intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Sóc Trăng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:126

16
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua việc tìm hiểu căn cứ lý luận và thực tiễn về phát triển KTTN, luận văn sẽ phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KTTN ở Sóc Trăng từ năm 1992 đến nay. Từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp phát triển khu vực kinh tế này ở Sóc Trăng từ nay đến năm 2010. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Sóc Trăng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRỊNH THỊ NHÀN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH SÓC TRĂNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn: TS. Ngô Văn Lương Hà nội - 2005
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3 Chƣơng 1 KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY................................................................... 8 1.1. Sự tồn tại khách quan của kinh tế tƣ nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ................................................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân ............................................................... 8 1.1.2. Sự cần thiết khách quan của việc phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta ................................................................................. 11 1.1.3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân ................... 18 1.1.4. Các loại hình kinh tế tư nhân........................................................ 21 1.2. Vai trò của kinh tế tƣ nhân đối với sự phát triển kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng .................................................................................... 24 1.3. Kinh nghiệm thực tiễn phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng ....................................................................................... 29 1.3.1. Kinh nghiệm phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên thế giới ....... 29 1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của một số tỉnh ở Việt Nam . 33 Chƣơng 2 ..................................................................................................... 37 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở TỈNH SÓC TRĂNG TỪ NĂM 1992 ĐẾN NAY .......................................................................... 37 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và quá trình hình thành, phát triển kinh tế tƣ nhân ở tỉnh Sóc Trăng ............................................................... 37 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ........................................................................ 37 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội .............................................................. 39 2.1.3. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Sóc Trăng .. 41 2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tƣ nhân ở tỉnh Sóc Trăng từ năm 1992 đến nay ............................................................................................................ 44 1
  3. 2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân ............................................................. 44 2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân .............................................................. 76 Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở TỈNH SÓC TRĂNG TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010 ......................... 85 3.1. Mục tiêu và phƣơng hƣớng ................................................................. 85 3.1.1. Về cơ cấu...................................................................................... 86 3.1.2. Về quy mô phát triển .................................................................... 89 3.1.3.Về tốc độ phát triển ....................................................................... 89 3.2. Một số giải pháp thúc đẩy kinh tế tƣ nhân ở sóc trăng ........................ 90 3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô................................................................... 90 3.2.2. Nhóm giải pháp vi mô................................................................... 97 3.2.3. Các giải pháp khác ..................................................................... 109 KẾT LUẬN ................................................................................................ 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 121 2
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là một chủ trương có tính quy luật, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Trong nền kinh tế nhiều thành phần đó, kinh tế tư nhân (KTTN) là một bộ phận quan trọng cấu thành mô hình ấy và có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nền kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hoá. Do đó, chúng ta phải thay đổi cơ cấu kinh tế cũ, phát triển nền kinh tế hàng hoá có cơ cấu nhiều thành phần, sử dụng đầy đủ các nguồn lực bên trong kết hợp với các nguồn lực bên ngoài tạo nên sức mạnh tổng hợp, để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững. Kể từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến nay, khu vực KTTN đã được phục hồi và phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, góp phần khai thác tiềm năng và đưa nền sản xuất phát triển, bộ mặt kinh tế đất nước có nhiều biến đổi. KTTN không chỉ tạo ra khối lượng hàng hoá phục vụ nhu cầu trong nước mà còn tạo ra những mặt hàng xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế mở, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. KTTN còn góp phần nâng cao thu nhập của dân cư, làm tăng nguồn thu ngân sách cho nhà nước và huy động khá lớn nguồn vốn của hàng triệu hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kinh tế tư nhân có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế của quốc gia. Tuy nhiên, thành phần kinh tế này ở Sóc Trăng vẫn chưa được quan 1
  5. tâm đúng mức, vẫn còn những tư tưởng định kiến với KTTN. Sóc Trăng là một tỉnh nghèo với số đông đồng bào dân tộc Khơ - Me, nên rất cần những giải pháp hữu hiệu để khu vực này phát huy tiềm năng của mình, nhằm góp phần đưa nền kinh tế quốc gia ngày càng phát triển. Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Sóc Trăng” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề phát triển KTTN trong công cuộc đổi mới ở nước ta đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đã có các bài viết được đăng trên một số báo và tạp chí như: Tiến sĩ Hà Huy Thành, “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân lý luận và chính sách”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Trần Ngọc Bút, “Phát triển KTTN định hướng xã hội chủ nghĩa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. GS. TS. Nguyễn Thanh Tuyền, “Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Kỷ yếu khoa học, đề tài cấp bộ 2000 - 2001, “KTTN và quản lý Nhà nước đối với KTTN ở nước ta hiện nay”. Phan Sĩ Mậu, “Kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 256 tháng 9/1999. Tiến sĩ Nguyễn Huy Oánh, “Vai trò của KTTN trong nền kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 12/2001. 2
  6. Các công trình trên, tập trung nghiên cứu những vấn đề chung của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hoặc đi vào nghiên cứu một vài lĩnh vực. Riêng ở Tỉnh Sóc Trăng chưa có công trình nào trình bày hệ thống nội dung này. Kế thừa những thành tựu đã được nghiên cứu của các tác giả trên, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu những căn cứ lý luận và thực tiễn, khảo sát làm rõ thực trạng tình hình KTTN ở Sóc Trăng. Từ đó, nêu ra các giải pháp nhằm thúc đẩy KTTN ở Sóc Trăng phát triển. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích Thông qua việc tìm hiểu căn cứ lý luận và thực tiễn về phát triển KTTN, luận văn sẽ phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KTTN ở Sóc Trăng từ năm 1992 đến nay. Từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp phát triển khu vực kinh tế này ở Sóc Trăng từ nay đến năm 2010. * Nhiệm vụ - Làm rõ cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn phát triển KTTN của một số nước trên thế giới và ở Việt Nam. - Đánh giá thực trạng phát triển KTTN của Tỉnh Sóc Trăng từ năm 1992 đến nay. - Đề xuất một số phương hướng và các giải pháp, nhằm phát huy vai trò to lớn của KTTN ở tỉnh Sóc Trăng từ nay đến năm 2010. 4. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu sự phát triển của KTTN ở tỉnh Sóc Trăng từ khi tái lập tỉnh (năm 1992) đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
  7. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: Khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh… 4
  8. 6. Đóng góp của luận văn * Về lý luận Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự phát triển KTTN ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Sóc Trăng nói riêng. * Về thực tiễn - Góp phần đề xuất các phương hướng, giải pháp cho sự phát triển KTTN của tỉnh Sóc Trăng từ nay đến năm 2010. - Bổ sung kiến thức cho giảng dạy kinh tế chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3 chương: Chƣơng 1: Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Chƣơng 2: Thực trạng phát triển KTTN ở tỉnh Sóc Trăng từ năm 1992 đến nay. Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp phát triển KTTN ở Sóc Trăng từ nay đến năm 2010. 5
  9. Chƣơng 1 KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY 1.1. Sự tồn tại khách quan của kinh tế tƣ nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần 1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân Kinh tế tư nhân là loại hình kinh tế tồn tại ở nước ta từ lâu. Nó gắn liền với sự tồn tại của lực lượng sản xuất khi còn là thủ công, lạc hậu, phân tán. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, KTTN có những bước thăng trầm của nó. Bước thăng trầm đó không phải do bản chất của KTTN mà do nhận thức của con người về KTTN. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đến nay, KTTN được sử dụng phổ biến ở nước ta. Trên thực tế, loại hình này hoạt động khá mạnh mẽ. Nhưng đến nay, việc xác định nội hàm của KTTN chưa được toàn diện và đầy đủ. Hiện nay, còn nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này, sau đây là một vài quan niệm: Quan niệm thứ nhất cho rằng: KTTN là hình thức kinh tế mà toàn bộ hay đại bộ phận tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tư nhân và có thuê mướn lao động, chủ sở hữu tư liệu sản xuất chiếm đoạt giá trị thặng dư do cô ng nhân lao động tạo ra [46]. Về hình thức tổ chức kinh doanh, KTTN bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (do công nhân nắm tỷ lệ cổ phiếu khống chế). Quan niệm KTTN như vậy không bao gồm các cơ sở kinh tế cá thể và đồng nhất KTTN với tư bản tư nhân. Quan niệm thứ hai cho rằng: “KTTN bao gồm các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một hoặc một số tư nhân góp lại, huy động cổ phần (do một hoặc một nhóm tư nhân nắm cổ phần chi phối), thuê lao động sản xuất kinh doanh” [46]. Quan niệm này không phân biệt kinh tế cá thể, tiểu chủ với kinh tế tư bản tư nhân. 6
  10. Quan niệm thứ ba cho rằng: KTTN bao gồm tất cả các cơ sở kinh tế ngoài kinh tế nhà nước (kể cả hợp tác xã và kinh tế gia đình). Loại ý kiến này thống nhất KTTN với khu vực kinh tế dân doanh [51]. Trên đây là những quan niệm khác nhau về KTTN. Chính vì còn nhiều quan niệm khác nhau về KTTN như vậy, cho nên tôi tán đồng với quan niệm có tính phổ biến của các nhà kinh tế hiện nay như sau: Khái niệm: Kinh tế tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và tương ứng với cách quản lý, phân phối phù hợp với hình thức sở hữu đó. - Xét về quan hệ sở hữu: Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của các nhà sản xuất, kinh doanh tư nhân đối với tư liệu sản xuất, tiền vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Với hai mức độ: + Sở hữu tư nhân nhỏ hay còn gọi là sở hữu tư nhân cá thể, là hình thức sở hữu của những người sản xuất nhỏ, bao gồm cả những người sản xuất hàng hoá nhỏ và những người sản xuất tự túc, tự cấp. + Sở hữu tư nhân lớn là hình thức sở hữu tư nhân làm cơ sở cho việc hình thành các doanh nghiệp tư nhân, công ty tư nhân và các doanh nghiệp đan xen các hình thức sở hữu hỗn hợp. - Xét về quan hệ quản lý: Xuất phát từ quan hệ sở hữu của kinh tế tư nhân, quan hệ quản lý của khu vực kinh tế này gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn. Quan hệ sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dựa trên sự tự tổ chức, điều hành, phân công công việc nội bộ gia đình, giữa các thành viên gia đình với nhau. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý và khách thể quản lý, giữa người quản lý với người bị quản lý. - Xét về quan hệ phân phối: Trong KTTN, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu tư nhân khác nhau. Đối với các cơ sở sản xuất kinh 7
  11. doanh mà người sở hữu đồng thời là người trực tiếp lao động, không thuê mướn nhân công, thì phân phối kết quả sản xuất là tự phân phối theo nội bộ chủ thể kinh tế đó. Còn đối với các cơ sở kinh doanh lớn, chủ sở hữu tư liệu sản xuất (hay vốn) sử dụng lao động làm thuê thì phân phối kết quả sản xuất căn cứ vào sở hữu giá trị, tức là giá trị sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản. Tất nhiên, trong các chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì quan hệ phân phối cũng có sự khác biệt nhất định [28, tr.7 - 8]. Những vấn đề vừa nêu là những quan niệm khác nhau về KTTN. Mặc dù việc nhìn nhận KTTN còn nhiều điểm chưa đồng nhất, nhưng nhìn chung tất cả đều thừa nhận KTTN dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, với động lực chủ yếu là lợi ích cá nhân và mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Cho nên, trong bản thân nó đã hàm chứa những ưu thế và khuyết tật nhất định. Vấn đề đặt ra là cần phải hiểu rõ mặt tích cực và mặt tiêu cực của nó để có biện pháp, chính sách và tạo môi trường phù hợp nhằm phát huy những ưu thế và khắc phục những khuyết tật, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. * Ưu thế của KTTN: Mục tiêu hoạt động thường rõ ràng, đơn giản, gắn với đáp ứng nhu cầu sản xuất, nhu cầu tiêu dùng, khác với doanh nghiệp nhà nước thường chịu sự chi phối của một hệ thống mục tiêu không rõ ràng, có khi các mục tiêu mâu thuẫn với nhau. Nguồn gốc vốn đầu tư sản xuất kinh doanh từ tiền túi của họ nên phải tính đến hiệu quả trong kinh doanh và khả năng bảo toàn vốn. Quy mô, hình thức và loại hình sản xuất kinh doanh rất đa dạng, đáp ứng nhu cầu thị trường. Có thể nói thị trường cần gì, thì KTTN có thể đáp ứng kịp thời, cả về thời gian và chất lượng. Tổ chức bộ máy quản lý cũng như bộ máy sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, linh hoạt. Hình thức kinh doanh và khả năng thu hút vốn, tuyển dụng lao động đa dạng, phong phú. * Hạn chế của KTTN: 8
  12. Kinh tế tư nhân gắn với lợi ích và động lực cá nhân, nếu Nhà nước quản lý không tốt dễ chạy theo lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân mà quên đi lợi ích lâu dài và lợi ích cộng đồng. Vì mục tiêu lợi nhuận cao, nên KTTN dễ dàng bỏ qua những lĩnh vực không có lợi ích trước mắt cho họ nhưng rất cần cho xã hội. Đồng thời trong cạnh tranh, KTTN mang nặng tính triệt tiêu lẫn nhau. Quy mô hoạt động của KTTN thường nhỏ, phân tán nên khả năng cạnh tranh, đặc biệt cạnh tranh trên trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Từ những vấn đề phân tích ta thấy việc phân định từng thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là rất cần thiết, nhằm tạo điều kiện cho Nhà nước thực hiện sự quản lý chỗt chẽ đối với từng thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Sự cần thiết khách quan của việc phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta Bất kỳ một sự vật hay hiện tượng nào ra đời, vận động và phát triển cũng đều dựa trên cơ sở nhất định. KTTN ở nước ta tồn tại và phát triển từ lâu, nó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của lực lượng sản xuất. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, khu vực KTTN hoạt động nhỏ lẻ, rời rạc do chính sách cải tạo XHCN của ta. Trong cải tạo XHCN, cách nhìn nhận đối xử của Nhà nước đối với khu vực kinh tế này phần nào thể hiện sự thiếu bình đẳng, thậm chí có khoảng thời gian muốn xoá bỏ, triệt tiêu loại kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân và chỉ duy trì trong nền kinh tế quốc dân chỉ có hai thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Suốt thời gian dài, KTTN tồn tại trong tình trạng chịu những phân biệt đối xử theo hướng triệt tiêu. Đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với quan điểm đổi mới, Đảng đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Từ đây, đưa nền kinh tế bước vào giai đoạn mới, giai đoạn thừa nhận khu vực KTTN là khu vực kinh tế hợp pháp. Như vậy, KTTN được chính thức tham gia vào sự nghiệp phát triển KT - XH của đất nước. 9
  13. Từ khi được thừa nhận đến nay, khu vực KTTN có mặt ở khắp các vùng, địa phương và phát triển với tốc độ nhanh chóng, góp phần khẳng định đường lối phát triển kinh tế nước ta theo kinh tế thị trường định hướng XHCN là đúng đắn, không chỉ thế mà KTTN còn góp phần chứng minh sức sống của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Sự tồn tại, vận động và phát triển của KTTN ở nước ta vừa qua đã xác định tính tất yếu tồn tại của khu vực này. Tính tất yếu tồn tại đó dựa trên những cơ sở sau: - Do yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH là phải phát triển lực lượng sản xuất. Do vậy, khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền và bước vào xây dựng xã hội mới thì một đòi hỏi cấp bách và khách quan là từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chế độ mới, chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất, với hai hình thức sở hữu nhà nước XHCN và sở hữu tập thể, tương ứng có các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Để thực hiện điều đó không chỉ có thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể mà phải huy động tiềm lực trong xã hội. Do vậy, cần phải có sự tham gia của thành phần KTTN. - Xã hội cũ để lại một số thành phần kinh tế chưa thể cải tạo ngay được, do qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất qui định. Từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác luôn có sự đan xen các quan hệ sản xuất khác nhau. Theo Lênin, khoảng giao thoa giữa cái mới và cái cũ gọi là thời kỳ quá độ. Trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”, Lênin viết: “Danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của CNTB và CNXH không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” [31, tr.248]. Xét riêng trong lĩnh vực kinh tế, Lênin nói: Như vậy trong thời kỳ quá độ, phương thức sản xuất mới không chỉ có “những mảnh”, “những bộ phận mới” mà vẫn còn tồn tại “những mảnh”, “những bộ phận cũ” trong một phương 10
  14. thức sản xuất. Đặc trưng cơ bản nhất trong thời kỳ quá độ là còn tồn tại những thành phần kinh tế có cả thành phần kinh tế của CNXH lẫn những thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ để lại. Lênin đã chỉ ra tất cả các nước đi lên CNXH đều có 3 thành phần kinh tế cơ bản là: Kinh tế XHCN Kinh tế TBCN Kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Vận dụng vào những điều kiện cụ thể, các thành phần kinh tế này ít nhiều có sự thay đổi ở các quốc gia khác nhau.Ví dụ ở Nga trong thời kỳ quá độ lên CNXH gồm các thành phần kinh tế sau: 1/ kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là phần lớn có tính tự nhiên. 2/ Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì) 3/ Chủ nghĩa tư bản tư nhân. 4/ Chủ nghĩa tư bản nhà nước. 5/ Chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế khác nhau của kết cấu kinh tế nói trên xen kẽ với nhau [31, tr.248], như vậy nếu không kể về số lượng từng thành phần kinh tế thì trong kết cấu kinh tế đó tồn tại hai mảnh kinh tế: Một là: Của CNXH vừa mới xây dựng (Dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất). Hai là: Của phương thức cũ còn tồn tại (Dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất). Các Ông thừa nhận còn sở hữu tư nhân trong nền kinh tế, điều đó tất yếu thừa nhận thành phần KTTN trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Về lâu dài, để xây dựng CNXH, nhiệm vụ của mỗi chúng ta là từng bước xoá bỏ thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vì đây là nguyên nhân là tiền đề hình thành mối quan hệ người bóc lột người, là nguyên nhân dẫn đến sự bất công, kẻ giàu người nghèo trong xã hội. 11
  15. Nhưng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xoá bỏ thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chúng ta phải thấy rằng: Bất kỳ thành phần kinh tế nào cũng dựa trên một chế độ sở hữu nhất định, sở hữu tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, sở hữu tư liệu sản xuất vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Mỗi loại hình sở hữu chưa thể mất đi khi chúng còn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chúng ta cũng không thể tuỳ tiện dựng lên một quan hệ sản xuất mới khi lực lượng sản xuất không yêu cầu. Đặc trưng của CNCS là xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản, chứ không xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, xoá bỏ “tính chất bi thảm của cái phương thức chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi”, “CNCS không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm của xã hội cả. CNCS chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác” [34, tr.617-618] có nghĩa chỉ xoá bỏ thành phần kinh tế tồn tại dựa vào sự bóc lột, chứ không xoá bỏ thành phần KTTN nói chung. Những bộ phận trong kết cấu kinh tế của xã hội cũ còn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tiền đề để phát triển lượng sản xuất, cũng là điều kiện để từ đó cải biến chế độ tư hữu. Các Mác và Ăng Ghen đã nói “vì không có nó tất cả chỉ là một sự nghèo nàn đã trở thành phổ biến, mà thiếu thốn thì cũng bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào sự ti tiện trước đây” [35, tr.58] vì vậy không thể thủ tiêu ngay lập tức chế độ tư hữu, hay nói khác là không thể xoá bỏ ngay thành phần KTTN và làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức, đủ để xây dựng nền kinh tế dựa trên hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể được, mà phải từng bước cải tạo dần KTTN, sử dụng KTTN sẽ tạo điều kiện vật chất cần thiết cho việc xoá bỏ hoàn toàn nguồn gốc sinh ra chế độ người bóc lột người. 12
  16. Tất cả những điều đó, nói lên trong thời kỳ quá độ tất yếu còn tồn tại loại hình KTTN và là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế quá độ, là nền kinh tế không thuần nhất chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà là nền kinh tế nhiều thành phần hình thành trên cơ sở chế độ đa sở hữu. Vận dụng tư tưởng của các nhà kinh điển vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta phân tích chính xác điều kiện cụ thể của đất nước. Người đã nhiều lần nhấn mạnh việc áp dụng kinh nghiệm của nước ngoài là rất cần thiết “nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có đặc điểm riêng” [39, tr.499]. Người chỉ ra đặc điểm cụ thể của nước ta “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [42, tr.13]. Trên nguyên lý chung về các thành phần kinh tế, Người cho rằng trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nước ta có các hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như: + Sở hữu nhà nước (của toàn dân) nếu nhà nước là người sở hữu ruộng đất thì ruộng đất không có sở hữu tư nhân, nhưng tư nhân có quyền chiếm hữu thực tế về ruộng đất đó (quyền sử dụng). + Sở hữu tập thể. + Sở hữu của những người lao động riêng lẻ. + Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà tư sản [41, tr.588]. Như vậy, ngoài sở hữu nhà nước ra, Hồ Chí Minh còn đề cập đến các loại hình sở hữu khác. Đây thực chất là hình thức sử dụng sức mạnh tổng hợp trong kinh tế của Người. Khi đề cập đến các thành phần kinh tế, Người cho rằng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta có năm thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH nó là của chung của nhân dân). Kinh tế HTX (nó là 1/2 CNXH và sẽ tiến tới CNXH). 13
  17. Kinh tế cá nhân của nông dân (có thể tiến dần lên CNXH). Kinh tế tư nhân. Kinh tế tư bản nhà nước. Trong các loại ấy, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo và phát triển mau hơn cả. Vì vậy kinh tế của ta phát triển theo hướng XHCN chứ không theo TBCN [39, tr. 247-248]. Vấn đề cải tạo XHCN đối với quan hệ sản xuất đã được Hồ Chí Minh vận dụng sát với điều kiện nước ta từ sản xuất nhỏ đi lên. Người quán triệt quan điểm “dần dần”, “vững chắc”, “đúng qui luật”. Theo Người, cách mạng XHCN là cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. “Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xoá bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có áp bức, bóc lột. Muốn thế phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Chúng ta phải dần dần tập thể hoá nông nghiệp, chúng ta phải tiến hành cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản tư nhân” [40, tr.493- 494]. Vận dụng tư tưởng của Lênin; Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn hịên nay, Đảng ta khẳng định: sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là một tất yếu. - Vì Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phân tán, nhỏ bé, song hành với đặc điểm đó thì không thể có sự phát triển đồng đều của lực lượng sản xuất giữa các vùng, các ngành và trong nội bộ từng vùng. Nhưng nhiệm vụ đặt ra là phải xây dựng một xã hội mới dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển. Đặc điểm và nhiệm vụ cơ bản trên quy định tất yếu nước ta phải tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ, trong đó có KTTN, kinh tế cá thể tiểu chủ của nông dân, thợ thủ công, của những người làm dịch vụ, buôn bán nhỏ và kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp của một bộ phận dân cư ở vùng núi cao. - Mặt khác, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiềm lực và khả năng của các thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể chưa đủ mạnh để 14
  18. có thể bảo đảm được việc đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trong khi đó các thành phần KTTN, cá thể, tiểu chủ vẫn còn có vai trò, khả năng phát triển. Sự có mặt của chúng là cần thiết góp phần giải quyết công ăn việc làm, huy động, khai thác các tiềm lực dồi dào về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý... thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển. Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, nhất là sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Sau gần năm năm, cả nước có gần 108.300 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký lên 150.000, tăng gấp hai lần so với 9 năm trước đây (1991 - 1999); tổng số vốn đăng ký đạt 302.250 tỷ đồng (tương đương 18 tỷ USD), cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ. Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của KTTN là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm. Riêng số doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 96% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà nước) đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 - 26% lực lượng lao động cả nước. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp đã sử dụng 16% lực lượng lao động xã hội (khoảng 6 triệu người). Năm 2005, khu vực KTTN đóng góp 37,7% GDP cả nước [2, tr.70 -71]. Ngoài ra nước ta còn huy động khá lớn nguồn FDI và ODA từ nước ngoài, năm 2004 vốn FDI đạt 4,2 tỷ USD tăng 35% so với năm 2003, cam kết ODA đạt 3,4 tỷ USD, lượng kiều hối đổ về gần 4 tỷ USD. Tính đến hết tháng 2/2005 cả nước có 5.100 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký trên 46,8 tỷ USD, đã thực hiện được khoảng 26,26 tỷ USD. Đối với nguồn vốn ODA: từ năm 1993 đến năm 2004, tổng số vốn các nước và tổ chức tài chính quốc tế cam kết dành cho nước ta lên gần 29 tỷ USD, trong số này có khoảng 20 tỷ USD được hợp thức hoá, chính thức hoá bằng các hiệp định quốc tế, đã giải ngân 14 tỷ USD. Số đã giải ngân góp phần vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng - kỹ thuật và xã hội 15
  19. Đối với nguồn ngoại tệ của kiều bào: năm 1991 lượng kiều hối đạt 31 triệu USD, năm 1995 đạt 284,96 triệu USD, năm 1999 đạt 1.200 triệu USD, năm 2000 đạt 1.757 triệu USD, năm 2003 đạt 2.580 triệu USD, năm 2004 đạt 3 tỷ USD. (Ngoại tệ năm 2004 gấp 5 lần tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm năm 2001 - 2005 của tỉnh Sóc Trăng. Tổng đầu tư giai đoạn 2001 - 2005 đạt trên 9.000 tỷ đồng), dự báo năm 2010 đạt 5 tỷ USD. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đóng góp cao vào GDP hàng năm, năm 2001 đạt 13,11%, năm 2002 đạt 14%. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hàng năm đóng góp cho ngân sách khá lớn. Trong năm năm 1995 - 2000 đóng góp 1,45 tỷ USD chiếm tỷ lệ 6 đến 7% nguồn thu ngân sách nhà nước, năm 2002 đạt 420 triệu USD, tăng 28,2% so với năm 2001 (chưa kể nguồn thu từ dầu khí) [4, tr.56-57]. 1.1.3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả. Từ đó, đời sống vật chất và tinh thần nhân dân ngày càng khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, nền kinh tế mất cân đối, thu không đủ chi, hoạt động sản xuất kinh doanh ở các xí nghiệp thua lỗ kéo dài, hàng hoá khan hiếm kể cả những mặt hàng thiết yếu như lương thực thực phẩm, cũng phải nhập khẩu từ bên ngoài. Đứng trước thực tế đó đã đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta hai con đường: Một là: Tăng cường hơn nữa vai trò điều tiết từ một trung tâm bằng mệnh lệnh hành chính tác động vào hoạt động sản xuất nhằm vực dậy nền kinh tế. Hai là: Thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ, thừa nhận thị trường, thông qua hoạt động của thị trường kết hợp vai trò, chức năng nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Qua đó Đảng ta nhận thức, xem xét và đi đến phải thay đổi cơ chế quản lý kinh tế. Chúng ta không thể cùng một lúc thay đổi tất cả mọi thứ để có CNXH mà phải thực hiện từng bước. Khởi điểm đổi mới bắt đầu trong lĩnh 16
  20. vực kinh tế. Nghị quyết Trung ương 6 khoá IV đã đưa ra những quyết định quan trọng tạo sự chuyển hướng chiến lược, thực sự mở màn thực hiện cuộc cách mạng trong quan hệ sản xuất. Nghị quyết thừa nhận miền Bắc còn 3 thành phần kinh tế, miền Nam có 5 thành phần kinh tế, trong đó có các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân, nhưng chỉ cho thành phần kinh tế tư bản thuê từ 5 đến 10 công nhân. Mặc dù còn những giới hạn, nhưng từ đây đã đánh dấu bước ngoặt chuyển sang cơ chế mới. Cuộc cách mạng quan hệ sản xuất này đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân, tiếp sau đó hàng loạt những thay đổi diễn ra: + Trong lĩnh vực nông nghiệp, có chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp. + Trong lĩnh vực công nghiệp có Nghị quyết 25 của Chính phủ cho phép xí nghiệp làm kế hoạch 3 phần. Nghị quyết 306 về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh. Kể từ sau Nghị quyết Trung ương 6 khoá IV, nước ta tồn tại hai cơ chế song trùng. Một mặt cơ chế tập trung bao cấp vẫn còn tồn tại. Mặt khác, quan hệ hàng hoá tiền tệ hoạt động đã tác động đến lợi ích cá nhân, lợi ích của người lao động. Trong thời khắc giao thoa này không tránh khỏi sự hoà quyện, đan xen giữa cái cũ và cái mới, cái tiên tiến và cái lạc hậu. Con đường mới vừa hé mở có nhiều tác động tích cực trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên cũng không ít quan niệm còn hoài nghi, lo lắng về con đường đi lên CNXH. Bản chất của CNXH là không còn người bóc lột người, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng với cơ chế mới chấp nhận KTTN, có nghĩa chấp nhận bóc lột. Như vậy nước ta có tiến lên CNXH được không? Tất cả những vấn đề đặt ra đòi hỏi chúng ta nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách toàn diện hơn, phải đặt sự vật, hiện tượng trong từng mối quan hệ để xét bản chất của nó, không nên lấy hiện tượng ở mối quan hệ này suy ra bản chất của hiện tượng trong mối quan hệ khác, hay nói khác quan hệ hàng hoá 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
20=>2