You are on page 1of 3

Diễn đàn khoa học và công nghệ

Lợi thế so sánh


và sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam*
PGS.TS Nguyễn Trúc Lê, PGS.TS Nguyễn Anh Thu, TS Nguyễn Quốc Việt
VEPR, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Theo nghiên cứu của các chuyên gia đến từ Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Trường Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, trong giai đoạn 2010-2019, Việt Nam có lợi thế so sánh trong 9/20
nhóm ngành (năm 2020 chỉ còn lợi thế với 6 nhóm ngành); mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
(GVCs) của Việt Nam có xu hướng giảm đi trong giai đoạn 2010-2018… Điều này đòi hỏi Việt Nam cần
có những chính sách nhằm phát huy lợi thế so sánh của mình để “định vị” lại trong GVCs.

Thực trạng những kết quả đáng khích lệ khi mũ; ii) Việt Nam đang mất dần
tổng vốn đăng ký tăng thêm vẫn lợi thế so sánh với các sản phẩm
Giai đoạn 2010-2020, Việt
tăng so với năm trước và vốn thực nông nghiệp khi không còn lợi thế
Nam đã đạt thành tích tăng
hiện vẫn tăng đều qua các quý với cả nhóm sản phẩm động vật
trưởng thương mại ấn tượng khi
của năm 2020. Những kết quả và thực vật trong năm 2020; iii)
kim ngạch xuất nhập khẩu liên
này thể hiện thương mại và đầu ngành duy nhất có lợi thế so sánh
tục tăng và xuất siêu được duy
tư sẽ tiếp tục là những lợi thế mà tăng cao là điện tử, nhưng sự gia
trì trong 5 năm trở lại đây. Năm
2020, trong bối cảnh đại dịch, Việt Nam cần tận dụng để nâng tăng lợi thế so sánh trong ngành
Việt Nam là một trong số quốc cao vị thế của mình trên trường này lại bắt nguồn từ sự hiện diện
gia ít ỏi ở khu vực châu Á có tốc quốc tế trong thời gian tới. và mở rộng sản xuất, xuất khẩu,
độ tăng trưởng thương mại dương đầu tư của các doanh nghiệp FDI;
Trong giai đoạn 2010-2019,
và đạt mức xuất siêu kỷ lục vào iv) các ngành Việt Nam không có
Việt Nam có lợi thế so sánh trong
năm 2020 với gần 20 tỷ USD. lợi thế so sánh là các ngành liên
9/20 nhóm ngành. Tuy nhiên,
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) quan nhiều đến nguyên vật liệu
năm 2020, chỉ còn lợi thế với 6
vào Việt Nam duy trì tốc độ tăng đầu vào như nhựa, cao su, máy
nhóm ngành, trong đó có 1 nhóm
trưởng tương đối ổn định trong móc cơ khí, kim loại, giấy hoặc
ngành có lợi thế so sánh cao là
giai đoạn 2010-2019. Năm 2020, các sản phẩm có giá trị và công
giày dép, mũ; 3 nhóm ngành có
đại dịch Covid-19 đã có những nghệ cao như phương tiện thiết bị
lợi thế so sánh ở mức trung bình
tác động nhất định đến dòng FDI vận tải, thiết bị quang học, nhạc
(hàng dệt may; máy móc, thiết bị
vào Việt Nam, nhưng những tác cụ và thiết bị y tế…
điện tử; da và sản phẩm da) và
động này không phải là quá lớn. 2 nhóm ngành có lợi thế so sánh Mức độ tham gia vào GVCs
Mức giảm của tổng vốn đăng ký ở mức thấp (gỗ - sản phẩm gỗ của Việt Nam có xu hướng giảm
cấp mới và vốn thực hiện tương và nguyên liệu dệt may). Trong trong giai đoạn 2010-2018. Ở
đối thấp. Bên cạnh đó, vẫn có cả giai đoạn, bức tranh lợi thế phần hạ nguồn của GVCs, các
so sánh của Việt Nam có một đối tác chính cung cấp đầu vào
*
Bài viết là một phần nội dung trong Báo cáo số điểm cần chú ý: i) lợi thế so trung gian phục vụ cho chế xuất
thường niên kinh tế Việt Nam 2021 của VEPR,
trực thuộc Trường Đại học Kinh tế, Đại học sánh của Việt Nam với hầu hết tại Việt Nam đến chủ yếu từ châu
Quốc gia Hà Nội được công bố hàng năm các nhóm ngành đều giảm (7/9 Á như Trung Quốc, Nhật Bản,
nhằm đánh giá các chính sách và xu thế phát ngành có lợi thế), ngay cả với Hàn Quốc và các nước ASEAN,
triển kinh tế nổi bật trong năm báo cáo và các
năm tiếp theo. Các tác giả cũng là đồng chủ nhóm ngành duy nhất Việt Nam thể hiện tính chất nội vùng lấn át
biên của Báo cáo thường niên này. có lợi thế so sánh cao là giày, dép, tính chất toàn cầu trong cơ cấu

21
Số 9 năm 2021
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ

nhập khẩu của Việt Nam. Trong tăng vị thế trong GVCs cũng khá còn khá nhỏ. Sự thay đổi về cơ
khi đó, ở phía thượng nguồn của tích cực khi Việt Nam đang và sẽ cấu sản phẩm từ “cứng” sang
GVCs, các đối tác nhập khẩu đầu tiếp tục hướng tới phần thượng “mềm” cũng là thách thức rất lớn
vào trung gian của Việt Nam để nguồn của chuỗi. đối với doanh nghiệp sản xuất
chế xuất có tính đa dạng hơn, thể thuộc lĩnh vực điện tử. Ngành
Trong tương lai gần, định vị
hiện tính toàn cầu hơn, không điện tử Việt Nam có tỷ lệ nội địa
lợi thế so sánh của nhóm ngành
chỉ hướng vào Trung Quốc, Nhật hóa thấp và doanh nghiệp FDI
điện tử xuất khẩu có khả năng
Bản, Hàn Quốc, ASEAN mà còn đóng vai trò tham gia chính, dẫn
sẽ tiếp tục được cải thiện trên
hướng nhiều tới thị trường EU, dắt trong chuỗi giá trị tại Việt
thị trường quốc tế. Việt Nam chủ
Australia và Hoa Kỳ. Nam. Các mặt hàng xuất khẩu
yếu đang nằm ở vị thế hạ nguồn
Đối với sự tham gia vào GVCs điện tử của Việt Nam vẫn có chỉ
của chuỗi nhưng đang có chiều
theo ngành, giá trị gia tăng nội số độ phức tạp sản phẩm thấp và
hướng hướng tới vị thế thượng
địa trong xuất khẩu của ngành có nhiều đối thủ cạnh tranh cùng
nguồn. Xu hướng phát triển này
công nghiệp chế biến, chế tạo trình độ phát triển. Điều này sẽ
dự đoán sẽ tiếp tục duy trì trong
thấp hơn đáng kể so với ngành sơ làm hạn chế đi khả năng thích
thời gian sắp tới, mang lại nhiều
cấp gồm nông nghiệp, khai thác ứng, đáp ứng những nhu cầu cấp
giá trị gia tăng hơn cho ngành
mỏ và ngành dịch vụ. Điều này bách, mới nổi và bắt kịp với xu
điện tử. Ngành công nghiệp điện
phản ánh rõ bản chất gia công, hướng phát triển của thị trường
tử Việt Nam đang có những điều
chế biến, chế tạo của ngành công toàn cầu.
kiện và triển vọng thuận lợi chưa
nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng từng có để phát triển nhờ vào Trong ngắn hạn và trung hạn,
nhấn mạnh vai trò và tiềm năng việc mở rộng cơ hội xuất khẩu vị trí của ngành thực phẩm trong
của nhóm ngành nông nghiệp sang thị trường nước ngoài, thu GVCs có thể sẽ được cải thiện do
trong việc cải thiện vị thế của Việt hút vốn FDI tăng mạnh trong lĩnh năng lực của khu vực sản xuất
Nam. Bên cạnh đó, sự tham gia vực điện tử, giá các sản phẩm trong nước được cải thiện khiến
GVCs của Việt Nam theo nhóm điện tử, viễn thông sẽ giảm nhiều nhập khẩu giá trị gia tăng làm đầu
ngành đã cho thấy sự chuyển khi gỡ bỏ hàng rào thuế quan và vào cho chế xuất giảm và EVFTA
biến rõ rệt trong giai đoạn 2010- cơ hội đưa Việt Nam trở thành có hiệu lực sẽ mở ra cơ hội tăng
2018. Ở cả ba nhóm ngành cơ “công xưởng thứ hai của thế giới” cường xuất khẩu đầu vào giá trị
bản, công nghiệp chế biến, chế khi một loạt tập đoàn điện tử, viễn gia tăng cho sản xuất hàng xuất
tạo và dịch vụ đều đang có chiều thông lớn tuyên bố rút lui khỏi thị khẩu của các quốc gia EU.
hướng gia tăng sự tham gia vào trường Trung Quốc, chuyển sang
khâu thượng nguồn trong GVCs. Triển vọng tích cực nâng cao
khu vực Đông Nam Á.
Ngược lại, sự tham gia hạ nguồn lợi thế của ngành thực phẩm
GVCs của ba nhóm ngành lại cho Bên cạnh đó, ngành điện Việt Nam đến từ nhiều kênh
thấy xu hướng ngược chiều nhau tử Việt Nam cũng phải đối mặt khác nhau. Thứ nhất, hội nhập
- ngành cơ bản có xu hướng tăng với không ít khó khăn trong thời kinh thế quốc tế sâu rộng thông
trong khi hai ngành còn lại giảm. gian tới. Đó là sức ép cạnh tranh qua Cộng đồng kinh tế ASEAN
ngay ở thị trường trong nước khi (AEC) và các hiệp định thương
Triển vọng và thách thức của một số mà năng lực cạnh tranh của các mại tự do (FTAs) đã góp phần
ngành có ưu thế doanh nghiệp hiện nay còn yếu, giúp Việt Nam trở thành một quốc
Với sự thay đổi của hệ số lợi áp lực đào tạo nguồn nhân lực gia quan trọng trong chuỗi giá trị
thế so sánh biểu lộ (RCA), Việt chất lượng cao đang ngày càng thực phẩm khu vực và toàn cầu.
Nam có triển vọng tăng lợi thế đè nặng lên hệ thống đại học Việt Bên cạnh đó, các đối tác ở cả
so sánh trong tương lai gần gồm Nam và chất xám của các doanh phía thượng nguồn và hạ nguồn
điện tử và giày dép, nhưng với nghiệp Việt Nam bị thu hút sang đều là thành viên của FTAs, tạo
các ngành khác, triển vọng tăng các công ty xuyên quốc gia; tầm điều kiện thuận lợi cho hàng hoá
lợi thế so sánh là vô cùng khó và quy mô của doanh nghiệp Việt thực phẩm của Việt Nam tiếp cận
khăn. Triển vọng để Việt Nam Nam ở sân chơi quốc tế hầu hết thị trường cũng như được hưởng

22
Số 9 năm 2021
Diễn đàn khoa học và công nghệ

các ưu đãi về thuế, thuận lợi hoá trong đó cần nhận diện và khắc ro khi quá phụ thuộc vào một số
thương mại. Thứ hai, ngành thực phục các rào cản để nâng cao quốc gia nhất định trong khu vực.
phẩm Việt Nam đã tích cực tham thứ hạng trong bộ chỉ số năng lực Việt Nam cũng cần nâng cao tỷ
gia phần hạ nguồn của chuỗi giá cạnh tranh 4.0 (WEF). Việt Nam lệ nội địa hóa cho doanh nghiệp
trị, nhờ đó nguồn cung đầu vào cần tận dụng được thương mại trong xuất khẩu điện tử thông
được đa dạng hoá, tạo động lực và đầu tư để nâng cao vị thế của qua: (i) hoàn thiện cơ sở dữ liệu
cho việc gia tăng tỷ trọng giá trị mình trên trường quốc tế trong về công nghiệp hỗ trợ; (ii) chủ
nội địa và tăng trưởng của ngành tương lai. Để làm được điều này, động tìm kiếm đối tác, đặc biệt là
trong tương lai. cần thấy được vai trò đặc biệt đối tác nước ngoài nhằm mở rộng
quan trọng của các FTA trong thị trường cho công nghiệp hỗ trợ
Bên cạnh đó, ngành thực
việc cải thiện lợi thế so sánh và trong nước phát triển; (iii) nâng
phẩm của Việt Nam cũng phải đối
giá trị gia tăng của Việt Nam trong cao hợp tác với các quốc gia khác
mặt với một số thách thức trong
GVCs, đồng thời tạo môi trường nhằm nâng cao chất lượng nguồn
quá trình tiến tới nâng cao vị thế:
để các FTA phát huy hiệu quả. nhân lực và chuyển giao công
1) các mặt hàng thực phẩm nông
Song song với điều này, để có thể nghệ cho các doanh nghiệp công
sản chủ yếu được vận chuyển nội
giảm những tác động tiêu cực từ nghiệp hỗ trợ; (iv) tích cực hướng
địa theo đường bộ, dẫn tới chi phí
hội nhập, Việt Nam cần có những dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp
cao; 2) chất lượng sản phẩm xuất
giải pháp để tăng sức chống chịu thực hiện xác nhận ưu đãi đối với
khẩu chưa cao; 3) chất lượng
của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục
nguồn cung đầu vào cho ngành các dự án sản xuất sản phẩm
đa dạng hoá thị trường và hàng
thực phẩm trong nước không công nghiệp hỗ trợ…
hoá dựa trên mạng lưới FTA và lợi
đáp ứng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu
thế so sánh. Để cải thiện vị thế của Việt
khiến các doanh nghiệp chế xuất
Nam trong GVCs ngành thực
phải nhập khẩu đầu vào của nước Hoạt động xuất nhập khẩu có
phẩm, cần tập trung vào 3 trụ cột
ngoài để sản xuất; 4) các vấn đề vai trò quan trọng đối với sự tăng
chính, bao gồm chế biến (thực
liên quan tới an toàn thực phẩm, trưởng của năng suất các yếu tố
hiện các nhiệm vụ cụ thể tốt
quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn tổng hợp (TFP). Để có thể cải
hơn), sản phẩm (tạo ra sản phẩm
chất lượng trở thành gánh nặng thiện TFP thông qua việc tham
cho các hộ sản xuất thực phẩm có chất lượng tốt hơn, phức tạp
gia vào GVCs, Việt Nam có thể
xuất khẩu nhưng thiếu cơ chế thông qua việc thiết lập và gắn hơn hoặc có giá bán cao hơn) và
thực thi chung. kết với các đối tác là các quốc chức năng (có được các kỹ năng
gia có mức thu nhập cao và phát mới trong chuỗi giá trị mà doanh
"Định vị" lại trong GVCs nghiệp chưa thực hiện trước đây).
triển hơn. Với mối liên kết sau,
Song hành với những chính Việt Nam có thể tận dụng nguồn Về phía các cơ quan quản lý nhà
sách mang tính ngắn hạn đang nguyên liệu đầu vào chất lượng nước: cần tập trung xúc tiến triển
thực hiện nhằm giảm thiểu tác và với hàm lượng công nghệ cao, khai các cam kết cũng như ký kết
động tiêu cực của COVID-19, cải thiện năng suất của mình. Với các thỏa thuận về công nhận lẫn
Việt Nam nên kiên trì với những mối liên kết trước, Việt Nam có nhau, hậu kiểm trong lĩnh vực
cải cách dài hơi để cải thiện kinh thể tiếp cận với những tiêu chuẩn hàng rào kỹ thuật (TBT); khuyến
tế vĩ mô và giảm thiểu rủi ro trong và bí quyết từ đối tác xuất khẩu khích nhập khẩu, chuyển giao
tương lai. Trong mọi tình huống, của mình. công nghệ chế biến thực phẩm;
lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần đẩy mạnh thực hiện chương
Đối với ngành điện tử, Việt
được duy trì ổn định để chuẩn bị trình xây dựng thương hiệu Việt
Nam nên tận dụng tốt vai trò của
cho giai đoạn phục hồi sau bệnh Nam cho ngành thực phẩm; tăng
các FTA nhằm tăng cường sự kết
dịch. cường truyền thông về các ưu đãi
nối với các đối tác chiến lược cả ở
đã cam kết trong FTA liên quan
Nâng cao năng lực cạnh tranh, phía thượng nguồn và hạ nguồn;
đến thực phẩm ?
cải thiện môi trường kinh doanh đa dạng các đối tác khác bên
vẫn là một yêu cầu thường trực, ngoài châu Á để giảm thiểu rủi

23
Số 9 năm 2021

You might also like