You are on page 1of 9

DẠY HỌC NÊU VÀ GIẢI QUYẾT 

VẤN ĐỀ  
Vì sao áp dụng phương pháp dạy học “nêu và giải quyết vấn đề?
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của người học đã được đặt ra, và là định hướng quan trọng về cải cách giáo dục
của nước ta hiện nay. Dưới làn sóng đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là giáo dục phải
đào tạo ra những con người năng động và sáng tạo, có tính thích nghi cao đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Với phương châm “dạy học lấy người học
làm trung tâm”, bao gồm nhiều phương pháp dạy học khác nhau như: Phương pháp
dạy học chương trình hóa, phương pháp dạy hợp tác, dạy học khám phá, dạy học
theo dự án... Trong đó, phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là một
trong những phương pháp dạy học phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục nước ta
hiện nay. Mặc dù, dạy học không đơn thuần là truyền thụ kiến thức mà là một quá
trình trong đó người lĩnh hội, tự kiến tạo những kỹ năng, tri thức cần thiết cho cuộc
sống của mình, nhằm đáp ứng những thách thức của cuộc sống mà người học sẽ
đối diện. Việc áp dụng phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” sẽ giúp
cho người học chủ động, tích cực hơn trong việc học cũng như trong cuộc sống
tương lai.
A. Nội dung:  
1. Một số khái niệm được dùng trong phương pháp dạy học “Nêu và
giải quyết vấn đề”:
Khái niệm vấn đề:
Vấn đề là một câu hỏi nảy ra hay đặt ra cho chủ thể mà chủ thể chưa biết lời giải từ
trước và phải tìm tòi sáng tạo lời giải, nhưng chủ thể đã có sẵn một số phương tiện
ban đầu sử dụng thích hợp vào việc tìm tòi đáp án.
Vấn đề là điều cần được xem xét, nghiên cứu, giải quyết .
Khái niệm Dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”:
Dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là một phân hệ của phương pháp dạy học. Tập
hợp nhiều phương pháp cụ thể thành một chỉnh thể nhằm đạt mục đích sư phạm.
Đặc trưng là đặt người học tình huống có vấn đề, mà một tình huống có vấn đề
đối với người học khi nó chứa đựng vấn đề chưa biết, phù hợp với nhu cầu,
khả năng vốn có của cá nhân đó và khi giải quyết được vấn đề, cá nhân đạt
được một bước phát triển mới dựa trên bản chất của hoạt động dạy học, xem hoạt
động dạy học là một quá trình nhận thức tích cực. Xây dựng “trên nguyên tắc tính
tích cực, tự giác, độc lập nhận thức của người học trong giáo dục bời vì nó khêu
gợi được động cơ học tập”.
Khái niệm tình huống có vấn đề:
Tình huống có vấn đề là tình huống mà ở đó gợi cho người học những khó khăn về
lí luận hay thực tiễn mà họ thấy cần thiết phải vượt qua và có khả năng vượt qua 
Phân loại tình huống có vấn đề
+ Tình huống nghịch lý: Đó là tình huống thoạt nhìn tưởng như vô lý, đi ngược lại
những lý thuyết đã được công nhận chung. Đối với người học, tình huống này
được tạo ra bằng cách giới thiệu những sự kiện, hiện tượng trái với quan điểm
thông thường, với kinh nghiệm của cá nhân họ. Việc giải quyết những tình huống
này có thể đem lại một lý thuyết mới, phế bỏ những lý thuyết lỗi thời.
+ Tình huống lựa chọn: Đó là tình huống xuất hiện khi người học đứng trước nhiều
phương án giải quyết, phương án nào cũng có lý. Nhưng chỉ có thể lựa chọn một
phương án duy nhất mà thôi.
+ Tình huống bác bỏ: Đó là tình huống đặt ra khi người học đứng trước một
kết luận, một luận đề sai lầm, phản khoa học. Nhiệm vụ của người học là đưa
ra những luận chứng để bác bỏ chúng.
+ Tình huống tại sao: Là tình huống trong đó có những sự kiện, hiện tượng mà với
kinh nghiệm cũ người học không thể giải quyết và luôn thốt ra câu hỏi “Tại sao”.
Trong dạy học, tình huống này rất phổ biến và hiệu nghiệm.

2. Đặc điểm, bản chất của phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”:  
Phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là một hệ thống phương
pháp trong đó xây dựng tình huống có vấn đề là trung tâm chỉ đạo, liên kết
các phương pháp khác thành một hệ thống chặt chẽ. 
Phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” được thực hiện theo hướng quy
nạp, nội dung được tiếp cận thông qua quá trình giải quyết vấn đề 
Trong phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” có tác dụng tích cực hóa
hoạt động của người học. Đặt người học vào trong tình huống có vấn đề, thúc đẩy
người học sẵn sàng hoạt động một cách tự giác, tích cực, có động cơ, có mục đích
và khi vấn đề được giải quyết, người học có được niềm vui và động lực mới cho
những lần học sau.
3. Cấu trúc của dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”:
Thúc đẩy sự suy nghĩ tích cực của người học và dẫn dắt sự suy nghĩ ấy theo con
đường ngắn nhất, hợp lý nhất, để đạt tới kiến thức và kỹ năng.
Ở đây phải có một bước tiến lên mang chất lượng mới: ý thức được (Hoặc biểu đạt
được) vấn đề, thường thể hiện ra ở chỗ “đặt được câu hỏi” hoặc “nêu được thắc
mắc” (trong nghiên cứu là xác định được đề tài khoa học).
Nếu thiếu khả năng hoặc thiếu kiến thức cần thiết, chúng ta sẽ không ý thức được
vấn đề, không đặt được câu hỏi hoặc đặt câu hỏi vụng về. Học sinh đi từ chỗ biết
“ở đây có điều mình chưa biết” đến chỗ thấy rõ “mình chưa biết cái gì?” và tư duy
thực sự diễn ra.
Quá trình tư duy trọn vẹn sẽ bao gồm các khâu như sau:
- Băn khoăn, thắc mắc, ý thức được là có vấn đề cần giải quyết.
- Ý thức được vấn đề: Đâu là cái cần biết.
- Gợi lại các kinh nghiệm và tri thức đã có, đối chiếu với câu hỏi.
- Gợi lại những nguyên tắc tổng quát đã biết để giải quyết vấn đề, đối chiếu với câu
hỏi
- Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa.những kiến thức đã được gợi
lại, cả những câu hỏi đặt ra nhằm tìm ra trong đó những quan hệ mới, đáp ứng
đúng câu hỏi (dưới dạng ban đầu hoặc dưới dạng đã biến đổi nhờ các thao tác tư
duy).
- Thoải mái, phấn khởi vì đã giải quyết xong vấn đề, đạt tới tri thức mới.
4. Giai đoạn thực hiện/Quy trình dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”:  
3 giai đoạn: 
Giai đoạn 1: Đặt vấn đề/Nêu vấn đề.
Với sự dẫn dắt của người dạy, giai đoạn này có thể thực hiện theo 2 bước:
Bước 1: Giới thiệu tình huống có vấn đề.
Tùy vào tình huống có vấn đề được nêu ra mà chúng ta có thể sử dụng nhiều cách
thức khác nhau để giới thiệu nó như kể một câu chuyện, xem một đoạn video, đưa
ra một câu hỏi, sử dụng tình huống thực tế xảy ra trong cuộc sống chứa đựng vấn
đề người dạy dự định trước đó. Tuy nhiên, việc lựa chọn cách thức giới thiệu phải
hết sức thận trọng, không làm mất thời gian và gây sự nhầm lẫn ở người học, khiến
người học khó tiếp cận vấn đề nêu ra.
Bước 2: Làm sáng tỏ vấn đề
Mục đích của bước này là giúp người học nhận diện được vấn đề tồn tại trong tình
huống. Trong thực tế dạy học, rất ít khi tất cả người học có thể nhận ra vấn đề ngay
sau khi tình huống được đưa ra. Lúc đó, người dạy sẽ sử dụng hệ thống các câu hỏi
có liên quan đến tình huống đưa ra để giúp đỡ người học. Một là, những câu hỏi
gợi lại dấu hiệu đã biết trong tình huống. Hai là, những câu hỏi giúp người học xác
định điều mà chúng cần biết thêm.
Hình thức giới thiệu phải lôi cuốn và sau khi đứa người học nhận diện được vấn đề
thì cần làm cho chúng hiểu được đó là vấn đề mà việc giải quyết nó là hết sức cần
thiết với chính người học.
Giai đoạn 2: Giải quyết vấn đề
Sau khi nắm bắt vấn đề, tiếp nhận nhiệm vụ nhận thức thì người học dựa
trên những cái đã biết có liên quan đến vấn đề mới sẽ đưa ra các cách giải quyết
vấn đề sau đó lựa chọn cách giải quyết và lên kế hoạch thực hiện nó. Giai đoạn
này có thể thực hiện theo các bước:
Bước 1: Đề xuất các ý tưởng, giả thuyết.
Thông qua việc thảo luận với sự hỗ trợ phù hợp từ phía người dạy (nếu cần),
các nhóm sẽ đưa ra ý tưởng và giả thuyết về vấn đề. Tại thời điểm này, ý tưởng
và giả thuyết chưa được kiểm chứng, chưa có căn cứ chắc chắn.
Bước 2: Xác định các kiến thức cần cho việc giải quyết vấn đề.
Dựa trên các ý tưởng, giả thuyết đã nêu ra trong bước 1, người học sẽ liệt kê
các kiến thức cần có để kiểm chứng đồng thời xác định kiến thức nào là mới
trong danh mục các kiến thức cần có để giải quyết vấn đề. Trong bước này, vai
trò của người dạy là hết sức quan trọng trong việc định hướng cho người học tự
xác định chính xác nội dung cần nghiên cứu.
Bước 3: Tìm hiểu các kiến thức mới có liên quan
Sau khi xác định đâu là những kiến thức mình cần có thêm để giải quyết vấn đề thì
người học sẽ có định hướng về các nguồn thông tin cần tham khảo. Giáo trình, tài
liệu học tập và các thông tin trên internet, sự tham vấn của người dạy, các chuyên
gia và bạn bè cùng học Ở bước này, người học có thể chia nhóm, phân chia các nội
dung cần nghiên cứu và sau khi thu thập đủ thông tin, các nhóm có thể thảo luận,
chia sẻ và hệ thống hóa kiến thức mới nhận được. Điều này đảm bảo cho tất cả các
thành viên hiểu được nội dung kiến thức mới từ đó biết được ý nghĩa của nó trong
việc đánh giá các ý tưởng, giả thuyết.
Bước 4: Kiểm nghiệm, đánh giá ý tưởng, giả thuyết.
Khi kiểm chứng, không một giả thuyết nào đưa ra được chấp nhận thì cần phải
quay trở lại vấn đề ban đầu, đề xuất giả thuyết mới, rồi kiểm chứng lại.
Kết thúc giai đoạn này, người học đã giải quyết được vấn đề nêu ra. Có thể
nói, đây là giai đoạn mà người học phải vận dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã
có, tiến hành các thao tác tư duy để đưa ra những giả phương án giải quyết vấn
đề gặp phải. Các phương án được tìm ra cần được phân tích, so sánh và đánh
giá xem có thực hiện được việc giải quyết vấn đề hay không, so sánh để lựa
chọn phương án tối ưu. Làm việc nhóm sẽ giúp người học rút ngắn thời gian giải
quyết vấn đề, dễ dàng hơn trong việc lựa chọn phương án tối ưu cũng như giúp cho
môi trường học tập trở nên thân thiện, cởi mở, tạo động lực cho việc giải quyết các
khó khăn.  
Giai đoạn 3: Kiểm tra cách giải quyết vấn đề, kết luận vấn đề/Trình bày kết quả:
Sự hiểu biết về vấn đề có thể được người học thể hiện thông qua việc viết báo cáo
về vấn đề, tạo ra sản phẩm, nêu các giải pháp về vấn đề. Cũng có khi trong một
thời gian học tập nhất định, người học không thể giải quyết vấn đề thì thay vì trình
bày kết quả thu được sau khi giải quyết vấn đề, người học có thể trao đổi, thảo luận
về những gì đã thu được, cái gì còn tồn động chưa được giải quyết, nảy sinh những
vấn đề mới nào và lấy đó làm cơ sở cho việc tiếp tục giải quyết vấn đề cũ cũng như
giải quyết vấn đề mới phát sinh.
5. Dạy học nêu vấn đề trong môn Ngữ Văn
 Biện pháp: Giáo viên nêu câu hỏi, học sinh trả lời nhằm củng cố và hoàn thiện
kiến thức, qua đó giáo viên biết được tình trạng nắm bắt kiến thức của học sinh để
sữa chửa và bổ sung những kiến thức thiếu xót nhằm khắc sâu kiến thức cơ bản
cho học sinh.
- Yêu cầu: Giáo viên đưa những câu hỏi có tính chất nêu vấn đề để huy động học
sinh làm việc, giáo viên không nên tham kiến thức hỏi quá nhiều câu hỏi vụn vặt,
câu hỏi ngắn gọn và có hệ thống, đồng thời giáo viên phải sữa lổ hỏng thiếu sót
của học sinh.
Việc vận dụng các phương pháp dạy học hợp lý đối với nội dung cụ thể để được
kết quả mong muốn phụ thuộc vào sự sáng tạo của mỗi giáo viên. Do đó, muốn
dạy học tốt để nâng cao chất lượng học tập của học sinh, ta phải đổi mới phương
pháp dạy học cho phù hợp với nội dung chương trình, ta cần chuẩn bị đầy đủ cho
một tiết lên lớp, trong khâu soạn bài cần đảm bảo đủ năm bước lên lớp.
Bước 1: Kiểm tra việc chuẩn bị cho một tiết học của học sinh.
Bước 2: Đặt vấn đề vào bài mới.
Bước 3: Tổ chức các hoạt động của học sinh.(Giáo viên sử dụng câu hỏi nêu
vấn đề).
Bước 4: Giúp học sinh trao đổi thảo luận rút ra kết quả học tập.
Bước 5: Bên cạnh triển khai bài mới ta cần chú ý đến bước củng cố và hướng dẫn
tự học ở nhà. Ở bước này rất quan trọng để đánh giá chất lượng học tập của học
sinh. Khi củng cố cần xoáy sâu trọng tâm, giúp học sinh nắm vững kiến thức đầy
đủ, chính xác. Bước hướng dẫn tự học, giáo viên cần cho học sinh biết cần phải
làm gì và cần chuẩn bị phần nào ở tiết học tiếp theo.
Tuỳ từng bài, từng địa phương, giáo viên có thể sắp xếp các loại kiến thức có hệ
thống phù hợp với thực tế. Cần cho học sinh tiếp cận văn bản, hiểu văn bản, quan
sát tranh ảnh… để rút ra kiến thức, muốn vậy giáo viên phải có kế hoạch thật cụ
thể trong việc chuẩn bị đồ dùng dạy học (văn bản mẫu, tranh ảnh, phiếu học tập…)
để tiết dạy sôi nổi, gây hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ 1:
Bài thơ “Bạn đến chơi nhà”. Nguyễn Khuyến
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
- Hỏi: Em hãy hình dung tâm trạng của chủ nhân khi có bạn đến chơi như thế
nào?
+ Trả lời: Hồ hởi, vui vẻ, thoả lòng.
- Hỏi : Lẽ thường, khi bạn đến chơi, chủ nhà nghĩ đến việc tiếp đãi bạn để tỏ tình
thân thiện. Nhưng trong bài thơ này, hoàn cảnh của chủ nhân có gì khác nên ông
không tiếp bạn theo lẽ thường?
+ Trả lời: Chợ thì xa, mọi thứ sản vật của gia đình có đấy mà lại như không.
- Hỏi: Em đọc được cảm xúc nào của chủ nhân tiếp bạn qua những lời lẽ đó?
+ Trả lời: Vui tươi, thanh thản.
- Hỏi: Em hiểu gì về Nguyễn Khuyến và tình bạn của ông từ bài thơ này ?
+ Trả lời: - Nguyễn Khuyến là con người hồn nhiên, dân dã, trong sáng.
- Tình bạn của ông là một tình bạn chân thành, ấm áp, bền chặt, dựa
trên giá trị tinh thần.
- Hỏi: Tiếng thơ tình bạn hồn nhiên dân dã chân thành này được viết bằng hình
thức ngôn từ tương ứng nào khiến bài thơ trở nên trong sáng hồn nhiên và dễ hiểu?
+ Trả lời: Hệ thống ngôn từ thuần Việt của lời thơ.
B . Kết luận  
Dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là phương pháp dễ áp dụng và dễ đạt hiệu quả
cao. Áp dụng phương pháp này sẽ kích hoạt tính tích cực của người học, tạo điều
kiện cho người học chủ động tìm kiếm tri thức, nâng cao hiệu quả học tập, có điều
kiện rèn luyện toàn diện bản thân. Những cái khó khi áp dụng phương pháp này là
người dạy phải rất hiểu trình độ của người học, phải nắm rất vững nội dung bài dạy
và luôn linh hoạt khéo léo đưa người học vào hoàn cảnh có vấn đề, giúp họ giải
quyết vấn đề để thoát khỏi tình huống đó. Ngoài ra, người dạy phải luôn luôn quản
lý tốt thời gian và tiến trình giờ giảng.
DẠY HỌC THEO SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG
DẠY HỌC NGỮ VĂN.
A. Khái niệm:
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là
PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào
sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến
thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,
chữ viết với sự tư duy tích cực.  
B. Cấu tạo:
Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ
chủ đề.
Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính.
Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý
càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ
chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến
thức nào đó.
C. Các bước thiết kế một SĐTD:
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần
mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:        
Bước 1:  Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình
ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
Bước 2:  Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề,
thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề
các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.                        
Bước 3:  Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi
ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai
thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.
Bước 4:  Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý,
tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
D. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp:
Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của
giáo viên.  
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh  thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến
thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh  hoàn
chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị
sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh
lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
E. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn:
Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả, biết liên hệ
kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn. Bởi vậy, rèn luyện cho
các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học
sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy.
Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ
tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu,
phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm SĐTD (Mind Map). Tóm
lại, việc sử dụng SĐTD sẽ giúp HS:
 Tăng sự hứng thú trong học tập.
 Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
 Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
 Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.                          
 Ghi nhớ tốt hơn.
 Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.

You might also like