You are on page 1of 11

NHỮNG ĐIỂM GIỐNG NHAU GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ THỊ TRƯỜNG KINH TẾ TBCN:


1) KHÁI NIỆM:
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản
xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế
hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản
phẩm mà nhằm để bán, tức là để thỏa mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu
cầu của xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó
toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường. Lịch
sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề
quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản
xuất và trao đổi, các yếu tố thị trường như cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết
quá trình sản xuất hàng hóa, phân bổ các nguồn lực kinh tế và tài nguyên thiên
nhiên như vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động, … phục vụ cho sản xuất và lưu
thông. Thị trường giữ vai trò là một công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong
một nền kinh tế khi các nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị
trường thì người ta gọi đó là kinh tế thi trường.
Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong
xã hội phong kíến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó nhằm mục
đích giá trị và trao đổi thông qua quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức
tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường
làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người
với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ
không đối lập với các chế độ xã hội như chế độ tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa. Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ
kinh tế cơ bản của xã hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, kinh tế thị
trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị
trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu
và phục vụ cho chúng. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan, xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường không phải là phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa và tất nhiên, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng
không dẫn đến phủ định kinh tế thị trường.
2) NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TBCN VÀ KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN:

- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.
- Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ
và hoàn hảo. Nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực
kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo các quy luật vốn có của thị
trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Sự tác
động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.
- Nếu là nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, xã hội hóa cao; đồng thời
chọn lọc được những người sản xuất, kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ
quản lý có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.

NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


TBCN VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
1) Về bản chất:
- Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh
trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loạị Từ trước đến nay nó tồn tại và
phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của
kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm
kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội
phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai
đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển . Kinh tế tư
bản đặt trên ba nền tảng, là tôn trọng quyền tư hữu; đặt mục tiêu chính là kiếm
doanh lợi; và để hệ thống thị trường quyết định giá cả khi trao đổi hàng hóa, dịch
vụ cũng như sức lao động. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế mà
trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị
để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức mà C. Mác đã nêu là T - H - T
(lấy tiền mua hàng, bán hàng lấy được tiền nhiều hơn số tiền đã mua). Công thức
này phản ánh bản chất của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị
thặng dư của lao động làm thuê. Giá trị thặng dư biểu hiện trên bề mặt xã hội dưới
hình thức lợi nhuận. Kinh tế hàng hóa giản đơn dưới sự tác động của quy luật giá
trị dẫn đến phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, hình thành mầm mống
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa
trên chế độ sở hữu lớn của chủ nghĩa tư bản không chỉ chịu tác động của quy luật
giá trị mà còn chịu tác động của quy luật giá trị thặng dư, là quy luật kinh tế cơ
bản, hay tuyệt đối (theo C. Mác) và tồn tại trong hệ thống các quy luật kinh tế
khác của chủ nghĩa tư bản.

Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn
lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến
khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu
quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và
do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả.
Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận
thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường TBCN có thể dẫn tới bất
bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc
phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không
linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu
không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên
nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.

- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa
vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật
khách quan của nền kinh tế thị trường được tôn trọng. Các thông lệ quốc tế trong
quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự
chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa. Là nền kinh tế phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế thành công.
Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu quả
kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi
xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu
quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương.
Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý
trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được
khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
2) Về mục tiêu phát triển:
Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm thực hiện
“ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ
lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ
người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi
người đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với
mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa tư bản.
Bên cạnh đó, liên hệ thực tiễn nước ta cũng là một nước có nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì thây rằng: Mục tiêu hàng đầu của phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn
lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã
hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Có những nước đặt vấn đề tăng trưởng
kinh tế trước, giải quyết công bằng xã hội sau. Có những nước lại muốn dựa vào
viện trợ và vay nợ nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân rồi sau đó mới thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp
pháp, gắn liền với xóa đói giảm nghèo.
3) Về thành phần kinh tế:
- Trong giai đoạn phát triển đầu tiên tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản thành
phần kinh tế tư nhân chiếm toàn bộ nền kinh tế. Sau này cùng với mô hình kinh tế
chủ nghĩa tư bản nhà nước với sự can thiệp điều phối của nhà nước vào quá trình
kinh tế thì tỷ trọng của thành phần tư nhân có giảm xuống nhưng đối với một nền
kinh tế tư bản đặc trưng nó luôn chiếm tỷ trọng là thành phần lớn nhất trong nền
kinh tế. Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò năng động, lực đẩy quyết định
tính hiệu quả của nền kinh tế tư bản, còn thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để
giải quyết các vấn đề xã hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động
tránh gây xáo trộn lớn trong xã hội và để kinh doanh trong các ngành cần thiết
nhưng khó sinh lời. Theo thời gian giữa hai thành phần này thỉnh thoảng lại có sự
hiệu chỉnh bằng các quá trình tư nhân hóa hoặc quốc hữu hóa doanh nghiệp thông
qua việc bán và mua các cổ phần của doanh nghiệp. Mặt khác, thành phần kinh tế
dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất, giải
quyết việc làm, nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng
không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện
tượng tiêu cực làm tổn hại tới lợi ích chung của xã hội.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như nền kinh tế
nước ta tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế,
nhiều tổ chức sản xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để
Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” . Để giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ
khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải
dựa vào bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh. Việc xác lập vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có
tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ một chế xã hội đều có một cơ sở kinh tế
tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế
độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ngoài ra, chúng ta không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa
trên chế độ công hữu là thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, mà còn
phải khuyến khích các thành phần kinh tế thuộc chế độ tư hữu phát triển để hình
thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ tư
hữu , các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các hình thức hợp tác kinh doanh
giữa trong và ngoài nước... Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình
đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để cùng phát
triển.
4) Về cơ chế vận hành nền kinh tế:
Do có sự khác nhau về bản chất giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa nên cơ chế thị trường của hai nền kinh tế này cũng
khác nhau.
- Cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa là việc tổ chức guồng máy kinh tế sao cho sự
vận hành của nó phù hợp với các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, trong đó
quy luật sản xuất ra giá trị thặng dư giữ vai trò quyết định, nhằm đem lại lợi nhuận
ngày càng nhiều cho các nhà tư bản, các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia.
- Còn cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa là việc tổ chức guồng máy kinh tế sao
cho sự vận hành của nó phù hợp với quy luật kinh tế cơ bản và các quy luật kinh tế
khác của chủ nghĩa xã hội. Ở đây, Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
có vai trò rất quan trọng. Nhà nước định hướng nền kinh tế thị trường bằng những
chính sách kinh tế vĩ mô và luật pháp, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế
- xã hội trên cơ sở vận dụng quy luật giá trị và quy luật phát triển có kế hoạch cân
đối toàn bộ nền kinh tế quốc dân; đưa những tiến bộ khoa học - kỹ thuật hiện đại
vào sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, làm ra nhiều sản phẩm
chất lượng cao, giá rẻ, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trên cơ sở đó, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và văn hóa cho mỗi thành viên và cả cộng đồng, củng cố và phát triển
vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa.
5) Về thị trường lao động:
- Cả xã hội là một thị trường lao động lớn và thường thì cung ứng lao động nhiều
hơn yêu cầu lao động do vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa thường tồn tại nạn thất
nghiệp. Do vậy, người lao động thường bị "mua rẻ" sức lao động của mình, xuất
hiện giá trị thặng dư, dẫn đến tình trạng công nhân “bóc lột” trong xã hội tư bản,
điều này những nước xã hội chủ nghĩa đã ra sức loại bỏ. Tuy nhiên nguy cơ của
nạn thất nghiệp đóng vai trò kích thích người lao động nâng cao kỹ năng và kỷ
luật lao động trong cuộc chạy đua bảo vệ chỗ làm việc.
- Thị trường lao động ở nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa còn mới manh
nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện
nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức
cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao
động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được
việc làm. Trong tương lai cần phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực
kinh tế; đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào
tạo nghề.
6) Về hình thức phân phối thu nhập:
Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do
quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.
Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự xâm nhập giữa chúng. Mỗi
chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nó, vì thế trong thời kì quá
độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập
sau đây: phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân
phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của
chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân
phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nguyên tắc phân phối theo
lao động yêu cầu:
- Trong điều kiện như nhau, lao động ngang nhau thì trả công ngang nhau, và lao
động khác nhau thì trả công khác nhau.
- Trong điều kiện khác nhau, lao động như nhau có thể phải trả công khác nhau,
hoặc lao động khác nhau có thể phải trả công bằng nhau.
Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là: số lượng lao động được đo bằng thời
gian của lao động hoặc số lượng sản phẩm làm ra; trình độ thành thạo của người
lao động và chất lượng sản phẩm làm ra; điều kiện và môi trường lao động; tính
chất của lao động; các ngành nghề cần được khuyến khích...
Phân phối theo lao động không có nghĩa là toàn bộ sản phẩm thuộc về người lao
động. Theo quy luật phân phối tổng sản phẩm xã hội thì trong bất kỳ xã hội nào,
người lao động cũng không thể được hưởng toàn vẹn sản phẩm của lao động,
người lao động chỉ được thụ hưởng một phần những gì họ đã đóng góp cho xã hội.
Phân phối theo lao động là một tất yếu khách quan dưới chủ nghĩa xã hội. Phân
phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với những hình thức phân
phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân phối đó là sự
bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, phân phối theo lao
động cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, mỗi một người lao động thường có
thể lực, trí lực, điều kiện và hoàn cảnh gia đình khác nhau, nên phân phối theo lao
động có thể chưa hoàn toàn bình đẳng. Như vậy, với một công việc ngang nhau và
do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng thì trên thực tế, người
này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia, v.v.. Sự phân
phối như vậy còn mang dấu ấn bình đẳng theo kiểu pháp quyền tư sản. Tuy nhiên
điều đó là khách quan, buộc phải chấp nhận sự "bất bình đẳng" này để có sự bình
đẳng cao hơn.
Ngoài ra trong các cơ sở kinh tế có yếu tố tư bản và lao động làm thuê tồn tại
hình thức phân phối tư bản và theo giá cả sức lao động.Thu nhập của những người
lao động trong các cơ sở kinh tế này dựa trên quyền sở hữu sức lao động. Giá cả
của hàng hoá sức lao động tức là thu nhập của người lao động không chỉ tuỳ thuộc
vào giá trị của nó mà còn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về sức lao động trên thị
trường lao động. Vì thế, phân phối theo giá trị sức lao động có hạn chế quan trọng
là làm cho đời sống người lao động trở nên bấp bênh, không ổn định. Trong điều
kiện sản xuất chưa phát triển, dân số tăng nhanh, sức ép về cung lao động rất lớn
làm cho việc tìm kiếm việc làm trở nên rất khó khăn, người lao động bị lệ thuộc
vào giới chủ. Vì vậy, việc Nhà nước điều tiết nhằm hạn chế sự bất công là rất cần
thiết.
Còn tư bản, biểu hiện ở giá trị tài sản hay vốn đầu tư vào quá trình sản xuất, do đó
chủ sở hữu những khoản đó được hưởng một phần thu nhập từ giá trị thặng dư do
quá trình sản xuất đó tạo ra.
Cuối cùng là hình thức phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội.
Đây là hình thức phân phối rất cần thiết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Sở dĩ như vậy vì nó là hình thức phân phối góp phần khắc phục hạn chế,
đồng thời bổ sung cho các hình thức phân phối thu nhập nói trên. Trong xã hội
luôn có những người không có thu nhập hoặc thu nhập thấp, đời sống hết sức khó
khăn do không có khả năng lao động, không có tài sản để đưa vào sản xuất kinh
doanh, do trình độ thấp và nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác. Điều đó
đòi hỏi sự hỗ trợ của tập thể, của xã hội từ các quỹ phúc lợi công cộng (quỹ xoá
đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ người nghèo học tập, chữa bệnh...). Đồng thời, mọi cá
nhân trong xã hội với tư cách là thành viên của tập thể, của xã hội đều được hưởng
phúc lợi chung từ quỹ phúc lợi xã hội dưới hình thức các trường học và bệnh viện
công, nhà văn hoá, công viên... và từ quỹ phúc lợi của doanh nghiệp, hợp tác xã…
Hình thức phân phối này có tác dụng hết sức quan trọng, vì:
Góp phần nâng cao thêm mức sống của toàn dân, nhất là đối với những người có
thu nhập thấp, đời sống khó khăn, rút ngắn sự chênh lệch về thu nhập giữa các
thành viên trong cộng đồng; góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
- Phát huy tính tích cực lao động của các thành viên trong tập thể và trong xã hội.
- Góp phần phát triển toàn diện con người.
- Giáo dục ý thức cộng đồng.
Và hình thức này đang được nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa áp dụng để
đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa; thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; con người được giải phóng khỏi áp
bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, tụ do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện.

You might also like