You are on page 1of 7

Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất : Phương Pháp Tiến Hành

• Trần Gia Phụng

Lời ngỏ : Ngày 25/1/2006, Hội Ðồng Âu Châu đã thông qua Nghị Quyết 1481
nhằm kêu gọi thế giới lên án những tội ác của các chế độ độc tài toàn trị cộng
sản. Ðiều 7 của Nghị Quyết này đã viết : "Việc đánh giá về đạo đức và lên
án các tội ác đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục các thế hệ
trẻ".

Dưới sự thống trị của đảng CSVN từ hơn 60 năm qua tại miền Bắc và từ hơn
30 năm trên cả nước, dân tộc Việt Nam đã và đang là nạn nhân của một chế độ với những chính
sách cai trị vô cùng khắc nghiệt như: Cải cách ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, cuộc tàn sát Tết
Mậu Thân, chính sách tù cải tạo, đàn áp những tiếng nói dân chủ v.v....

Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Ðảng mong được góp phần cùng đồng bào trong việc phổ biến
những tài liệu tố cáo tội ác của đảng CSVN.

Xã hội Việt Nam, cho đến nay, vẫn là một xã hội dựa trên căn bản nông
nghiệp. Bất cứ nhà cầm quyền nào tại nước ta đều phải giải quyết những vấn
đề do nền nông nghiệp lạc hậu của chúng ta đặt ra, hầu tìm kiếm những giải
pháp thích hợp để thăng tiến đời sống của nông dân, một thành phần chiếm
khoảng 70% dân số hoạt động. Cộng sản Việt Nam lại càng chú trọng đến
vấn đề nầy hơn nữa, vì lý thuyết Mác xít dùng yếu tố kinh tế để giải thích
những vận động của lịch sử. Căn bản của yếu tố nầy là quan hệ sản xuất giữa chủ và thợ, mà
ứng dụng vào xã hội nông nghiệp là quan hệ giữa chủ đất (điền chủ hay địa chủ) và dân cày
(nông dân hay tá điền). Hơn nữa, do ảnh hưởng chủ thuyết của Mao Trạch Ðông, lấy nông thôn
bao vây thành thị, nên khi nắm quyền tới đâu, cộng sản Việt Nam tổ chức cải cách ruộng đất
(CCRÐ) tới đó, để tập họp sức mạnh nông dân và cô lập giới phú hào.
Trần Gia Phụng

Từ 1949 đến 1956, Việt Minh (VM) cộng sản mở năm đợt cải cách ruộng đất (CCRÐ). Sau mỗi
đợt, VM tổ chức hội nghị rút ưu khuyết điểm, để rồi tiến hành tiếp đợt khác. Trong hai đợt đầu
(1949 và 1950), VM thực hiện cải CCRÐ nhẹ nhàng để phục vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân
trong hoàn cảnh chiến tranh.

Năm 1949, Mao Trạch Ðông và đảng Cộng Sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH). Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thừa nhận chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa
nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh (Beijing) và Mạc Tư Khoa
(Moscow) xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay
hai việc:

thứ nhất tái công khai đảng cộng sản

thứ hai đẩy mạnh CCRÐ theo đường lối cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử
người sang CHNDTH học tập phương pháp CCRÐ triệt để vì lúc đó mối liên lạc Xô-Trung còn
bình thường và vì Việt Nam nằm sát biên giới CHNDTH.

Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Ðại hội lần 2 đảng Cộng Sản Ðông Dương tại chiến
khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao Ðộng
(LÐ) ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Tưởng cũng
nên nhắc lại rằng trong Ðại hội nầy, Hồ Chí Minh đã phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Ðộng Việt
Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin... lấy tư tưởng Mao Trạch Ðông làm kim chỉ nam... Tôi không có
tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin." (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và quốc hội, Nxb. Văn
Nghệ, California, 1995, tr. 150,152.) Chẳng những thế, cũng trong Ðại hội này, Hồ Chí Minh còn
nhiều lần tuyên bố: "Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể
sai được." (Nguyễn Minh Cần, Ðảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào
cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63).

Ðể tiến hành CCRÐ, sau Ðại hội 2, VM cử người sang CHNDTH tham dự khóa học tập về chủ
nghĩa Mác-Lê-nin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng Sản các nước Á Châu như Indonesia,
Mã Lai, Thái Lan, Pakistan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRÐ theo
đường lối CHNDTH. Phái đoàn này trở về liền được đảng LÐ gởi tổ chức thí điểm CCRÐ, bắt
đầu phát động "giảm tô, giảm tức"(1) ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.

Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cộng sản cao cấp miền Nam tập kết ra Bắc, đã có mặt trong
phái đoàn Việt Nam sang Bắc Kinh học tập CCRÐ. Về nước, ông Trấn tham gia công tác tại thí
điểm Thanh Hóa, và nhận xét rằng cuộc phát động CCRÐ tại Thanh Hóa xem ra không thành
công. (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 164.) Sau lần thử nghiệm ở các thí điểm trên, VM rút kinh
nghiệm và chuẩn bị kỹ lưỡng bài bản thực hiện cuộc CCRÐ một cách chu đáo triệt để.

Trong khi đó, từ năm 1949, ban lãnh đạo VM đã đưa ra phong trào "Rèn cán chỉnh quân" trong
quân đội, và "Rèn cán chỉnh cơ" về phía dân sự. "Rèn cán chỉnh quân" là rèn luyện cán bộ, chỉnh
đốn quân đội. "Rèn cán chỉnh cơ" là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn cơ quan. Phong trào nầy không
đạt được những mục tiêu do VM đề ra. Việt Minh liền theo đường lối cứng rắn quyết liệt của
CHNDTH, tổ chức phong trào "Chỉnh huấn" năm 1950.

CHỈNH HUẤN:

Theo nghĩa tầm nguyên, "chỉnh" là sửa đổi, sắp xếp; "huấn" là dạy dỗ. Chỉnh huấn có nghĩa là
dạy dỗ, huấn luyện và sửa đổi (con người) cho đúng hơn, tốt hơn theo đường lối cộng sản.
Phong trào "chỉnh huấn" của CSVN nhắm mục đích thanh lọc đảng viên, củng cố tư tưởng
chuyên chính vô sản, và hỗ trợ cho cuộc CCRÐ. Lúc đó VM nhận định: "Phần lớn [cán bộ, đảng
viên lúc đó] là tiểu tư sản trí thức, công chức cũ, có người xuất thân giai cấp bóc lột, và không
loại trừ người "hai mặt chui vào đảng". Nói chung, anh em ta, trót đã thụ hưởng giáo dục của đế
quốc tư bản thì sự tham gia cách mạng không khỏi có phức tạp. Huống chi nay lại còn có Cải
cách ruộng đất để bồi dưỡng cho nông dân để đảm bảo cho cuộc kháng chiến thắng lợi, thì biết
đâu tư tưởng của họ không biến đổi phức tạp hơn nữa. Vậy nên Trung ương cho mở cuộc vận
động chỉnh huấn nầy để tiếp tục giáo dục, để cải tạo họ một cách triệt để, cho họ phân rõ địch ta
trong tư tưởng, cho họ...cho họ nào là tự mình cắt đứt mối liên hệ với thành phần xuất thân, dứt
khoát từ bỏ các thứ tư tưởng cầu an hưởng lạc, tự tư tự lợi..." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tt. 171-
172).

Nói theo ngôn ngữ của cộng sản, chỉnh huấn là tự phê, tự kiểm. Như vậy chỉnh huấn có nghĩa là
tự suy nghĩ và nhận xét về những tư tưởng, hành động cũ của mình trong đời sống đã qua, mà
không thích hợp với đường lối cộng sản. Những tư tưởng và hành động này bị xem là sai lầm, tội
lỗi, được từng cá nhân tự giác ngộ, tự khai trình, và tự đề ra những biện pháp sửa chữa. Nói
cách khác, chỉnh huấn là đoạn tuyệt với quá khứ và tự nguyện sống theo nguyên tắc cộng sản,
hay cũng theo ngôn ngữ cộng sản, là lột xác để trở thành con người cộng sản. Những văn nhân,
thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thế Lữ, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Xuân Khoát...
đã tự phỉ báng mình, và nguyện theo cộng sản suốt đời. Sau đây là tâm tư của Xuân Diệu đáp lại
lá thư của ông Hồ trong cuộc học tập chỉnh huấn:
"Chúng con thề nguyện một lời,
Quyết tâm thành khẩn... lột người từ đây..."
(Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Sài Gòn 1959, tr.
22)

Phong trào chỉnh huấn đã gây nhiều điêu đứng cho giới trí thức, văn
nghệ sĩ. Một trong những điêu đứng rất mỉa mai, như lời ông Nguyễn
Văn Trấn viết, đó là: "Họ nói khổ sở không phải là nói ra lỗi lầm, mà
khổ sở là phải bịa ra lỗi lầm để bản kiểm thảo được coi là thành
khẩn." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 173.)

THÀNH PHẦN NÔNG THÔN:

Ðối với các thành phần nông nghiệp, VM ra sắc lệnh vào tháng 3-
1953 ấn định các thành phần xã hội ở nông thôn như sau : (Bernard Fall, sđd. tr. 283)

Ðịa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp canh tác. Ðịa chủ được chia
thành ba hạng: địa chủ thường (có khoảng dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời
Pháp thuộc), địa chủ cường hào ác bá (những người hiếp đáp, ngược đãi bần nông và bần cố
nông), địa chủ phản động (quan lại phong kiến, Việt Quốc, Ðại Việt, hay thân Pháp.

Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra canh tác và thuê nông dân trong
việc canh tác. Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung nông chia thành 2 loại:
trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con trâu hay bò), và trung nông cấp thấp (có dưới
1 mẫu ta ruộng).

Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ
rồi trả địa tô. Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông cụ, làm
thuê đủ thứ nghề để sống (Lâm Thanh Liêm, bđd. sđd. tt. 187-188).

Ðường lối đấu tranh cải cách là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô lập
phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ.

VẬN ÐộNG QUẦN CHÚNG:

Ðể lôi cuốn nông dân hưởng ứng cuộc CCRÐ, ban cải cách phải theo đúng ba giai đoạn đề ra do
sắc lệnh ngày 12-4-1953 như sau:

Thứ nhất: khích động tâm lý quần chúng chống lại các địa chủ bằng cách đưa cán bộ về thực
hiện "tam cùng" hay "tam đồng" với bần nông, để "thăm nghèo hỏi khổ" và sau đó "bắt rễ, xâu
chuỗi".

Theo VM, cán bộ cần phải tam cùng tức "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với dân chúng, để "thăm
nghèo hỏi khổ", mới khám phá được rõ ràng những gia đình nghèo khổ, bần cố nông. Cũng theo
VM, bần nông nghèo khổ nợ nần và sợ sệt các địa chủ, không dám nói lên sự thật, nên cán bộ
phải "tam cùng" để họ thổ lộ tâm can, mới có thể "bắt rễ xâu chuỗi", tạo ra liên minh đấu tranh cải
cách. "Bắt rễ" có nghĩa là tìm ra những bần cố nông có tinh thần đấu tranh, thường thường là
những tên đầu trộm đuôi cướp hung hãn. Sau khi tìm ra "rễ", thì khuyến khích "rễ" tìm thêm đồng
bọn, gọi là "xâu chuỗi". Một khi đã "bắt rễ xâu chuỗi", cán bộ sẽ cho bần nông biết là họ được
nhà cầm quyền VM hỗ trợ để chống lại địa chủ.

Thứ hai: Sau khi len lỏi "bắt rễ xâu chuỗi", và nhờ thông tin của rễ chuỗi nầy, nắm vững tình
hình các gia đình trong địa bàn hoạt động, cán bộ bắt đầu đánh giá và xác định lại các thành
phần xã hội đã được Ủy ban hành chánh địa phương sắp xếp theo sắc lệnh tháng 3-1953 nêu
trên. Từ đó, đội công tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Ðây là cơ hội giải quyết
những ân oán đã có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng phú nông cho nhẹ tội,
hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho nặng tội.

Thứ ba: Thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những kẻ có tội với nhân dân. Ðể việc xét xử đạt
kết quả đúng yêu cầu của đảng LÐ, các bần nông được tổ chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng
để họ chủ động đấu tố.

Trong năm 1953, mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ để tiến hành CCRÐ, nhưng vào đầu năm 1954,
chiến tranh đến hồi khốc liệt và sắp kết thúc, chính phủ VM bận giải quyết chiến trường, vận
động ngoại giao, rồi ký kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRÐ tạm đình hoãn vì sợ tiếng vang lan
truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ đình hoãn chứ không bãi
bỏ.

Sau Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng LÐ cai trị phía bắc vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải,
Quảng Trị). Ổn định xong tình hình, đảng LÐ mở lại cuộc CCRÐ giai đoạn 5. Lần nầy việc tổ
chức có quy củ rõ ràng, do Uỷ ban CCRÐ đứng đầu.

Ủy BAN CẢI CÁCH RUộNG ÐẤT:

Gồm hai cấp trung ương và địa phương.

Cấp trung ương:

Do tổng bí thư đảng LÐ là Trường Chinh Ðặng Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là
Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều là Ủy viên Bộ chính Trị) và Hồ Viết Thắng (ủy viên Trung
ương đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành cuộc cải cách theo mệnh lệnh
của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đã từng đi học CHNDTH, được Trường Chinh giao nhiệm vụ
mở "Trung tâm đào tạo cán bộ cải cách ruộng đất" tại chiến khu Cao Bắc Lạng.

Cấp tỉnh:

Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đã được đào tạo về các tỉnh tổ chức các đoàn CCRÐ.
Trung bình mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu,
quyền hạn tương đương với một bí thư đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung
ương, không qua trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm nhiều
đội, mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Ðội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố
nông, nhất là những người đã từng có kinh nghiệm tham gia các CCRÐ trước đây. Các đội có
quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh thẳng từ Uỷ ban CCRÐ, đúng như câu tục ngữ lúc đó "nhất đội
nhì trời", được quân đội bảo vệ để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa phương cung
cấp đầy đủ tài liệu theo chính sách của đảng và nhà nước. (Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-
185.)

Nguyên tắc hành động căn bản của các ủy ban CCRÐ là câu khẩu hiệu: "Thà chết mười người
oan còn hơn để sót một địch." (2) Chính câu khẩu hiệu nầy đã đưa đến việc giết hại tràn lan biết
bao nhiêu lương dân vô tội.

Ðoàn và đội công tác phóng tay phát động quần chúng đấu tranh CCRÐ hoạt động giống như
thần chết: Bí mật đến một địa phương nào đó, bí mật hành động... và gieo rắc tai ương khủng
khiếp cho địa phương. Không những chỉ địa chủ, phú nông sợ hãi mà toàn thể dân chúng và cả
các cấp chính quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hãi, vì bất cứ ai cũng có thể bị dính
tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả.
TÒA ÁN NHÂN DÂN:

Sắc lệnh năm 1953 cũng như sắc lệnh năm 1955 đều
thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những tội phạm
trong CCRÐ. Tòa án này được tổ chức ở những vùng có
cải cách, chánh án là một đội viên trong đội cải cách,
biện lý (công tố) là một nông dân hay bần nông đã từng làm việc (gia nhân, tá điền...) trong nhà
của bị cáo, biết rõ lý lịch khổ chủ. Các quan tòa này chỉ là những kẻ dốt nát, lâu nay thấp kém,
bỗng chốc được cất nhắc lên địa vị quan trọng, nên hạch sách trả thù, moi ra hay bịa đặt mọi thứ
gọi là thói hư tật xấu của khổ chủ, đặc biệt là tội dâm ô, để đấu tố. Ðặc biệt trong tòa án nhân
dân không có người đóng vai trò luật sư biện hộ, và cũng chẳng ai dám biện hộ cho bị cáo cả.
Quân đội bảo vệ tòa án và những người tham dự đều là những người do cộng sản sắp đặt
trước, hò hét khuyến khích người đóng vai "công tố", bằng cách chửi rủa hoặc tố cáo thêm
những "tội ác" của nạn nhân để làm bằng chứng.

Cuộc đấu tố bắt đầu bằng đấu lý, rồi đấu lực, đến đấu pháp; có khi còn cả đấu ảnh nữa. Ðấu lý là
đưa ra những bằng chứng hoặc có thực, hoặc bịa đặt để tố cáo nạn nhân. Ðấu lực là dùng sức
mạnh để trấn áp (cộng sản mạo xưng là sức mạnh quần chúng), với cực hình tra khảo, đánh đập
nạn nhân và bắt buộc nạn nhân phải nhận tất cả tội lỗi đã được đưa ra, dầu nạn nhân không
phạm phải. Cuối cùng là đấu pháp tức đưa nạn nhân ra trước "pháp luật", tức tòa án nhân dân.
Việc xét xử không dựa trên luật pháp của nhà nước, mà dựa trên những đòi hỏi tại chỗ của
"quần chúng", tức là những người tổ chức và hiện diện tại "phiên tòa", nghĩa là chẳng có luật
pháp gì cả, mà chỉ theo quyết định của đội cải cách.

Những người chứng kiến các cảnh đấu tố hiện còn sống kể lại nhiều cảnh tra tấn nạn nhân mà
trong hoàn cảnh bình thường ngày nay không ai có thể tưởng tượng nổi: từ bỏ đói, bỏ khát, sỉ
nhục, mắng chửi, hành hạ, thậm chí đào một cái hố bắt nạn nhân nằm xuống, rồi tiểu đại tiện lên
người nạn nhân, giựt tóc, đánh đập, đến dìm nước (rồi kéo lên cho tỉnh lại), dùng tre nhọn đâm
xuyên thủng tay chân, thân thể...

Sau khi nạn nhân chịu khuất phục, đội cải cách cho tập dượt trước việc xét xử. Họ bắt buộc
"chánh án, biện lý" và nạn nhân học thuộc tất cả những lời đối đáp qua lại, cho đến khi cả ba
thành phần nầy (chánh án, biện lý và nạn nhân) nhuần nhuyễn, thuộc lòng mọi việc, mới chính
thức mở phiên tòa xét xử công khai trước quần chúng.

Phiên tòa được tổ chức tại một địa điểm công cộng trong làng. Mọi người trong làng đều phải
tham dự, kể cả gia đình nạn nhân. Nạn nhân bị trói thúc ké, tay quặt ra đàng sau lưng, quỳ trước
mặt bàn quan tòa, đầu cúi xuống. Sau khi tòa lấy khẩu cung xong, dân chúng và nhân chứng
đứng ra tố cáo "tội ác" của nạn nhân. Họ sỉ vả chửi rủa, nhổ nước bọt, hành hạ đánh đập nạn
nhân. Ðôi khi ngay những người trong gia đình nạn nhân, cũng bị bắt buộc phải phụ họa với tòa
án, tố cáo nạn nhân.

Cuối cùng viên "biện lý" dựa vào "bằng chứng" nhân dân vừa tố cáo, đứng ra buộc tội nạn nhân
và đề nghị một bản án thích đáng. Thật ra, bản án này đã được đội CCRÐ quyết định trước rồi.
Ðể có vẻ dân chủ, viên chánh án còn đưa bản án ra "hỏi ý kiến" nhân dân. Những nhân viên ban
cải cách, các chức quyền làng xã, các quân sĩ bảo vệ phiên tòa có mặt tại hiện trường, liền tỏ ý
hưởng ứng bằng cách vỗ tay, la hét, đưa vũ khí lên để ủng hộ. Dân chúng chẳng đặng đừng phải
làm theo.

Bản án của tòa án nhân dân có tính cách chung thẩm. Nạn nhân không được kháng án, không
được khiếu tố khiếu nại với ai cả. Nạn nhân không có cách gì để tự biện hộ, và chỉ cúi đầu chấp
nhận kết quả bản án. Vì đã được thao dượt trước, nhiều nạn nhân biết trước kết quả bản án, nên
có người đã tự tử trước khi tòa án thực sự tiến hành, để tránh kéo dài sự nhục nhã và đau đớn.
Nhiều nạn nhân tự tử hoặc không chịu nổi những đòn tra tấn mà chết, nhưng gia đình không
được đem đi chôn, để phơi nắng, phơi mưa giữa các cánh đồng. Gia đình nạn nhân đau lòng
quá, hoặc phải hối lộ đội cải cách để được đem xác thân
nhân đi chôn, hoặc ban đêm kiếm cách đánh cắp đem
chôn một cách bí mật.

Nạn nhân tuy đã tự tử (chết) vẫn tiếp tục bị đấu tố, gọi là
"đấu ảnh". "Ðấu ảnh" là đặt tấm ảnh của nạn nhân trên một
bục đất, nếu không có ảnh thì đặt một di vật của nạn nhân
như mũ, áo..., nơi chỗ nạn nhân bị trói, và người ta đứng
ra tố cáo, sỉ vả nạn nhân như là người nầy vẫn còn sống.

Câu chuyện do ông Lê Nhân, một cựu cán bộ đảng viên, kể lại trong lá thư ông gởi cho ông
Phan Văn Khải, thủ tướng nhà cầm quyền Hà Nội, viết từ Hà Nội ngày 5-12-2005, có thể xem là
một trường hợp đấu ảnh điển hình.

"Bạn của Lê Nhân là anh Phan Thiệu Cơ, cháu đích tôn của cụ Phan Bội Châu kể rằng ông nội
của anh là cụ Phan bị quy lên thành phần địa chủ, quan lại phong kiến nên nhà cửa của Phan
Bội Châu ở Nam Ðàn Nghệ An và sách vở di cảo của cụ bị đảng cộng sản phần thì tịch thu, phần
thì đốt sạch. Cụ Phan một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thế kỷ XX chết rồi vẫn bị đội cải cách
ruộng đất sai làm hình nộm giống y người thật đem ra giữa chợ đấu tố, lấy cứt trát vào mặt hình
nộm cụ Phan." (trích Ðàn Chim Việt ngày 5-12-2005, người trích in đậm.)

Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhân vật lịch sử vĩ đại tầm cỡ quốc gia và quốc tế, gốc người
Nghệ An. Cụ là niềm hãnh diện của toàn thể dân chúng tỉnh Nghệ An, trong đó có cả những đảng
viên cao cấp trong đảng LÐ. Phan Bội Châu lại cùng quê với Hồ Chí Minh. Khi Hồ Chí Minh qua
Trung Hoa hoạt động năm 1924, Phan Bội Châu cũng hoạt động tại đây. Bề ngoài Hồ Chí Minh
kính cẩn gọi cụ Phan bằng bác, để rồi sau đó chính Hồ Chí Minh (lúc đó có tên là Lý Thụy) đã
hợp tác cùng Lâm Ðức Thụ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu ngày 1-7-1925 khi cụ Phan vừa
từ Hàng Châu đến Thượng Hải (Trung Hoa). (3) Pháp bí mật đưa cụ Phan về Hà Nội để đưa ra
tòa án, rồi quyết định an trí cụ Phan ở Huế cho đến khi cụ từ trần ngày 29-10-1940.

Phan Bội Châu từ trần trước cuộc CCRÐ 15 năm, mà vẫn bị đem ra đấu tố. Việc đấu tố một nhân
vật tầm cỡ như Phan Bội Châu, một người được dân chúng Nghệ An kính mến và trân trọng,
không thể là một hành động tự phát tại chỗ của đội CCRÐ địa phương, mà phải có mật lệnh từ
cấp trên, mà cấp trên nầy phải là một người lãnh đạo cao cấp. Người lãnh đạo cao cấp nầy
không thể ai khác hơn là Hồ Chí Minh, nên đội CCRÐ Nghệ An mới dám chà đạp lên Phan Bội
Châu, thần tượng của quê hương Nghệ An. Như thế, chính Hồ Chí Minh đã hai lần ném đá giấu
tay triệt hạ nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu.

Trở lại với chuyện CCRÐ. Sau đây là hoạt cảnh đấu tố qua một bài "thơ" của Xuân Diệu. Trước
năm 1945, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng. Sau năm 1945 Xuân Diệu cũng rất nổi
tiếng vì ông là một bồi bút cộng sản:

"Anh em ơi! quyết chung lưng


Ðấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù,
Ðịa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi..."

Tóm lại, trong cuộc CCRÐ, cộng sản đã không từ nan bất cứ một phương pháp nào để hạ nhục
và hạ gục đối tượng bị đem ra đấu tố, đồng thời để làm cho dân chúng nông thôn khiếp hãi mà
phải phục tòng theo mệnh lệnh của cộng sản một cách tuyệt đối. Từ đó cộng sản mới thực hiện
những âm mưu đen tối của họ, mà gần nhất là dễ dàng áp đặt nông dân vào tổ chức hợp tác xã
nông nghiệp, để bóc lột nông dân một cách khoa học và tàn bạo hơn bao giờ cả.

Trần Gia Phụng


Toronto, Canada

Chú thích:

1. "Giảm tô, giảm tức": Tô: tiền thuê đất mà tá điền (nông dân cày ruộng) trả cho chủ đất (điền
chủ hay địa chủ). Tức : lãi trên số tiền hay trên số lúa tá điền vay của chủ điền. Số lãi nầy nặng
hay nhẹ tùy theo sự thỏa thuận giữa người cho vay và người xin vay, thường thường là rất nặng,
lại lũy tiến, nên có lúc tiền lãi cao hơn tiền vay.

2. Hoàng Văn Chí, sđd. tt. 293-315, trích đăng lại bài "Qua những sai lầm trong cải cách ruộng
đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo" của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, tt. 293-315. Trong bài này,
luật sư Tường nhắc lại câu khẩu hiệu trên đây của Ủy ban CCRÐ.

3. Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả [chữ Trung Hoa],
Taipei (Ðài Bắc): Nxb. Truyện Ký Văn Học, 1972; bản dịch của Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại
Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.

You might also like