân thân không chỉ bao hàm cá nhân mà còn bao gồm các chủ thể khác như: pháp nhân, tổ chức....
- Thông qua các quy định trong BLDS, cũng như các quy định của các văn bản pháp luật khác thì chưa có một khái niệm về quyền nhân thân một cách rõ ràng.
- Một là: Trong bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” của Tiến sĩ Bùi Đăng Hiếu – Trường Đại học Luật Hà Nội đăng trên tạp chí luật học số 7 năm 2009 thì: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ tường hợp pháp luật có quy định khác” [13]..
- Hai là: Trong đề tài nghiên cứu cấp trường “Quyền nhân thân của con.
- người và bảo vệ quyền nhân thân của con người và bảo vệ quyền nhân thân theo quy định của pháp luật” của tiến sĩ Lê Đình Nghị đã đưa ra khái niệm quyền nhân trên hai phương diện như sau:.
- Theo nghĩa khách quan, quyền nhân thân được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy định rõ các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện các quyền của mình..
- Theo nghĩa chủ quan, quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền với cá nhân do nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và các cá nhân không thể chuyển giao quyền này cho người khác [20]..
- Ba là: Trong luận văn thạc sĩ luật học “Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định trong BLDS năm 2005” của tác giả Lê Thị Hoa đã đưa ra khái niệm: “Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần của cá nhân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ” [15]..
- Qua việc phân tích, cũng như tham khảo các khái niệm trên chúng ta có thể hiểu khái niệm quyền nhân thân như sau:.
- Quyền nhân thân là quyền dân sự cho nhà nước quy định gắn liền với giá trị tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao trừ trường hợp pháp luật quy định khác..
- Từ khái niệm trên đây rút ra một số đặc điểm của quyền nhân thân là Thứ nhất: Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản.
- Nhưng khi nhắc đến quyền nhân thân là chúng ta sẽ nhắc đến tính chất phi tài sản.
- Vì, xét về bản chất thì quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản hoặc không gắn với tài sản và đối tượng nó là.
- Do đó, quyền nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương, không thể trao đổi ngang giá.
- Từ đó quyết định việc: Quyền nhân thân không thể bị định đoạt hay đem ra chuyển nhượng cho người khác..
- Chu Tuấn Đức (2008), “Quyền cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật một số nước phương tây - đối chiếu với pháp luật Việt Nam”.
- Bùi Đăng Hiếu (2009), “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân”, Tạp chí luật học (7), tr.14..
- Lê Thị Hoa (2006), Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định trong BLDS năm 2005, tr.14, Luận văn thạc sỹ Luật học..
- Lê Đình Nghị (2008), “Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.
- Phùng Thị Bích Ngọc (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lý luận và thực tiễn về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định trong pháp luật Dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ trường Đại học Luật Hà.
- Pháp Luật TP.Hồ Chí Minh (2011), Tình huống dân sự về quyền nhân thân đối với hình ảnh, http://tuvanluat.net..
- Lê Hương Trà (2008), Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ luật dân sự năm 2005, Luận Văn thạc sỹ trường Đại học Luật, Hà Nội..
- Tòa án nhân dân tối cao (2005), Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định của BLDS năm 2005, tr.18, Hà Nội..
- Chu Tuấn Vũ (2008), “Quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật một số nước phương Tây - đối chiếu với pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (04), tr.50-60..
- http://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia:Quy_định_sử_dụng_hình_ảnh.