intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các Trường Cao đẳng nghề khu vực Đông Nam Bộ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:215

23
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nghiên cứu lí luận và phân tích thực trạng nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp góp phần nâng cao nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp cho SVCĐN. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các Trường Cao đẳng nghề khu vực Đông Nam Bộ

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ HƢƠNG NHU CẦU THÀNH ĐẠT TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 9 31 04 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC SƠN HÀ NỘI – 2018
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các dữ liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận án Lê Thị Hương
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHU CẦU THÀNH ĐẠT TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN .................................. 7 1.1. Tổng quan nghiên cứu về nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp ................. 7 1.1.1. Nghiên cứu về nhu cầu và nhu cầu thành đạt trên thế giới .................................... 7 1.1.2. Nghiên cứu về nhu cầu và nhu cầu thành đạt trong nước ................................... 21 CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHU CẦU THÀNH ĐẠT TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ ... 27 2.1. Nhu cầu thành đạt .................................................................................................... 27 2.2. Nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên Cao đẳng nghề .......... 31 2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên Cao đẳng nghề ................................................................................................................ 47 CHƢƠNG 3: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................. 55 3.1. Tổ chức nghiên cứu ................................................................................................. 55 3.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 62 3.3. Thang đo và tính điểm ............................................................................................. 66 CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NHU CẦU THÀNH ĐẠT TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ ................................................... 70 4.1. Thực trạng nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên Cao đẳng nghề khu vực Đông Nam Bộ .......................................................................................... 70 4.2. Các yêu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên cao đẳng nghề ......................................................................................................... 95 4.3. Kết quả nghiên cứu các trường hợp ............................................................................. 111 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................... 128 DANH SÁCH CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ .................................. 136 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 137 PHỤ LỤC .................................................................................................................... 145
  4. DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ Bảng 3.1: Độ tin cậy của các thang đo 64 Bảng 3.2: Phân bố nhóm điểm ở một số thang đo trong bảng hỏi 68 Bảng 4.1: Mô tả kết quả nghiên cứu nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp 70 của sinh viên Cao đẳng nghề Bảng 4.2: Phân bố điểm nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên 71 Cao đẳng nghề Bảng 4.3: Quan niệm thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN 74 Bảng 4.4: Các mặt biểu hiện nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh 79 viên Cao đẳng nghề Bảng 4.5: Nhận thức về mục tiêu học nghề trong học tập nghề nghiệp của sinh viên 79 Cao đẳng nghề Bảng 4.6: Nhận thức về mục tiêu học nghề trong học tập nghề nghiệp của sinh viên 84 Cao đẳng nghề (Theo học lực) Bảng 4.7: Thái độ với mục tiêu học nghề trong học tập nghề nghiệp của sinh viên 85 Cao đẳng nghề Bảng 4.8: Hành động thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên cao đẳng nghề 89 Bảng 4.9: Mối tương quan giữa năng lực chuyên ngành và nhu cầu thành đạt trong 96 học tập nghề nghiệp của sinh viên Cao đẳng nghề Bảng 4.10: Mối tương quan giữa hứng thú học tập nghề nghiệp và nhu cầu thành 99 đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên cao đẳng nghề Bảng 4.11: Yếu tố gia đình tác động đến nhu cầu thành đạt trong học tập nghề 102 nghiệp của sinh viên Cao đẳng nghề Bảng 4.12: Quan điểm xã hội ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt trong học tập nghề 105 nghiệp của sinh viên cao đẳng nghề Bảng 4.13: Tác động của kinh tế thị trường 107 Biểu đồ 1: Đánh giá của giảng viên về thái độ của sinh viên Cao đẳng nghề đối với 78 nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp
  5. CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Stt Chữ viết tắt Viết đầy đủ 1 SVCĐN Sinh viên Cao đẳng nghề 2 ĐLC Độ lệch chuẩn 3 NCTĐNN Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp 4 TĐC Tương đối cao 5 ĐTB Điểm trung bình 6 NLCN Năng lực chuyên ngành 7 TB Trung bình 8 MTQ Mối tương quan 9 TĐC Tương đối cao 10 SVN1 Sinh viên năm một 11 SVN3 Sinh viên năm ba 12 NCTĐ Nhu cầu thành đạt 13 TĐHTNN Thành đạt học tập nghề nghiệp
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Về lí luận: Nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực của nhân cách. Khi nhu cầu gặp đối tượng có thể thỏa mãn trong điều kiện thuận lợi trở thành động lực thúc đẩy hoạt động của cá nhân. Với vai trò như vậy, vấn đề nhu cầu đã được quan tâm nghiên cứu từ lâu trong Tâm lý học. Trong Tâm lý học hiện đại nhu cầu và các tầng bậc nhu cầu ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Nhu cầu thành đạt là một trong những nhu cầu luôn được nẩy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động của con người. Nhu cầu thành đạt và nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp là cội nguồn của khát khao mong muốn mạnh mẽ, định hướng và thúc đẩy con người luôn cố gắng vượt qua khó khăn thử thách để đạt thành tích ngày càng cao ở mọi lĩnh vực. Hơn nữa nó còn giữ vị trí quan trọng trong cấu trúc nhân cách là cơ sở để lý giải các lực thúc đẩy, điều chỉnh nhận thức, thái độ và hành vi con người, là nền tảng hình thành và phát triển nhân cách con người ngày càng hoàn thiện. Nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng là cơ sở hình thành và phát triển chức năng tâm lí theo hướng tích cực, thúc đẩy sinh viên cao đẳng nghề vượt qua mọi khó khăn, đạt kết quả học tập nghề nghiệp cao. Mặt khác các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước đi trước đề cập đến lĩnh vực nghề ở nhiều bình diện khác nhau: Đảm bảo chất lượng đào tạo nghề, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, chương trình, kiểm định đánh giá đào đạo nghề, chưa có công trình nào nghiên cứu độc lập và chuyên sâu về nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên cao đẳng nghề. Việc nghiên cứu biểu hiện và yếu tố ảnh hưởng, góp phần nâng cao nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp cho sinh viên Cao đẳng nghề. Hơn nữa nghiên cứu về nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên cao đẳng nghề hoàn toàn thiếu vắng. Nghiên cứu này, góp phần làm rõ hơn lí luận về nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên. 1
  7. Về thực tiễn: Nâng cao chất lượng đào tạo nghề đã và đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm, chú trọng ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Trên thế giới cũng vậy luôn tăng cường, mở rộng quy mô đào tạo nghề cả về chất lượng lẫn số lượng, là một trong những chiến lược trọng tâm phát triển kinh tế đất nước. Tình trạng "Thừa thầy thiếu thợ" tạo ra sự mất cân đối trong đào tạo nguồn nhân lực diễn ra từ rất lâu, hiện vẫn chưa có giải pháp thỏa đáng. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho biết, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở nhóm có trình độ đại học trở lên lại gia tăng như quý IV/2016, cả nước có 1.110.000 người trong độ tuổi lao động thất nghiệp nhóm có trình độ đại học trở lên là 218.800 người. Trong khi đó lao động thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ có trình độ từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 16,1%; trung cấp: 14,6%; công nhân kỹ thuật: 28,1%; không được đào tạo: 41,2%. Hiện nay các khu công nghiệp và khu chế xuất đang thiếu nghiêm trọng công nhân trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Tất cả số lao động này không đáp ứng được yêu cầu công nghệ mới của thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động [2,tr.3]. Từ các con số thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội vào năm 2016 nói trên. Dẫn đến hiện nay nhu cầu tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực kỹ thuật công nghệ chất lượng cao có kỹ năng nghề, kỹ thuật tay nghề tốt và năng lực sáng tạo. Làm chủ các phương tiện máy móc, làm chủ được công nghệ hiện đại trở thành nhu cầu nóng bỏng trong cả nước nói chung và khu vực Đông Nam Bộ nói riêng là rất lớn, như khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Thành Phố Hồ Chí Minh… Chẳng hạn công nhân kỹ thuật đang khan hiếm tại các khu công nghiệp Bình Dương, nhiều doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lớn than phiền không tuyển được lao động vì không có nguồn cung. Tình trạng thiếu hụt lao động diễn ra khắp các khu công nghiệp, khu chế xuất, tập trung ở các ngành: May, cơ khí, điện, công nghê ô tô, mộc... Thực tế nguồn lao động trong tỉnh chưa qua đào tạo chiếm tỉ lệ rất cao 79,43%, trong đó, công nhân kỹ thuật có tỉ lệ thấp chỉ 11,8%. Số lượng học sinh, sinh viên của trường Cao đẳng nghề số 8 – Đồng Nai, ở năm học 2013 - 2014 là 9.620 học sinh, sinh viên ở các trình độ đại học liên thông, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, sơ cấp và bổ túc văn hóa. Ngoài ra trường còn 2
  8. làm thủ tục tiếp nhận thêm 1 ngàn học sinh, sinh viên là con em đồng bào dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ trên địa bàn tỉnh [96,tr.1] và trường Cao đẳng Nghề Việt Nam - Singapore số lượng học sinh, sinh viên tăng đều qua từng năm lên gần 3.000 trong những năm gần đây, chưa kể các lớp ngắn hạn [48,tr.2]. Nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp, là động lực giúp sinh viên tự tin tiếp cận thiết bị kỹ thuật công nghệ hiện đại, say mê rèn luyện kỹ thuật tay nghề. Đam mê sáng tạo học khoa kỹ thuật. Vì vậy, nghiên cứu nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên cao đẳng nghề để tìm kiếm, phát huy biểu hiện tích cực, hạn chế biểu hiện chưa tốt, tìm ra những rào cản tâm lý, cản trở sự phát triển nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên cao đẳng nghề là điều cấp thiết. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các Trường Cao đẳng nghề khu vực Đông Nam Bộ” để nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lí luận và phân tích thực trạng nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp góp phần nâng cao nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp cho SVCĐN. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN. + Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN, xác định những yếu tố cơ bản ảnh hưởng nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN. + Làm rõ thực trạng về biểu hiện và mức độ nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN, mức độ tác động của các yếu tố ảnh hưởng. Đề xuất biện pháp nhằm nâng cao nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp cho SVCĐN. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Biểu hiện và mức độ nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng nghề khu vực Đông Nam Bộ. 3
  9. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Nội dung Luận án tập trung nghiên cứu mức độ biểu hiện ở mặt: Nhận thức mục tiêu học nghề; Thái độ với mục tiêu học nghề và hành động thực hiện mục tiêu học nghề và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN: NLCN, hứng thú nghề nghiệp, nỗ lực ý chí (yếu tố chủ quan): Gia đình, quan niệm xã hội và tác động kinh tế thị trường (yếu tố khách quan). 3.2.2. Khách thể nghiên cứu Tổng số khách thể hai trường Cao đẳng nghề Việt Nam – Singapore và trường Cao đẳng nghề số 8 – Đồng Nai tham gia quá trình khảo sát là: 547 người. - Khảo sát thử: 83 người - Khảo sát chính thức: 355 SV (loại 31 phiếu) và 62 giảng viên - Phỏng vấn nhóm: 12 người - Phỏng vấn sâu: 37 người - Nghiên cứu trường hợp: 6 người - Cán bộ quản lí: 15 người và phụ huynh: 20 người (Số người phỏng vấn sâu và nghiên cứu trường hợp, được lựa chọn từ những khách thể tham gia khảo sát chính thức và khách thể nghiên cứu phụ) 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận 4.1.1. Nguyên tắc hoạt động: Nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên thể hiện thông qua hoạt động học tập, nghiên cứu nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên phải thông qua thực tiễn hoạt động học tập của họ. Điều này có nghĩa là phải nghiên cứu thông qua tìm hiểu, quan sát và đánh giá biểu hiện kết quả hoạt động học tập về nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của người sinh viên. 4.1.2. Nguyên tắc hệ thống: Con người là một thực thể xã hội. Hành vi của cá nhân phải được xem là kết quả của sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau: Yếu tố chủ quan, yếu tố khách quan. Do đó, cần phải nghiên cứu nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên trong mối quan hệ tương hỗ của nhiều yếu tố. 4
  10. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu 4.2.2. Phương pháp chuyên gia 4.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 4.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu 4.2.5. Phương pháp quan sát 4.2.6. Phương pháp nghiên cứu trường hợp 4.2.7. Phương pháp thống kê toán học 4.3. Giả thuyết khoa học 4.3.1. Nhu cầu thành đạt trong hoc tập nghề nghiệp của SVCĐN biểu hiện 3 mặt: Nhận thức về mục tiêu học nghề; Thái độ với mục tiêu học nghề và hành động thực hiện mục tiêu học nghề. Nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên ở mức độ khá cao... có sự khác biệt về nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp theo nghề đào tạo và học lực. 4.3.2. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN, trong đó yếu tố chủ quan ảnh hưởng mạnh hơn là yếu tố khách quan. 4.3.3. Đưa ra các khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp cho SVCĐN. 5. Đóng góp mới về khoa học + Luận án đã hệ thống hóa, xây dựng phát triển, phân tích và làm rõ một số khái niệm cơ bản: Nhu cầu, nhu cầu thành đạt, nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp; Xác định được biểu hiện của nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp trên 3 mặt: Nhận thức về mục tiêu học nghề; Thái độ với mục tiêu học nghề và hành động thực hiện mục tiêu học nghề. + Xác định được những đặc trưng về nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của nhóm đối tượng mới – sinh viên cao đẳng nghề. + Làm rõ thực trạng biểu hiện và mức độ nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN, mức độ tác động của các yếu tố ảnh hưởng nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN. 5
  11. 6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận - Kết quả nghiên cứu luận án, góp phần bổ sung và làm phong phú về lý luận cho vấn đề nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp trong Tâm lý học và Tâm lý học sư phạm. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu luận án đã làm rõ thực trạng biểu hiện và mức độ yếu tố ảnh hưởng nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN. Luận án đưa ra các khuyến nghị, nhằm góp phần nâng cao nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của SVCĐN. Đồng thời luận án góp phần bổ sung thêm tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên, giảng viên, nhà quản lý giáo dục tại trường Cao đẳng nghề Việt Nam - Singapore và trường Cao đẳng nghề số 8 – Đồng Nai riêng và các cơ sở đào tạo nghề. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận và khuyến nghị. Luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên. Chương 2: Cơ sở lý luận về nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng nghề. Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu. Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực trạng nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng nghề khu vực Đông Nam Bộ. 6
  12. CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHU CẦU THÀNH ĐẠT TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN 1.1. Tổng quan nghiên cứu về nhu cầu thành đạt trong học tập nghề nghiệp 1.1.1. Nghiên cứu về nhu cầu và nhu cầu thành đạt trên thế giới 1.1.1.1. Nghiên cứu về nhu cầu trên thế giới Freud Sigmund [20,tr.28-40] giới phân tâm học đưa ra quan điểm về nhu cầu: Nhu cầu là nơi tạo nên bản chất tự nhiên ở mỗi con người. Đó chính là các nhu cầu: Sự tồn tại “cái tâm” của con người, quan hệ người – người; đồng nhất bản thân và xã hội với tổ quốc, giai cấp; sự bền vững và hài hoà; tôn giáo... Các nhu cầu này là nhân tố làm nên nhân cách ở mỗi người. Giới phi hành vi đã tìm hiểu và nghiên cứu nhân cách bắt nguồn từ quan điểm của tính chế ước. Các mâu thuẩn mới nẩy sinh nhờ sự kết hợp các kích thích với nhu cầu bẩm sinh có giới hạn của chủ thể. Cũng bắt nguồn từ quan niệm này thì mọi vấn đề gì được xem là nhu cầu tinh thần của con người đều gọi là trạng thái. Nó còn là dấu hiệu để thỏa mãn các nhu cầu sắp tới, họ cho rằng các kích thích nguyên phát chỉ là bề ngoài nhu cầu của cơ thể. Họ khẳng định nhu cầu, nơi xuất phát động cơ của hành vi, là hai loại mâu thuẩn hành vi, nhu cầu là các mâu thuẩn mang tính chất sinh vật. Nhu cầu nguyên phát sinh ra do khát, đói, ngủ, tình dục, thở, chạy trốn hiểm họ… nhu cầu xã hội là nhu cầu thứ hai là quyến rũ và thống trị, ham hiểu và lệ thuộc, … nhu cầu thứ ba là cần có mối quan hệ với người khác qua con đường học tập. Nhu cầu thứ ba biểu hiện sự nhận và cho, thường mang tính chất mục tiêu và khái quát được xác định tương đối do cộng đồng đem đến. Sự giàu có hoặc thành công trên con đường công doanh chính là nhu cầu này. Khác với Freud, Maslow [54,tr.120-136] đã nghiên cứu và đưa ra kết luận tính xã hội ở trong bản chất mỗi người. Trong mỗi người có các nhu cầu đúng đắn: Tình yêu, giao tiếp, lòng kính trọng, sự phụ thuộc… Các nhu cầu này mang tính chất bản năng đặc biệt của loài người. Tác giả Maslow [54,tr.138-151]“tính người” của nhu 7
  13. cầu ở những mâu thuẫn của mỗi người, được tạo nên trong tiến trình sinh ra loài người. Tác giả cho rằng, tất cả nhu cầu thuộc hệ thống thứ bậc đều có mối quan hệ tới cấu tạo cơ thể của con người và đều dựa vào cơ sở di truyền. Murray Alexander Henry [56,tr140-147] nói: Nhu cầu tâm lý ở người là các nhu cầu mà con người đều cảm nhận có các cường độ không giống nhau, mức độ mạnh yếu cũng không giống của mỗi người. Chẳng hạn người này có nhu cầu ăn uống và nghĩ ngơi mạnh mẽ, thì ở người kia có nhu cầu về địa vị và quyền lực nổi trội. Mỗi một nhân cách khác nhau thì có nhu cầu tâm lí khác nhau. Tuy vậy tác giả không quan tâm trực tiếp đến động cơ nhân cách, bản chất của nhu cầu, tính quy ước cộng đồng của nhu cầu và nguyên nhân đã phát sinh hành động. Tác giả khẳng định tính ích kỷ quá mức, chỉ nghĩ tới thành quả nhân cách, quên nói tới tính nhân văn cao cả là quan tâm tới hạnh phúc xã hội. Murray Alexander Henry không thừa nhận tính quy ước xã hội về tính ích kỷ của con người. Dưới ánh sáng triết học Mác – Lênin, Tâm lý học hiện đại của Liên Xô tìm hiểu và nghiên cứu bản chất con người và tâm lý người đã chỉ ra: Nhu cầu là nhân tố bên trong quan trọng nhất, nó trở thành động lực thôi thúc mọi hoạt động của con người. Trong triết học Ăng-ghen [1,tr.280-287], đưa ra luận điểm về nhu cầu: Người ta mặc định cho trí óc, cho sự mở mang và hoạt động của bộ óc, tất cả là mong muốn làm cho xã hội tiến triển nhanh và mạnh, thì đáng lẽ họ phải lí giải mọi hành động của mình do nhu cầu chủ thể định đoặt. Người ta lại quên lí giải mọi hoạt động của bản thân do tư duy quyết định. Uznatze.D.N [101,tr.151-178] là người trước tiên trong Tâm lý học Xô Viết, tìm hiểu và nghiên cứu đến vấn đề nhu cầu. Tác giả phát hiện được mối liên kết giữa hành vi và nhu cầu. Song hành ở mỗi một kiểu hành vi là một nhu cầu, Uznatze.D.N khẳng định: Không có gì đại diện cho một cơ thể hơn là sự hiện diện của nó ở nhu cầu. Nhu cầu là nơi mang lại tính tích cực, không có nhu cầu thì không có tính tích cực. Do đó, định nghĩa về nhu cầu rất rộng, có mối quan hệ với mọi vấn đề thiết yếu của cơ thể. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý đặc trưng đóng vai trò trọng tâm của sự thúc đẩy mọi hành vi, tác giả cho rằng: Nhu cầu là nhân tố quyết định làm nên tính tích cực, đóng vai trò định hướng cho hành vi và tính chất. phải 8
  14. căn cứ vào nhu cầu để đánh giá và phân loại hành vi mỗi con người. Ở lĩnh vực nhu cầu đang được đáp ứng, lại gặp trắc trở nghĩa là không được thực hiện trực tiếp thì nhu cầu xuất hiện trong bản thân ý thức chủ thể mang nội dung đặc biệt. Khi đó từ phía cá nhân, nó được biểu hiện dưới dạng cảm xúc không được đáp ứng, lúc này con người rơi vào tình trạng căng thẳng và hưng phấn, còn về phía khách thể dưới dạng nội dung đang kích thích hoạt động để được đáp ứng. Khi nhu cầu xuất hiện với tốc độ mạnh, chủ thể bắt đầu hành động để thỏa mãn. Quá trình đáp ứng nhu cầu khẩn cấp, được tác giả đặt tên là nhu cầu phục vụ. Sự khác nhau giữa nhu cầu phục vụ và nhu cầu lao động là, phục vụ chỉ có nghĩa giải thích là nhu cầu cấp bách, còn lao động muốn đến tính tích cực của con người. Ở trường hợp này, ý chí nằm ngoài nhu cầu khẩn cấp. Vì vậy tác giả đưa ra các đặc điểm hành vi của ý chí, chỉ ra sự gắn bó giữa cảm xúc và ý chí hành vi. Ngoài nhu cầu sống Uznatze.D.N khẳng định ở mỗi người còn có các nhu cầu không có mối quan hệ đến nhu cầu tồn tại, tác giả đặt tên là nhu cầu cấp cao như trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ,… hoạt động hàng ngày của con người không chỉ muốn đáp ứng nhu cầu phục vụ, mà còn muốn đáp ứng nhu cầu cấp cao. Ở mỗi người có các loại nhu cầu mang cấp độ khác nhau: Người này nhu cầu cao cấp mang ý nghĩa đặc biệt, nhưng ở người kia nhu cầu cơ thể lại cao hơn là nhu cầu cao cấp. Leonchiep A.N [47,tr132-148] đã nói: Nhu cầu cũng bắt nguồn từ hoạt động trong cuộc sống. Theo tác giả nhu cầu lúc nào cũng mang tính đối tượng: Nhu cầu luôn là sự đòi hỏi về điều gì đó. Ở mối quan hệ giữa đối tượng đáp ứng nhu cầu, đối tượng luôn tồn tại khách quan và không lộ diện, khi cá nhân mới chỉ có cảm giác thấy thiếu hụt. Chỉ khi cá nhân thực hiện hành động, thì lúc này đối tượng đáp ứng nhu cầu mới hiện diện. Nhờ sự hiện diện làm cho nhu cầu mới mang tính đối tượng. Nhu cầu biểu hiện cho sức mạnh bên trong, chỉ được thực hiện trong hành động. Khi mới lộ diện thì nhu cầu chỉ là cơ sở cho mọi hoạt động, khi cá nhân thực sự bắt tay vào hoạt động với đối tượng, thì ngay tức khắc diễn ra sự biến hoá không ngừng của nhu cầu. Lúc này nó không còn là sự vốn có mang tính tiềm ẩn. Khi hành động thực hiện mạnh mẽ bao nhiêu thì sự chuyển hoá của nhu cầu ngày càng mạnh mẽ bấy nhiêu, để làm ra thành tích của hành động. 9
  15. Leonchiep A.N không đồng ý tách biệt nhu cầu ra ngoài hoạt động, mà xem nhu cầu là nơi bắt đầu cho mọi hoạt động. Sự liên kết của nhu cầu và hoạt động được tác giả miêu tả theo sơ đồ: Hoạt động – Nhu cầu – Hoạt động, quan niệm này thỏa mãn rất lớn luận điểm Macxit về nhu cầu. Quan niệm này nói rằng nhu cầu trong con người được làm ra. Đây là một quan điểm mang lại giá trị cho Tâm lý học, tác giả khẳng định: Nhu cầu trong mỗi người, không những được sinh ra trong sản xuất, hơn nữa được cải biến chính trong tiến trình sản xuất, sử dụng là điểm mấu chốt giúp ta hiểu rõ tính chất nhu cầu ở mỗi con người. Xét về sự liên kết của nhu cầu và động cơ, tác giả nói: Lúc đối tượng lộ diện nhu cầu, cái đạt được có vai trò thúc đẩy, dẫn đường cho hành động, nghĩa là đã trở nên động lực hoặc nội dung của đối tượng về nhu cầu. Nhu cầu là động cơ cho mọi hành động. Mỗi hành động khi xảy ra luôn hướng đến mục tiêu là mang lại thành tích. Động cơ từ hoạt động thể hiện nhu cầu được chủ thể đối tượng hoá, đã phác họa trước đó, dưới những biểu tượng của thành tích hoạt động. Lomov.B.Ph [49,tr.58-67] nghiên cứu, tìm hiểu nhân cách, tác giả đã đề cập tương đối lớn về nhu cầu. Ông nói nhu cầu là thuộc tính vốn có của nhân cách. Mỗi nhu cầu luôn có nhiều cấp độ, trong mỗi con người nhu cầu là sự đòi hỏi gì đó về các phương tiện, điều kiện để sống. Nhu cầu phải xuất phát từ diễn biến của các quá trình mang tính chất khách quan, ở đó mỗi con người hoạt động xuyên suốt cả cuộc đời. Đương nhiên, nhu cầu là đòi hỏi từng chủ thể. Nhu cầu vật chất không thể là tất cả. Mỗi người chúng ta sống trong cộng đồng, sự “tiêu thụ” giá trị tinh thần mà cộng đồng xây dựng nên, giữ vai trò then chốt cho quá trình xây dựng và phát triển nhân cách. Rubinstein.X.L [75,tr.137-149] cho rằng con người luôn có nhu cầu sinh vật, bản chất ở con người đều là sản phẩm của xã hội, vì vậy phải cần xét những vấn đề trọng tâm của con người với nhân cách. Khi nói về nhu cầu của con người, là nói tới sự đòi hỏi ở một điều gì đó, thường nằm ngoài bản thân con người. Vậy nên tiến trình hoạt động, nhằm đáp ứng các nhu cầu, khả năng đáp lại những đòi hỏi ấy, một mặt phụ thuộc vào thế giới đối tượng, trong điều kiện cụ thể, mặt khác nó phụ thuộc vào sự nỗ lực, năng lực của chính chủ thể. 10
  16. Nhu cầu mang tính tích cực, thúc đẩy con người hoạt động tìm kiếm cách thức, phương tiện đối tượng thoả mãn nó. Vì vậy theo ông trong thực tế nhu cầu là xuất phát điểm của một loại hiện tượng tâm lý, Tâm lý học không nên xuất phát từ nhu cầu mà phải tiến dần và phải khám phá nhiều biểu hiện đa dạng của nó. Ông là người đầu tiên khám phá ra quá trình nảy sinh nhu cầu. Như vậy, khi nói đến nhu cầu là nói đến sự đòi hỏi cần thiết của con người về một cái gì đó, hay một điều gì đó nằm bên ngoài con người. Chính “cái gì đó” sẽ có khả năng đáp ứng nhu cầu con người, thông qua hoạt động chính bản thân họ. Khi nói đến nhu cầu sẽ xuất hiện hai hệ thống mà ta dễ nhận ra đó là: Thế giới đối tượng và trạng thái tâm lí của chủ thể. Hay nói cách khác, đó là mối quan hệ thống nhất giữa yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan trong hoạt động thỏa mãn nhu cầu. Từ quan niệm về nhu cầu, ta thấy rõ nhu cầu của con người vừa mang tính thụ động vừa mang tính tích cực. Sau đây chúng tôi phân tích rõ hơn về vấn đề này: - Thứ nhất, sự đòi hỏi cần phải được thỏa mãn bản thân chủ thể (xuất hiện nhu cầu). Nhưng nhu cầu ấy có được thỏa mãn hay không là còn phụ thuộc vào chính hệ thống đối tượng thỏa mãn nhu cầu trong hoàn cảnh đó. Bản thân chủ thể trải nghiệm nhu cầu sẽ chịu sự quy định bởi các đối tượng trong thế giới xung quanh. Khả năng thỏa mãn nhu cầu ở chủ thể sẽ rơi vào trạng thái bị động. Xét trong bối cảnh đó, ta dễ nhận thấy tính thụ động nhu cầu con người. Ví dụ nhu cầu đọc sách khoa học viễn tưởng ở người có được thỏa mãn hay không còn tùy vào mức độ đa dạng của thị trường sách về loại này. - Thứ hai, cũng chính trong ví dụ nêu trên, nhu cầu đọc sách loại ấy ở chủ thể sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm trên thị trường sách để chọn lựa những loại sách nào phù hợp với nhu cầu chủ thể để đọc. Xét trong hoàn cảnh này, ta thấy chính sự tồn tại nhu cầu lại thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động. Nhu cầu phát huy được tính tích cực trong quá trình tìm kiếm đối tượng, tìm kiếm phương thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu. Trong trường hợp này, người ta nói nhu cầu mang tính tích cực. Trong các nghiên cứu của mình, Rubinstein rất có lý khi cho rằng con người là một thực thể và thực thể đang thể nghiệm sự thiếu thốn, kết quả thực thể tích cực tìm kiếm đối tượng thỏa mãn. 11
  17. Từ hai mặt nói trên về tính thụ động – tính tích cực của nhu cầu giúp ta nhận biết được, tiến trình hình thành và tiến triển của nhu cầu luôn vận động từ bên trong của nhu cầu ở các giai đoạn, các cấp độ khác nhau. Bản chất quá trình được lý giải: Nhu cầu theo tâm lý học, một hiện tượng tâm lí người. Nhu cầu còn là một thuộc tính tâm lí người, điều đó có nghĩa là nhu cầu không chỉ có vai trò chỉ đạo mà còn điều khiển hành vi của con người, trong tiến trình lĩnh hội đối tượng. Song khi xem xét sự hình thành một nhu cầu cụ thể, ta thấy nó diễn ra trong hoạt động tâm lí. Chặn đường lĩnh hội đối tượng luôn có cả sự đồng hành ý thức với nhiều mức độ. Có thể nói ý thức làm cho nhu cầu con người khác về chất so với nhu cầu động vật. Tóm lại, khi đánh giá một nhu cầu nào đó ở con người theo quá trình diễn biến ý thức và nhận thức, thống nhất cả yếu tố chủ quan và khách quan, giúp ta hiểu nhu cầu mang nguồn gốc của tích cực ở mỗi người. Từ việc tìm hiểu trên, đi đến khái quát về nhu cầu ở con người: Sự đòi hỏi của con người về một điều nào đó, hay một cái nào đó, bên ngoài mỗi con người cần được thỏa mãn. - Sự đòi hỏi này là thuộc tính tâm lí vốn có ở con người, thể hiện mối liên hệ của con người với môi trường sống. Đây chính là phương thức thể hiện rất đặc biệt ở người về những điều kiện sống bên ngoài. - Sự đòi hỏi về một hoặc nhiều đối tượng, diễn biến theo tiến trình nhất định, chỉ được thực hiện bằng chính hoạt động của con người. - Sự cần thiết phải đáp lại các đòi hỏi ấy được phát sinh, thôi thúc bởi tính tích cực và biểu hiện rõ nhất bản chất xã hội ở mỗi con người. Tính chất chu kỳ của nhu cầu, có thể đưa ra kết luận sau: Nếu một nhu cầu nào đó ở con người lặp lại nhiều lần, sẽ có mức độ cao hơn cả về phương thức cũng như về nội dung đáp ứng. Đặc điểm này, cho thấy nhu cầu thể hiện rõ bản chất vốn có của nhu cầu là nhu cầu không tự mất đi và cũng không tự sinh ra. Nhu cầu luôn phát triển và chuyển hóa trong từng hoạt động. Như vậy, khi nói đến nhu cầu là nói đến sự đòi hỏi cần thiết của con người về một cái gì đó. Chính “cái gì đó” sẽ có khả năng đáp ứng nhu cầu con người thông qua hoạt động chính bản thân họ. Khi nói đến nhu cầu sẽ xuất hiện hai hệ thống mà ta dễ nhận ra: thế giới đối tượng và trạng thái tâm lý chủ thể. Qua đây có 12
  18. thể thấy rằng có nhiều quan điểm khác nhau về nhu cầu, mỗi quan điểm đều dựa trên tiêu chí của mình để nhìn nhận về nhu cầu. Tuy nhiên ở mỗi quan điểm lại có những hạn chế nhất định: Phân tâm học sinh vật hoá nhu cầu của con người, quan điểm của hành vi đã không phân biệt nhu cầu của động vật với nhu cầu của con người. Những hạn chế này đã được khắc phục từ khi Tâm lý học hoạt động ra đời, họ đã có cách nhìn nhận đúng đắn về bản chất của nhu cầu: Đó là nhu cầu được nảy sinh trong hoạt động và nhu cầu mang bản chất lịch sử xã hội, nó phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. 1.1.1.2. Nghiên cứu về nhu cầu thành đạt trên thế giới Có nhiều hướng nghiên cứu khác nhau về nhu cầu thành đạt, luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số hướng liên quan cơ bản sau: * Những nghiên cứu chung về bản chất và cấu trúc của nhu cầu thành đạt Nghiên cứu về nhu cầu người đầu tiên phải nói đến là Rudarwin.S [77,tr.112- 124], là nghiên cứu về nhu cầu con người có nguồn gốc sinh học. Ông đưa ra giả thuyết nhu cầu sinh vật tương ứng với khuynh hướng của những hành vi thích nghi. Đến cuối thế kỷ XIX Freud Sigmund [20,tr.45-49] đưa ra vấn đề nhu cầu vào lý thuyết bản năng con người, theo ông lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định tất cả hành vi con người đều hướng tới mong muốn thỏa mãn nhu cầu cơ thể. Năm 1943, Maslow [dẫn theo 54, tr.65] chia nhu cầu con người thành 5 loại: nhu cầu sinh lí, nhu cầu an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu về sự tự trọng, nhu cầu tự thể hiện. Sau đó vào những năm 1970 và 1990, sự phân cấp này được Maslow điều chỉnh thành 7 bậc và cuối cùng là 8 bậc: 1 nhu cầu cơ bản, 2 nhu cầu an toàn, 3 nhu cầu về xã hội, 4 nhu cầu được quý trọng, 5 nhu cầu về nhận thức, 6 nhu cầu về thẩm mỹ, 7 nhu cầu được thể hiện mình, 8 sự siêu nghiệm. Khác với Maslow, thuyết nhân cách của Murray Alexander Henry [56, tr.175-192] đã phân chia thành 20 loại nhu cầu: Nhu cầu về quyền lực, nhu cầu tìm kiếm các mối quan hệ bạn bè, nhu cầu muốn làm tổn thương người khác, nhu cầu muốn vượt qua mọi quy định, nhu cầu muốn rời bỏ người khác, nhu cầu phục tùng thụ động quy tắc ràng buộc với bản thân, nhu cầu muốn làm trung tâm chú ý, nhu 13
  19. cầu được tôn trọng và ủng hộ, NCTĐ là muốn chiến thắng, đánh bại hoặc vượt trội người khác, muốn làm điều gì đó tốt đẹp và nhanh, mong muốn đạt trình độ cao, nhu cầu giải trí, nhu cầu đặt quyền lợi của mình lên trên tất cả, nhu cầu hướng ngoại, quên lợi ích người khác, nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ, chia sẽ của người khác, nhu cầu muốn giúp đỡ chia sẽ với người khác, nhu cầu phòng vệ, nhu cầu trách bị trách phạt, nhu cầu an toàn, nhu cầu không muốn thất bại, nhu cầu phán đoán, nhu cầu trật tự và ngăn nắp. NCTĐ được Murray Alexander Henry xem là nhu cầu ở mức độ thứ phát, vốn tiềm ẩn trong con người. Quá trình nghiên cứu, ông quan tâm nhiều đến NCTĐ. Theo ông sự xuất hiện của nhu cầu dẫn đến những thay đổi hóa học trong não, bất kì nhu cầu nào cũng gây cho cơ thể sự căng thẳng nhất định và chỉ có thể giải tỏa nó là thỏa mãn nhu cầu. Ông cho rằng NCTĐ là loại nhu cầu được nảy sinh trong tiến trình tương tác giữa người này và người khác, nó không thể hiện tự do ra ngoài mà thể hiện dưới dạng tiềm ẩn. Tác giả Rubinstein.X.L [75,tr.123-145] nghiên cứu sự khác biệt ở các đứa trẻ biết vượt lên thất bại và đứa trẻ không biết vượt qua thất bại. Rubinstein.X.L cho rằng mọi đứa trẻ đều phải trải qua những thất bại, chúng luôn cố gắng để vượt qua mọi thử thách, dành được tiêu chuẩn tốt về thành quả... Tác giả nhận ra các đứa trẻ đạt kết quả cao là do nguyên nhân bên trong, còn những đứa trẻ có thành tích thấp thì chúng thường đổ lỗi cho nguyên nhân bên ngoài. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn cho rằng NCTĐ phụ thuộc các giai đoạn phát triển. Các tác giả Z.S.,Byrne, R.A.Mueller Hanson [132] nghiên cứu về NCTĐ năm 1977, ở các độ tuổi khác nhau như trên 50 khả năng làm việc không có sự khác biệt nhiều với người ít tuổi. Có thể thấy mỗi tác giả có cách nhìn nhận khác nhau về bản chất và cấu trúc NCTĐ, dù là cách nào thì các tác giả đều coi NCTĐ là nhu cầu cấp cao, nhu cầu tinh thần thể hiện khát vọng muốn đạt được, muốn chiếm lĩnh thành tích cao trong mọi hoạt động của con người. NCTĐ nảy sinh trong quá trình con người hoạt động và tương tác với thế giới xung quanh, nó không chỉ có ý nghĩa với đời sống cá nhân mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Cá nhân mong muốn chiến thắng người khác đạt 14
  20. thành tích cao trong công việc, tránh thất bại dành được cuộc sống bình yên cho bản thân từ đó giúp đỡ chia sẽ với người khác và công hiến cho xã hội cả vật chất và tinh thần. Các tác giả còn chỉ ra NCTĐ là một quá trình liên tục tiếp diễn trong suốt cuộc đời con người. Mỗi lứa tuổi NCTĐ có sự phát triển khác nhau. Những người có NCTĐ cao thường thích nhiệm vụ khó, những người NCTĐ thấp lại thích nhiệm vụ dễ. Mặt khác người có NCTĐ cao có trách nhiệm, tự giác trong công việc, thích cạnh tranh và thiết lập mối quan hệ thân thiện với mọi người. Họ mong muốn có quyền lực cao để kiểm soát cấp dưới. * Những nghiên cứu về hệ quả của nhu cầu thành đạt Nghiên cứu A.Jennifer [114] về NCTĐ trên 859 sinh viên, trong đó có 738 sinh viên từ 18 - 23 tuổi, 50 sinh viên từ 24 – 29 tuổi và 71 sinh viên trên 30 tuổi. Nghiên cứu chỉ ra xu hướng của sinh viên về các vấn đề: Quyền lực, thành tích, mục tiêu có mối liên hệ theo từng cặp đối với việc thực hiện nhiệm vụ khó hay dễ. Bertagga Nadia, N.Francesco [133] nghiên cứu sinh viên đã tốt nghiệp đại học ở Olivetti về nhu cầu nghề nghiệp, rút ra những kết luận chủ yếu: 1. Sinh viên mới tốt nghiệp có hai nhu cầu thiết yếu nhất: Nhu cầu hiểu rõ về hoạt động nhiệm vụ lao động, nhu cầu muốn được đánh giá, tự đánh giá phù hợp nghề của cá nhân. 2. Việc thỏa mãn hai nhu cầu nói trên, là 1 trong những điều kiện hình thành kỳ vọng, mang tính hiện thực và đề ra được 1 kế hoạch mang tính khả thi. 3. Nhu cầu tiếp theo là mong muốn được giúp đỡ, hỗ trợ cá nhân của người phụ trách trực tiếp, để nhanh chóng hòa nhập và làm việc ngày càng có kết quả. Điều đó có nghĩa khi chuẩn bị vào nghề, sinh viên có ba nhu cầu cơ bản nhất: Nhu cầu hiểu biết nghề, nhu cầu đánh giá và tự đánh giá, nhu cầu được giúp đỡ của người đi trước. Các nhu cầu này tác động trực tiếp đến kỳ vọng về nghề nghiệp tương lai của họ. Tiến hành nghiên cứu NCTĐ Mc.Clelland David [127] chỉ ra rằng, NCTĐ cao chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới thành tích cao. Bên cạnh nghiên cứu về sự khác biệt giới tính cũng được tác giả quan tâm. Vào những năm 1950 và 1960, hầu hết các nghiên cứu về NCTĐ chỉ được Clelland khảo sát trên nam giới. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0