You are on page 1of 22

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

TRONG THẾ KỶ 20 (1900-63)


Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XV (1914-
22)

ÐGH Bênêđíctô XV

L ịch sử Giáo Hội Công Giáo trong thời Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô
XV dính liền với một thảm họa lớn đã càn quét Âu Châu trong thời kỳ
này: Thế Giới Ðại Chiến I. Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã giữ thái độ
trung lập chính trị và cực lực lên án các lạm dụng của bất cứ phe phái
nào, một cách công khai hay riêng tư, bất cứ khi nào người nhận thấy.
Người đã viết ba thông điệp về vấn đề hòa bình và hòa giải. Ðức giáo
hoàng cũng cho phép trợ cấp các nạn nhân chiến cuộc: năm triệu rưỡi
tiền Ý của quỹ giáo hoàng và ba mươi triệu tiền quyên góp của người
Công Giáo trên thế giới. Mặc dù Ðức Bênêđíctô XV đôi khi bị nghi
ngờ và bị chỉ trích bởi các quốc gia có tham dự trong cuộc chiến vì
người từ chối đứng về phe này hay phe kia, nói cho cùng người đã thi
hành nhiều công việc hơn bất cứ một trung gian quốc tế nào để phá vỡ
các bức tường thù hận.

Một biến cố quan trọng có ý nghĩa cảnh giác cũng như hy vọng cho
thế giới đã xảy ra trong thời Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô. Vào năm
1917, Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Bồ
Ðào Nha, và liên tiếp trong năm lần sau đó vào ngày mười ba mỗi
tháng. Ðức Maria tiên báo Thế Chiến I sẽ chấm dứt nhưng cảnh cáo
rằng, nếu không cầu nguyện và ăn năn sám hối, “nước Nga sẽ gieo rắc
kinh hoàng khắp thế giới, đưa đến chiến tranh và bách hại Giáo Hội.”
Ðây là điều tiên tri lạ đời vì lúc ấy nước Nga sống về nông nghiệp và
còn suy yếu vì cuộc nội chiến. Mỗi lần Ðức Maria hiện ra, người yêu
cầu lần chuỗi mai khôi hàng ngày và suy niệm về các mầu nhiệm. Sau
cùng, Ðức Maria yêu cầu mọi người, mọi gia đình, mọi quốc gia (nhất
là nước Nga) được tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của
Ðức Maria. Việc tận hiến nước Nga được thể hiện bởi đức giáo hoàng
cùng hiệp nhất với các giám mục trên thế giới.
© Ba trẻ ở Fatima

Thật quan trọng để biết rằng tâm điểm thông điệp Fatima là thông điệp
căn bản của Phúc Âm -- kêu gọi dân Chúa ăn năn sám hối, tin vào
Ðức Giêsu Kitô, và sống đạo tốt lành. Ðể chứng minh cho thế giới biết
sự xác thực của việc hiện ra, Ðức Maria nói với các trẻ là vào ngày 13
tháng Mười 1917, Thiên Chúa sẽ cho một dấu hiệu. Vào ngày ấy,
hàng trăm ngàn người đến dự kiến, cả Kitô Hữu cũng như người tò
mò, tất cả đã chứng kiến cảnh mặt trời dường như xoay tròn và nhẩy
múa trên trời, là một hiện tượng mà không ai có thể giải thích một
cách khoa học.

Một biến cố khác thay đổi lịch sử thế giới. Cuộc Cách Mạng Tháng
Mười ở Nga đã đưa đảng Bolshevik của Lenin lên cầm quyền, đánh
dấu sự khởi đầu của chế độ cộng sản ở Nga: khai sinh Liên Bang Sô
Viết. Chủ thuyết cộng sản là một triết thuyết chính trị vô thần của Karl
Marx (1881-83), kêu gọi giới vô sản lật đổ các chính thể tư bản đàn
áp. Giới vô sản, hoặc giới lao động, từ nay sẽ nắm quyền kiểm soát
các phương tiện sản xuất cũng như chính quyền. Trên thực tế, các
quốc gia cộng sản trở nên độc tài do một thiểu số nắm quyền cai trị.
Marx tẩy chay mọi tôn giáo, cho đó là “thuốc phiện của đám đông” vì
dạy bảo tín hữu tìm kiếm phần thưởng ở trên trời trong khi chấp nhận
sự áp bức và đau khổ ở đời này. Ðối với Marx và chủ thuyết cộng sản,
đời này là tất cả, và tôn giáo không có chỗ đứng. Ðặc biệt, Giáo Hội
Công Giáo, với số tín đồ trên toàn thế giới và sự tuân phục đức giáo
hoàng, bị chủ nghĩa Mácxít coi là kẻ thù số một. Mặc dù Giáo Hội
Công Giáo không mạnh mẽ lên án chủ thuyết này cho đến khi bắt đầu
cảm thấy hậu quả của nó, vào khoảng đầu năm 1878, Ðức Giáo Hoàng
Lêô XIII nhìn thấy trước sự nguy hiểm của chủ thuyết cộng sản khi
người gọi lý thuyết của Marx là “căn bệnh hiểm nghèo lọt vào xã hội
loài người chỉ để làm hư nát.” Sứ điệp Fatima nói rằng phương cách
duy nhất khiến chủ thuyết cộng sản tan rã là qua sự cầu nguyện của
Kitô Hữu, chứ không phải sức mạnh quân sự.

Ðức Giáo Hoàng Piô XI (1922-39)

ÐGH Piô XI
S au khi viết chín văn kiện chính thức về hiểm họa của chủ thuyết
cộng sản, Ðức Giáo Hoàng Piô XI nghiêm khắc lên án cộng sản vô
thần trong tông thư Dinivi Redemptoris, được công bố vào ngày lễ
Thánh Giuse Thợ năm 1937. Trong thời làm giáo hoàng, Ðức Piô XI
còn phải đương đầu với hai ý thức hệ nguy hiểm khác -- chủ nghĩa
phát xít và chủ nghĩa quốc xã, cả hai đều xuất hiện dưới hình thức các
chính thể đàn áp, chuyên chế. Năm 1922, Benito Mussolini đứng đầu
chủ nghĩa phát xít tiếp thu nước Ý. Biết rằng cần có sự hỗ trợ của
Giáo Hội Công Giáo ở Ý, vào năm 1929 Mussolini đã ký một thỏa
ước với Ðức Piô XI, đem lại sự hòa bình giữa Giáo Hội và chính
quyền, nhưng chỉ sau khi Ðức Piô XI giao quyền kiểm soát các lãnh
địa của giáo hoàng cho Mussolini. Ðây là một may mắn lớn cho Giáo
Hội, vì nó chấm dứt ý tưởng cho rằng quyền bính của đức giáo hoàng
là tùy thuộc ở tài sản trần thế nhiều hay ít. Ðức giáo hoàng, thay mặt
cho Giáo Hội Công Giáo, từ chối hỗ trợ chính phủ phát xít, và đổi lại,
chỉ chấp nhận sự độc lập và an toàn của một trăm lẻ chín mẫu đất, là
Vatican.

Vào năm 1933, Ðức Piô XI còn phải ký kết một thỏa ước khác với tân
lãnh tụ Ðức Quốc Xã, Adolf Hitler. Một lần nữa, đức giáo hoàng từ
chối bất cứ vai trò chính trị nào của Giáo Hội Công Giáo trong chế độ
Hitler và chỉ tìm cách đảm bảo sự tự do và quyền lợi trọn vẹn của
người Công Giáo ở Ðức. Trước khi chữ ký ráo mực, Hitler bắt đầu
đàn áp Giáo Hội Công Giáo và khởi sự chính sách ghê tởm đối với
người Do Thái. Chế độ phát xít cũng bắt chước hành động ấy ở Ý. Sau
một vài năm kiên nhẫn và chống đối không có hiệu quả, vào năm 1937
Ðức Giáo Hoàng Piô XI đã ra một thông điệp nẩy lửa, Mit
Brennender Sorge, dứt khoát lên án chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa
quốc xã.

Giáo Hội Công Giáo còn chịu đau khổ vì cuộc nội chiến ở Tây Ban
Nha vào năm 1936 cũng như vì các nhà cầm quyền muốn chà đạp
Công Giáo ở Nga và Mễ Tây Cơ. Các linh mục và giám mục ở Nga và
Mễ Tây Cơ bị cầm tù hoặc bị tử hình vì chế độ cộng sản. Ðây là
những biến cố bi thảm, nhất là đối với vị giáo hoàng là người muốn
thiết lập một vương quốc bình an của Ðức Kitô trên trần gian. Việc
người thiết lập lễ Ðức Kitô Vua năm 1925 là để nhắc nhở cho mọi
người biết, Ðức Kitô là Vua của các quốc gia, đó là điều cần thiết
nhưng đã bị quên lãng ở nhiều nơi.

Ðức Giáo Hoàng Piô XI còn giữ vai trò lãnh đạo trong các sinh hoạt
truyền giáo và giáo huấn xã hội. Công cuộc truyền giáo của Giáo Hội
Công Giáo tiếp tục phát triển trên toàn thế giới, và Ðức Piô XI là vị
giáo hoàng đầu tiên có thể tấn phong các giám mục thuộc các sắc dân
địa phương. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ban bố thông điệp Rerum
Novarum của Ðức Lêô XIII, vào năm 1931, Ðức Piô XI đã ban bố một
thông điệp của chính người , Quadrigesimo Anno, trong đó người đưa
ra các nhận định luân lý về vấn đề tư bản và lao động, cũng như các
ích lợi và giới hạn của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Như mọi
giáo huấn Công Giáo khác về xã hội, các giá trị của Ðức Giêsu Kitô
và Phúc Âm được coi là tiêu chuẩn tối cao để thẩm định và phê phán
các nguyên tắc và hệ thống kinh tế và chính trị. Phong trào Công Giáo
Tiến Hành tiếp tục được khích lệ như một phương cách để thấm nhập
giá trị phúc âm vào thế giới. Ðức Piô XI tiếp tục nhấn mạnh rằng con
đường duy nhất để có hòa bình và hạnh phúc là qua sự trị vì của Ðức
Kitô, Vua của tất cả nhân loại.
Ðức Giáo Hoàng Piô XII (1939-58)
ÐGH Piô XII

Đ ức Giáo Hoàng Piô XII từng giữ chức tổng trưởng ngoại giao
Vatican dưới thời Ðức Piô XI, người được chọn làm giáo hoàng phần
lớn là vì tài ngoại giao và sự thánh thiện của người. Cả hai đức tính
này vô cùng cần thiết khi thế giới đắm chìm trong cuộc chiến do Adolf
Hitler và chế độ quốc xã khởi xướng một ít lâu sau khi Ðức Piô lên
ngôi giáo hoàng. Chính sách của Ðức Piô là cố giữ bộ mặt trung lập.
Ðây là một sự khôn ngoan, vì Vatican nằm ở giữa khối Trục (nước
Ðức -- Ý). Trên thực tế, Ðức Piô hết sức chống đối chủ nghĩa cộng sản
và chủ nghĩa phát xít-quốc xã, dù rằng người đặc biệt yêu quý dân tộc
và văn hóa Ðức. Thay vì lên án chủ nghĩa quốc xã một cách công khai
và mạnh mẽ như Ðức Piô XI, Ðức Giáo Hoàng Piô XII tin rằng
phương cách ấy chỉ đem lại nhiều đau khổ cũng như sự trả thù cho
người Kitô Giáo và người Do Thái ở Ðức và ở các quốc gia thuộc
khối Trục. Thay vì khoa trương, Ðức Piô XII đã dùng bất cứ phương
tiện nào có thể để cứu giúp và che chở người Do Thái và những người
bị bách hại. Ông Pinchas Lapide, một học giả Do Thái và cựu lãnh sự
Do Thái ở Ý, đã tuyên dương công trạng của đức giáo hoàng và Giáo
Hội Công Giáo trong việc cứu vớt khoảng bốn trăm ngàn người Do
Thái khỏi bị tiêu diệt. Trong cuốn The Last Three Popes and The
Jews (Ba Giáo Hoàng Sau Cùng và Người Do Thái), ông Lapide viết:
Trong cuộc chiến, Giáo Hội Công Giáo đã cứu vớt
sinh mạng của người Do Thái nhiều hơn tổng số các
giáo hội, các tổ chức tôn giáo và các cơ quan cứu
nguy khác. Thật ngạc nhiên, con số kỷ lục ấy quá
tương phản với các thành quả của tổ chức Hồng Thập
Tự và các quốc gia dân chủ Tây Phương. Tòa Thánh,
các sứ quán và toàn thể Giáo Hội Công Giáo đã cứu
vớt khoảng 400,000 người Do Thái khỏi bị tiêu diệt.

T. Maximilian Kolbe
Một người Ba Lan đã được thoát chết nhờ sự hy sinh cao cả của một
linh mục dòng Phanxicô, Thánh Maximilian Kolbe, là người đã tình
nguyện chết thay cho ông trong hầm bỏ đói.

Heinrich Himmler, người đứng đầu cơ quan mật vụ Ðức Quốc Xã, đã
viết một lá thư cho cấp dưới, trong thư ông viết: “Chúng ta đừng quên
rằng, về lâu dài, giáo hoàng ở Rôma là kẻ thù vĩ đại của chủ nghĩa Xã
Hội Quốc Gia (Ðức Quốc Xã) hơn cả Churchill và Roosevelt.” Ðức
Piô XII có lên tiếng chống đối chủ nghĩa quốc xã vào lúc ấy. Sau
thông điệp Giáng Sinh năm 1942, một lãnh tụ Ðức Quốc Xã nhận định
về lời của Ðức Piô XII:

Hắn nói Thiên Chúa coi mọi dân tộc và mọi chủng tộc
có giá trị ngang nhau. Như vậy, hiển nhiên hắn lên
tiếng thay cho bọn Do Thái. Hầu như hắn lên án người
Ðức về sự bất công đối với bọn Do Thái, và tự cho
mình là phát ngôn viên của tội phạm chiến tranh Do
Thái.
Ðức Piô XII, Ch ủ Ngh ĩa C ộng S ản, và Ð ức Maria

Mặc dù chủ nghĩa quốc xã là mối đe dọa trước mắt, Ðức Piô XII tin
tưởng chắc chắn rằng chủ nghĩa cộng sản là sự đe dọa lớn lao nhất của
thời đại đối với dân Chúa và nhân loại. Sau Thế Chiến II, người càng
đưa Giáo Hội Công Giáo nghiêng về phía các quốc gia dân chủ Tây
Phương, và cố gắng điều động thế giới chống với cộng sản. Năm
1949, người ban bố một sắc lệnh phạt vạ tuyệt thông bất cứ người
Công Giáo nào gia nhập đảng cộng sản.
Sự kiện Ðức Piô XII tẩy chay cộng sản chắc chắn có liên hệ đến việc
hiện ra của Ðức Maria ở Fatima, mà người đã tiên báo là nước Nga sẽ
gieo rắc lầm lạc khắp thế giới. Năm 1942, đức giáo hoàng dâng hiến
thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Maria, và năm
1952, người đặc biệt dâng hiến dân tộc Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm
của Ðức Mẹ. Người còn tuyên xưng Ðức Maria là “Nữ Vương Thế
Giới.” Tất cả những hành động này là để nhận biết vai trò đặc biệt của
Ðức Maria, là đấng cầu bầu và là mẹ của mọi Kitô Hữu. Vào năm
1950, Ðức Piô XII tuyên bố một tín điều bất khả ngộ là Ðức Maria đã
được lên trời cả hồn và xác. Tín điều này từng được Giáo Hội Công
Giáo tin tưởng từ lâu và đã được dành riêng một ngày lễ để mừng kính
trong 1,500 năm, nhưng đức giáo hoàng muốn chính thức xác định
điều ấy như một dấu hiệu hy vọng cho mọi người về sự sống lại và
vinh hiển của chính thân xác họ mà đã được tiên báo qua sự kiện hồn
xác lên trời của Ðức Maria. Vì người được thụ thai cách tinh tuyền và
đời sống không tì ố vì tội lỗi, thân xác của người không bị chết và bị
mục nát như thân xác chúng ta, do đó người có thể trực tiếp đi vào sự
vinh hiển của Thiên Chúa. Vì vậy, Ðức Piô XII thường được coi là vị
giáo hoàng của hòa bình và giáo hoàng của Ðức Maria.

Ðức Piô XII và H ọc Thu ật Hi ện Ð ại


Mặc dù Ðức Piô XII rất giống với Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII khi coi
thần học của Thánh Tôma có giá trị cao trong thần học Công Giáo,
nhưng đức giáo hoàng là người khai mở các lãnh vực học thuật về
phúc âm và lịch sử. Trong tông thư Humani Generis (1959), người
cảnh giác người Công Giáo đối với những nguy cơ của thần học lịch
sử mới, nhưng trong tông thư Divino Afflante Spiritu (1943), người
cho phép các học giả Công Giáo áp dụng các phương pháp mới, tỉ như
cách dẫn giải dựa trên dạng thức của văn bản. Cũng trong năm này,
Ðức Piô XII công bố tông thư nổi tiếng Mystici Corporis Christi, cách
mạng hóa quan điểm của Công Giáo về Giáo Hội. Thay vì coi Giáo
Hội Công Giáo chỉ là một tổ chức của con người hoặc một hệ thống
cấp bậc hình kim tự tháp, người khuyến khích người Công Giáo coi
Giáo Hội như thân thể mầu nhiệm của Ðức Kitô. Ðây là một quan
niệm phát xuất từ tư duy của Thánh Phaolô nhấn mạnh đến tính cách
mầu nhiệm và hợp nhất của Giáo Hội như thân thể của Ðức Kitô ở
trần thế. Các phương cách tiếp cận thần học này bắt đầu phá vỡ bầu
khí căng thẳng và nghi ngờ mà các thần học gia Công Giáo từng chịu
đựng kể từ khi phải thề chống với chủ nghĩa Ðổi Mới vào năm 1910.
Các phương cách ấy cũng mở đường cho sự phát sinh rầm rộ các dạng
thức thần học Công Giáo mới được bắt đầu với Công Ðồng Vatican II.
Biết bao công trình của các thần học gia và học giả Kinh Thánh Công
Giáo đã được dễ dàng hơn nhờ sự khuyến khích của Ðức Piô XII.
Những Thành Qu ả C ủa Ð ức Piô XII

Ðức Piô XII đã đem lại một uy thế mới cho Giáo Hội Công Giáo trong
thế giới và người chuẩn bị Giáo Hội cho một công đồng canh tân vĩ
đại sắp xảy đến. Sau cuộc chiến (năm 1945), nhiều quốc gia gửi các
đại sứ đến Vatican, và Năm Thánh 1950 đã đưa hàng triệu người hành
hương đến Rôma. Công cuộc truyền giáo của Giáo Hội cũng phát triển
khi số giáo phận Công Giáo trên toàn thế giới đã gia tăng từ 1,700 lên
đến trên 2,000. Ðức Piô XII cũng đảm bảo tính cách quốc tế của Giáo
Hội bằng cách tấn phong nhiều hồng y không phải là người Ý, tất cả là
ba mươi bốn vị trong tổng số năm mươi mốt vị, tính cho đến khi
người từ trần. Bây giờ, Giáo Hội ngày càng quan hệ đến thế giới hiện
đại và điều đó chỉ thực sự xảy ra trong thời đấng kế vị Ðức Piô XII là
Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII, đó là lúc cuộc đối thoại trọn vẹn và cởi
mở với thế giới cũng như sự tái duyệt xét về sự tương giao của Giáo
Hội Công Giáo với thế giới được thực hiện.

Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-63)


T. Giáo Hoàng Gioan XXIII

Đ ức Giáo Hoàng Piô XII đã tiếp tục truyền thống của các giáo
hoàng tiền nhiệm, muốn giáo triều chứng tỏ sức mạnh và quyền lực
của mình trên cả thế giới. Các Kitô Hữu Tin Lành và các người khác
thường cho rằng đức giáo hoàng, và người Công Giáo nói chung, hay
đắc thắng, kiêu ngạo đề cao sự vinh hiển và quyền lực thần thánh của
Giáo Hội Công Giáo mà không nhận ra sự yếu đuối và khuyết điểm
của con người. Vì lý do này, Giáo Hội Công Giáo không được sự tin
tưởng của những người bên ngoài giáo hội khi họ thấy các giáo hoàng
và Giáo Hội Công Giáo cũng chỉ là một tổ chức con người và cũng
phạm tội.

Vị giáo hoàng thay đổi toàn thể hình ảnh của Giáo Hội Công Giáo
trong cái nhìn của thế giới là Ðức Gioan XXIII. Trong khi các giáo
hoàng trước đây mang hình ảnh của một đấng vị vọng và ngay cả xa
cách với người dân, Ðức Gioan XXIII là một người vui tính, thật tự
nhiên, yêu quý đời sống cũng như dân chúng và người không ngần
ngại bộc lộ điều ấy. Ðó là một ông cụ bảy mươi sáu tuổi thường mời
bạn hữu đến dùng cơm, hay lang thang trên đường phố Rôma để
chuyện trò với dân chúng, luôn đến thăm các bệnh viện và nhà tù, và
thường kể chuyện vui làm mọi người đều thích thú. Người Công Giáo
và Kitô Hữu nói chung đều hân hoan khi thấy đức giáo hoàng cũng là
một con người bình thường, và người đã chinh phục được nhiều tâm
hồn cũng như sự trung kiên của nhiều người.

Tuy nhiên, thật sai lầm khi nghĩ rằng Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII là
một người hiểu biết tầm thường. Ðiều nổi bật trong triều đại ngắn ngủi
của người là sự tin cậy vào Thiên Chúa và cái nhìn sáng suốt của
người. Thay vì công khai chống đối cộng sản, hoặc bất cứ chính thể
nào, Ðức Gioan XXIII tìm cách hòa giải và chuyển trao thông điệp
của người đến với mọi người: Pacem in Terris (Hoà Bình Trên Thế
Giới) và Mater et Magister về trật tự xã hội. người kêu gọi mọi người
hãy cùng nhau làm việc để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, phù hợp
với các nguyên tắc về công bằng và ích lợi chung mà đã được mọi
người công nhận.
Ðức Gioan XXIII còn là người mở đường cho phong trào đại kết, tái
hợp nhất mọi Kitô Hữu. Vào đầu thế kỷ mười chín, sự lưu tâm mạnh
mẽ đến vấn đề đại kết được phát sinh trong công cuộc truyền giáo của
Tin Lành. Họ thấy thật dại dột và hổ thẹn khi các giáo phái Kitô Giáo
khác nhau lại tranh dành các lãnh thổ truyền giáo. Các tổ chức nổi
tiếng như “Faith and Order” (1925) và “Life and Work” (1927) cố
gắng đem người Tin Lành lại với nhau trên phương diện học thuyết và
phục vụ. Vào năm 1948, các tổ chức này kết hợp thành tổ chức duy
nhất “World Council of Churches”.

Giáo Hội Công Giáo vẫn đứng tách biệt không dính dáng gì đến sinh
hoạt đại kết này, vì cho rằng các người Tin Lành phải giải quyết các
mâu thuẫn của họ trước khi thảo luận về sự tương giao với Giáo Hội
Công Giáo. Thái độ của các giáo hoàng tiền nhiệm là cho rằng Ðức
Giêsu chỉ thiết lập một đức tin và một giáo hội thực, là Giáo Hội Công
Giáo. Trong khi không từ chối tính cách độc đáo của Giáo Hội Công
Giáo, Ðức Gioan XXIII nhận thức rằng người Công Giáo phải đến với
các Kitô Hữu khác và cộng tác với họ để tìm kiếm sự hiệp nhất mà
Ðức Giêsu đã mong muốn cho dân của người.
Ðức Gioan XXIII đặc biệt yêu quý Giáo Hội Chính Thống Giáo, vì
người từng là đại diện đức giáo hoàng ở vùng Cận Ðông. Khi đến lúc
triệu tập công đồng, Ðức Gioan XXIII đã mời các quan sát viên từ mọi
truyền thống Kitô Giáo, và đón nhận các ý kiến cũng như suy tư của
họ về diễn tiến của công đồng.

Đức Gioan XXIII được tuyên thánh cùng với Đức Piô IX, bởi Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào ngày 3 tháng Chín, 2000.
Công Ðồng Vatican II (1962-65)

Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã khiến thế giới phải bàng hoàng khi
người triệu tập công đồng các giám mục Công Giáo để xúc tiến sự hợp
nhất Kitô Giáo, cũng như cập nhật hoá Giáo Hội Công Giáo và giúp
Giáo Hội thoả đáp các nhu cầu và lưu tâm của thế giới hiện đại. Tại
sao người lại làm như vậy? Người đơn giản cho rằng đó là sự thúc đẩy
của Chúa Thánh Thần, và đức giáo hoàng xin người Công Giáo cầu
nguyện cho công đồng: “Lạy Chúa, xin hãy canh tân trong thời đại
chúng con như trong một biến cố Hiện Xuống mới.”

Việc triệu tập công đồng thật ngạc nhiên, nhưng đúng lúc. Thời đại kỹ
thuật sắp sửa đưa thế giới vào một kỷ nguyên mới, và cảm nghiệm của
hai cuộc thế chiến cũng như việc sử dụng vũ khí nguyên tử đã để lại
vết thương hằn sâu khiến người ta hoang mang về định mệnh và
hướng đi của nhân loại. Làm thế nào một Giáo Hội cổ kính, từng tự
hào là chống trả được các chiều hướng thay đổi, có thể tồn tại trong
một thế giới đang biến đổi mau chóng và triệt để? Giáo Hội Công
Giáo phải hiểu mình và tự giới thiệu về mình như thế nào cho thế giới
ấy? Ðây là những vấn đề mà đức giáo hoàng mong muốn các giám
mục có thể tìm ra câu trả lời, trong khi tin tưởng hoàn toàn vào sự dẫn
dắt của Chúa Thánh Thần để đi đến thành công.

Nhiều vị giám mục trên thế giới không hăng say lắm về công đồng
này, vì họ nghĩ, rốt cục có lẽ công đồng cũng sẽ tái khẳng định những
điều từng được xác định trước đây trong sách vở Kinh Viện hoặc học
thuyết Thánh Tôma. Thật vậy, nhiều thành viên của giáo triều Rôma
chỉ muốn công đồng thi hành như vậy mà thôi, họ muốn công bố thêm
các lời cảnh cáo đối với thế giới hiện đại, đối với người Tin Lành, và
đối với các thần học gia phóng khoáng về đức tin và lối sống lầm lạc.
Khi một số tài liệu dự thảo đầu tiên của công đồng dường như đúng
như vậy -- tái khẳng định thần học kinh viện và cảnh cáo thế giới --
Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã thi hành một bước táo bạo. Trong
bài diễn văn trước toàn thể công đồng,

... người tự tách biệt khỏi cái nhìn hạn hẹp có tính
cách bảo thủ của Giáo Triều về công đồng và thúc
giục các giám mục, thay vào đó, hãy nhận trách
nhiệm canh tân cập nhật hoá Giáo Hội một cách triệt
để. Không như kiểu ngôn sứ báo họa của các cố vấn,
đức giáo hoàng cho biết người thích cái nhìn lạc
quan đối với lịch sử thế giới hiện đại. Và người nhấn
mạnh các giám mục cần có một thái độ mục vụ: Họ
không thể tiếp tục đưa ra các mâu thuẫn không sinh
kết quả, nhưng phải tìm ra các phương cách tích cực,
đầy ý nghĩa và mới mẻ để trình bầy học thuyết cổ xưa
của Giáo Hội...

Ðó chính là điểm khởi đầu. Toàn thể các giám mục phấn khởi đưa ra
các kinh nghiệm bản thân và các quan điểm có giá trị về thần học mới
đang ló dạng. Họ hình thành các văn kiện vừa trung kiên với truyền
thống Công Giáo vừa đáp ứng với nhu cầu của thời đại -- được khẳng
định trong ngôn từ tươi mới và cập nhật hóa với nhiều tham khảo từ
Phúc Âm và các Giáo Phụ. Một bức tranh đầy mầu sắc của Ðức Gioan
XXIII về lý do tại sao người triệu tập công đồng bắt đầu được hình
thành, như một cánh cửa mở ra để không khí tươi mát lùa vào.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn và cần phải nhiều nỗ lực với
những gì công đồng tuyên bố và làm sao cho có hiệu quả; nhưng lời
cầu xin của Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII về một “biến cố Hiện
Xuống mới” đã được nhận lời, như được chứng tỏ rõ rệt qua một
chuỗi công trình của Chúa Thánh Thần được mọi người Công Giáo
cảm nhận chỉ hai năm sau khi công đồng bế mạc. Phong Trào Thánh
Linh chỉ là một trong biết bao dấu hiệu về một thời đại mới mà việc
canh tân Giáo Hội Công Giáo của Chúa Thánh Thần đang bắt đầu.
Vào năm 1963, thế giới phải thương tiếc khi Ðức Giáo Hoàng Gioan
XXIII từ trần sau khóa họp đầu tiên của công đồng. Người đã trung
thành với công việc lớn lao mà Thiên Chúa đã giao phó cho người
trong chức vụ giáo hoàng (chỉ bốn năm và bảy tháng), và công việc
của Công Ðồng Vatican II lại được tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Ðức
Giáo Hoàng Phaolô VI.

You might also like