You are on page 1of 12

Hà nội thời lê sơ

Tiếp nối nhà Lê sơ (1428-1527) là nhà Mạc (1527-1593) và sự phục


hưng của nhà Lê không lâu sau, gọi là Lê trung hưng (1533-1789)Nhà
Lê sơ là giai đoạn đầu của nhà Hậu Lê (Hán-Nôm: 後黎朝 ・家後
黎 1428–1527), một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, được
thành lập sau khi vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) lãnh đạo cuộckhởi nghĩa
Lam Sơn chiến thắng quân Minh.
Thời Lê sơ kéo dài đúng 100 năm, có 10 vua thuộc 6 thế hệ, đây là
thời kỳ các vua Lê nắm trọn được quyền hành, cũng là thời kỳ vĩ đại,
hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Đặc biệt dưới thời Lê
Thánh Tông, đất nước phát triển về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã
hội,giáo dục thi cử, quân sự... Nước Đại Việt chưa bao giờ cường
thịnh bằng thời này.
Nhà Lê sơ được thành lập từ kết quả thắng lợi của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn kéo dài 10 năm chống lại sự đô hộ của nhà Minh (Trung
Quốc) do Lê Lợi lãnh đạo.
Khi sang đánh nhà Hồ chiếm nước Đại Ngu (1406), nhà Minh đã nhân
danh "Phù Trần diệt Hồ", nhưng sau đó lại đánh diệt nhà Hậu
Trần (1413). Vào cuối cuộc chiến với Lê Lợi, khi bị quân Lam Sơn
vây trong thành Đông Quan (Hà Nội), tướng nhà Minh là Vương
Thông đề nghị lập lại con cháu họ Trần làm điều kiện giảng hòa. Lê
Lợi đã tìm lập Trần Cảo lập làm vua trên danh nghĩa vào cuối
năm 1426.
Năm 1427, quân Minh sau 2 trận thua quyết định ở Chi Lăng và
Xương Giang phải rút về nước. Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người
đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được
phong. Vua Minh Tuyên Tông biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng
vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc
vương.
Ít lâu sau Trần Cảo chết[1]. Lê Lợi tự mình lên ngôi vua, rồi sai sứ sang
tâu nhà Minh rằng Trần Cảo bệnh mà chết ngày 10 tháng giêng năm
1428 âm lịch, do đó Lê Lợi có danh chính để làm vuaĐại Việt. Minh
Tuyên Tông thừa nhận Lê Lợi làm An Nam quốc vương.
Nhà Hậu Lê chính thức thành lập năm 1428, được sử gọi là Lê sơ.
Nhà Lê sơ được thành lập từ kết quả thắng lợi của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn kéo dài 10 năm chống lại sự đô hộ của nhà Minh (Trung
Quốc) do Lê Lợi lãnh đạo.
Khi sang đánh nhà Hồ chiếm nước Đại Ngu (1406), nhà Minh đã nhân
danh "Phù Trần diệt Hồ", nhưng sau đó lại đánh diệt nhà Hậu
Trần (1413). Vào cuối cuộc chiến với Lê Lợi, khi bị quân Lam Sơn
vây trong thành Đông Quan (Hà Nội), tướng nhà Minh là Vương
Thông đề nghị lập lại con cháu họ Trần làm điều kiện giảng hòa. Lê
Lợi đã tìm lập Trần Cảo lập làm vua trên danh nghĩa vào cuối
năm 1426.
Năm 1427, quân Minh sau 2 trận thua quyết định ở Chi Lăng và
Xương Giang phải rút về nước. Lê Lợiđứng tên Trần Cảo là người
đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được
phong. Vua Minh Tuyên Tông biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng
vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc
vương.
Ít lâu sau Trần Cảo chết[1]. Lê Lợi tự mình lên ngôi vua, rồi sai sứ sang
tâu nhà Minh rằng Trần Cảo bệnh mà chết ngày 10 tháng giêng năm
1428 âm lịch, do đó Lê Lợi có danh chính để làm vuaĐại Việt. Minh
Tuyên Tông thừa nhận Lê Lợi làm An Nam quốc vương.
Nhà Hậu Lê chính thức thành lập năm 1428, được sử gọi là Lê sơ.
Xây dựng đất nước
Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng lại đất nước sau thời bị nhà Minh đô
hộ. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào xây dựng
đất nước bị tàn phá qua nhiều năm chiến tranh.
Sang thời Lê Thánh Tông, vua tiến hành một loạt cải cách đưa Đại
Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh trị được coi là hoàng kim của
chế độ phong kiến Việt Nam. (xem chi tiết bài Lê Thánh Tông)
Bộ máy hành chính
Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo,
gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các
đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-
dân.
Dưới đạo là phủ huyện (miền núi gọi là châu), xã, thôn. Đến thời
vua Lê Thánh Tông đổi chia làm 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên
thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách ba mặt
hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên có
phủ, châu, huyện, xã, thôn.
Bộ máy chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời
vua Lê Thánh Tông thì được các nhà nghiên cứu đánh giá là hoàn
chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào
nhà vua Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như
tướng quốc, đại tổng quản, đại hành khiển. Vua trực tiếp nắm mọi
quyền hành kể cả chức tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc cho vua có
các quan đại thần.
Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ nhà Trần chỉ có 4
bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ,
Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:

 Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan
tước;
 Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học
hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu
mạo;
 Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế
kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;
 Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên
cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc
khẩn cấp;
 Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại
các việc tù, đày, kiện cáo;
 Công Bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung
điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.
Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến
tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có
công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài
và đức.

Kinh tế

Đĩa gốm men lam trang trí rồng thế kỷ 15


Lê Thánh Tông còn quan tâm các chính sách nhằm phát triển
kinh tế như, sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông
nghiệp, mở đồn điền. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây
dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển khá
mạnh.
Nông nghiệp
Hai mươi năm dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh , đời
sống nhân dân Đại Việt rất cực khổ. Để nhanh chóng phục hồi
và phát triển nông nghiệp vua Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong
tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại
10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất.
Nhà Lê kêu gọi dân phiêu tán về quê làm ruộng, đặt ra một số
chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà
đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công
làng xã gọi là phép quân điền; cấm giết trâu bò bừa bãi cấm điều
động dân phu trong mùa cấy gặt.
Nhà Lê còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm
khai thác những vùng đất mới. Nhờ những chính sách tích cực,
nông nghiệp đã đảm bảo tương đối đời sống nhân dân trong
nước. Nhân dân thời Lê có câu thơ:
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Lúa tốt đầy đồng trâu chẳng buồn ăn
Thủ công nghiệp
Nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên
nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ
công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm,
nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36
phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận
ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, phường Nghi
Tàm dệt vải lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng
Đào nhuộm điều, phường Ngũ Xá đúc đồng, phường gạch
và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác.
Các ngành nghề thủ công truyền thống như ở các làng xã
như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt,
làm đồ gốm v.v... ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ
công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng Long là nơi
tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất.
Các công xưởng do nhà nước quản lí gọi là Cục Bách
tác sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền,
đúc tiền đồng...; các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được
đẩy mạnh.
Thương mại
Nhà vua khuyến khích lập chợ mới họp chợ ban hành
những điều luật cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp
chợ.
Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các
nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như
Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Hà Tĩnh)
và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm
soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành sứ, vải lụa, lâm sảm quý
là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa
chuộng.
Tuy nhiên, cùng với thủ công nghiệp, thương mại vẫn bị
nhà nước ức chế. Thời nhà Lê chính quyền dùng chính
sách bế quan tỏa cảng. Nhà Lê hạn chế ngoại thương hơn
cả nhà Lý, nhà Trần. Các tàu ngoại quốc tới buôn bán đều
phải đậu ở Vân Đồn. Dân buôn muốn đi buôn bán thì phải
có giấy phép, về cũng phải có giấy phép. Quan lại vô cớ
tới Vân Đồn, dân chúng tự tiện đón tàu vào buôn bán cũng
đều bị xử tội[3].
Giáo dục
Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thái Tổ cho dựng
lại Quốc Tử Giám ở kinh thành Thăng Long mở trường
học các lộ mở khoa thi và cho phép người nào có học
đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học đi thi trừ
những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.
Ở các đạo phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn
người giỏi có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học
tập thi cử là sách của nhà Nho. Thời Lê sơ (1428-1527)
tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ 20
trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-
1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ
9 trạng nguyên.
Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không
cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà
Lý, nhà Trần. Tài liệu học tập thì gồm mấy bộ Tứ
Thư, Ngũ Kinh tinh tuý, Bắc sử (Sử Trung Quốc).
Phương pháp giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là
trừng phạt bằng roi vọt và học thuộc lòng. Ngoài ra còn
nguyên tắc lặp lại tư tưởng cổ nhân và biểu diễn bằng
những câu sáo rỗng[4].
Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần
đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484,
các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia
vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới,
Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo
nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái
học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục
lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách,
đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà
văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao
Đàn chủ soái. Việc thi cử và học tập thường xuyên và
rất nhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và thành danh.
Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật
giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống
sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được
coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và
giới nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này.
Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của nhà Minh nên
nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển
rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ.
Hệ thống Nho giáo này do phong kiến nhà Lê bắt chước
theo nhà Minh của Trung Quốc. Người học tuyệt đối
không ai được phát huy ý kiến riêng của mình, cấm
chỉ tự do tư tưởng. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cho
rằng kiểu người điển hình do phương pháp giáo dục này
đào tạo là người hủ nho hoàn toàn trung thành với chế
độ quân chủ nhà Lê[5].
Luật pháp
Về luật pháp, Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu
Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông,
nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật
này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp
quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới. Lê
Thánh Tông đã lấy những quan điểm của nho giáo
làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành
luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong
kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân
làm gốc.
Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của
vua hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai
cấp thống trị địa chủ phong kiến. Đặc biệt bộ luật có
những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến
khích phát triển kinh tế, gìn giữ những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ
nữ.
Xã hội
Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa
số dân cư sống chủ yếu ở nông thôn. Họ có rất ít
hoặc không có ruộng đất phải cày ruộng đất công
nộp tô thuế đi phục dịch cho nhà nước (đi lính đi
phu...) hoặc phải cày cấy ruộng thuê của địa chủ
quan lại và phải nộp một phần hoa lợi (gọi là tô) cho
chủ ruộng.
Nông dân là giai cấp bị bóc lột nghèo khổ trong xã
hội. Tầng lớp thương nhân thợ thủ công ngày càng
đông hơn họ phải nộp thuế cho nhà nước và không
được xã hội phong kiến coi trọng.
Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội bao gồm
cả người Việt người Hoa dân tộc ít người. Pháp luật
nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bàn mình làm nô
hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy số lượng nô tì
giảm dần
Nhờ chính sách khuyến nông, cuộc sống của nhân
dân được ổn định dân số ngày càng tăng. Nhiều làng
mới được thành lập. Các nhà nghiên cứu Việt
Nam tự nhận Đại Việt đã trở thành một quốc gia có
uy thế trong khu vực Đông Nam Á..
Văn học, khoa học, nghệ thuật

Phiên bản bia Vĩnh Lăng, Lam Kinh, Hà Nội


 Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế có
hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng. Văn học chữ
Nôm giữ một vị trí quan trọng. Văn thơ chữ
Hán có những tác phẩm nổi tiếng như: Quân
trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quỳnh
uyển cửu ca... Văn thơ chữ Nôm có Quốc âm
thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Thập giới
cô hồn quốc ngữ văn v.v...
Văn học thời Lê Sơ có nội dung yêu nước sâu sắc
thể hiện niềm tự hào dân tộc khí phách anh hùng
và tinh thần bất khuất của dân tộc [8]. Ngoài ra văn
học thời Lê Sơ xuất hiện 1 bộ phận tác giả chuyên
sử dụng văn học làm công cụ chỉ để ca ngợi nhà
vua. Phần lớn các tác phẩm loại này được viết với
lời lẽ rất trau chuốt, ý tứ cẩu kỳ và tình cảm giả
tạo.

 Sử học có tác phẩm: Đại Việt sử kí (10 quyển) của Phan Phu


Tiên, Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển)
của Ngô Sĩ Liên, Lam Sơn thực lục của
Nguyễn Trãi, Đại Việt thông giám của Vũ
Quỳnh, Việt giám thông khảo tổng luận của Lê
Tung, Hoàng triều quan chế...
 Địa lí học có sách Hồng Đức bản đồ Dư địa
chí An Nam hình thăng dồ, Dư địa
chí của Nguyễn Trãi.
 Y học có công trình Bản thảo thực vật toát
yếu của Phan Phu Tiên và Bảo anh lương
phương của Nguyễn Trực
 Toán học có các tác phẩm Đại thành toán
pháp của Lương Thế Vinh, Lập thành toán
pháp của Vũ Hữu.
 Ngoài ra thời Lê Sơ cũng cho biên soạn Điển
lệ là loại sách tổng hợp thành tựu của nhiều
ngành. Bộ Thiên Nam dư hạ tập gồm 100
quyển của Lê Thánh Tông cũng là 1 ví dụ cụ
thể.
 Nghệ thuật sân khấu như ca múa
nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng
và phát triển nhất là chèo, tuồng. Âm nhạc
cung đình được hình thành từ thời Lê Thái
Tông.
 Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lê Sơ
biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình
lăng tẩm cung điện tại Lam Kinh (Thanh Hóa).
Hiện nay còn lại một số dấu vết của Lam Kinh
ở Thanh Hóa như nền cột bậc thềm một số con
vật bằng đá. Cung điện Lam kinh xây dựng trên
một khu đất hình chữ nhật dài 314 mét rộng 254
mét, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong các
bia đá, nổi tiếng nhất là bia Vĩnh Lăng (viết về
vua Lê Thái Tổ).
Tổ chức quân đội
Vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là
chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện
các bước để tăng cường các khả năng chiến
đấu của các vệ quân năm đạo. Việc canh
phòng và cảnh giác về vấn đề biên cương rất
chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình nhà
Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Lê
Thánh Tông cải tổ quân đội mạnh mẽ về mặt
tổ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ
quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có
vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm
nhiều ti, vệ.
Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh
Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa
phương gọi là chế độ "ngụ binh ư nông": khi
đất nước có giặc ngoại xâm thì tất cả quân lính
đều tại ngũ chiến đấu cùng toàn dân; khi hoà
bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. 43 điều
quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông
ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất
nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
Quân đội có hai bộ phận chính: quân ở triều
đình và quân ở các địa phương; bao gồm bộ
binh thuỷ binh tượng binh kị binh. Vũ khí
quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những
tiến bộ vượt bậc,
gồm đao, kiếm, giáo, mác, cung, tên, hỏa
đồng, hỏa pháo.
Hằng năm quân lính được luyện tập võ nghệ
chiến trận. Vùng biên giới đều có bố trí quân
đội mạnh canh phòng và bảo vệ không để xâm
lấn.

You might also like