intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học thông qua đổi mới nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên cứu bài học ở trường THPT Nguyễn Duy Trinh

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:63

15
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này được nghiên cứu với mục đích nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn trong các nhà trường. Đây là hoạt động cốt lõi để nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật trong từng đơn vị tổ, góp phần tạo nên sức mạnh chung của toàn trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học thông qua đổi mới nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên cứu bài học ở trường THPT Nguyễn Duy Trinh

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI PPDH THÔNG QUA ĐỔI MỚI NỘI DUNG SINH HOẠT TỔ CHUYÊN MÔN THEO NGHIÊN CỨU BÀI HỌC Ở TRƯỜNG THPT NGUYỄN DUY TRINH Lĩnh vực: Quản lý 1
  2. TT MỤC LỤC Trang Danh mục các từ viết tắt 2 Phần I. Đặt vấn đề 5 Phần II. Nội dung nghiên cứu 5 I Cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyên đề “Đổi mới nội dung 5 sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học”. II Thực trạng sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT nói chung và 7 Trường THPT Nguyễn Duy Trinh nói riêng III Đánh giá thực trạng về đổi mới phương pháp dạy học thông 14 qua việc dạy theo NCBH ở trường THPT Nguyễn Duy Trinh IV Giải pháp tổ chức thực hiện Đổi mới nội dung sinh hoạt chuyên 15 môn theo nghiên cứu bài học tại Trường THPT Nguyễn Duy Trinh. 1 Nội dung sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học - Cơ 15 sở để đề xuất giải pháp thực hiện. 1.1 Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học. 15 1.2 Mục đích và ý nghĩa của sinh hoạt chuyên môn theo nghiên 15 cứu bài học 1.3 Quy trình thực hiện đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên 16 cứu bài học 2 Giải pháp tổ chức thực hiện Đổi mới nội dung sinh hoạt chuyên 28 môn theo nghiên cứu bài học tại Trường THPT Nguyễn Duy Trinh 2.1 Giải pháp thứ nhất 29 2.2 Giải pháp thứ hai 30 2.3 Giải pháp thứ ba 31 2.4 Giải pháp thứ tư 34 2.5 Giải pháp thứ năm 35 2
  3. 2.6 Giải pháp thứ sáu 36 2.7 Giải pháp thứ bảy 37 3 Bài học kinh nghiệm 42 4 Những kết quả thu được 46 Phần III: Kết luận và kiến nghị 48 Tài liệu tham khảo 51 Các phụ lục 52 3
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. Trung học phổ thông: THPT 2. Sinh hoạt chuyên môn: SHCM 3. Nghiên cứu bài học: NCBH 4. Giáo viên: GV 5. Học sinh: HS 6. Phương pháp dạy học: PPDH 7. Ban Giám Hiệu: BGH 8. Sáng kiến kinh nghiệm: SKKN 9. Ban chấp hành trung ương: BCH TƯ 10.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: CNH-HĐH 11. Xã hội chủ nghĩa: XHCN 4
  5. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Sinh hoạt chuyên môn (SHCM) theo nghiên cứu bài học (NCBH) là một nội dung quan trọng trong SHCM ở trường phổ thông trong những năm học gần đây. Mục tiêu hướng tới của SHCM theo NCBH thể hiện sự thay đổi căn bản trong đổi mới dạy học.Tất cả các khâu soạn bài, lên lớp, dự giờ, đánh giá tiết dạy… đều có sự thay đổi về quy trình, nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức. Sự thay đổi cơ bản nhất là: thay vì nghiên cứu phân tích và đánh giá hoạt động dạy của giáo viên, SHCM theo NCBH tập trung nghiên cứu phân tích hoạt động của học sinh. Từ đó giáo viên điều chỉnh thay đổi nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh theo định hướng phát triển năng lực người học. SHCM theo NCBH vì thế sẽ phát huy hiệu quả tích cực, tạo môi trường tốt để giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ nhất là việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Chính từ sự thay đổi căn bản trên mà khi chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, BGH trường THPT Nguyễn Duy Trinh đã đề xuất những giải pháp hiệu quả thông qua đổi mới nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn theo NCBH. Từ trước tới nay, khi đề cập đến đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), chúng ta thường chỉ quan tâm tới tiến trình, nội dung và đối tượng dạy học. Tuy nhiên, có một hoạt động nếu không có sự đổi mới kịp thời thì sẽ làm cho xu thế đổi mới PPDH không đạt kết quả như mong muốn, đó là đổi mới sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học. Xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo chuyên môn, từ năm học 2013-2014 cho đến nay Trường THPT Nguyễn Duy Trinh đã nghiêm túc triển khai thực hiện và đã thu được những chuyển biến tích cực trong sinh hoạt chuyên môn. NCBH giúp giáo viên cùng nhau thảo luận về những phản ứng có thể có ở học sinh trong quá trình học để có những phương pháp dạy học cho phù hợp. Xin được trao đổi những kinh nghiệm trong “ chỉ đạo đổi mới PPDH thông qua đổi mới nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên cứu bài học.” PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyên đề “Đổi mới nội dung SHCM theo NCBH”. 5
  6. Thuật ngữ “nghiên cứu bài học” (NCBH) có nguồn gốc trong lịch sử giáo dục Nhật Bản, như một biện pháp để nâng cao năng lực nghề nghiệp của giáo viên thông qua nghiên cứu cải tiến các hoạt động dạy học các bài học cụ thể, qua đó cải tiến chất lượng học của học sinh. Cho đến nay NCBH được xem như một mô hình và cách tiếp cận nghề nghiệp của giáo viên và vẫn được sử dụng rộng rãi tại các trường học ở Nhật Bản, hình thức này đã được áp dụng trên nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, phương pháp này đã được áp dụng đại trà ở tất cả các bậc học, cấp học và đã đem lại nhiều kết quả khả quan và đã chứng minh được tính khả thi của nó trong việc bồi dưỡng và phát triển năng lực chuyên môn của giáo viên so với các phương pháp truyền thống khác. Phương pháp sinh hoạt chuyên môn dựa trên hướng nghiên cứu bài học cũng là hoạt động sinh hoạt chuyên môn nhưng ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến người học như: Học sinh học như thế nào? Học sinh đang gặp khó khăn gì trong học tập? Nội dung và phương pháp dạy học có phù hợp, có gây hứng thú cho học sinh không, kết quả học tập của học sinh có được cải thiện không? Có cần điều chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào? Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học không tập trung vào việc đánh giá giờ học, xếp loại giáo viên mà khuyến khích giáo viên tìm ra nguyên nhân tại sao học sinh chưa đạt kết quả như mong muốn và có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập, giúp giáo viên có khả năng chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh Chính bởi những lí do như vậy, phương pháp này đảm bảo cho tất cả mọi học sinh có cơ hội tham gia học tập, giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, nâng cao chất lượng giảng dạy, thay đổi văn hóa ứng xử trong trường học , tạo môi trường thân thiện cho tất cả mọi người. Tiết học dự giờ sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học khác với giờ học truyền thống là người dự không ngồi sau mà ngồi hai bên cánh lớp học, người dự không chú ý vào giáo viên mà chú ý tìm hiểu học sinh xem các em có thực sự tiếp thu bài học hay đang có vấn đề gì để tìm cách giúp đỡ. Lớp học có bố trí camera ở các vị trí thích hợp, giáo viên đi dự có thể mang kèm theo máy ảnh để ghi lại chân thực nhất những hình ảnh, cảm xúc của các em khi tiếp thu bài học. 6
  7. SHCM theo NCBH là một quá trình các GV tham gia vào các khâu từ chuẩn bị, thiết kế bài học sáng tạo, dạy minh họa, dự giờ, suy ngẫm và chia sẻ các ý kiến sâu sắc về những gì đã diễn ra trong việc học của HS. Đây là hoạt động học tập lẫn nhau, học tập trong thực tế, là nơi thử nghiệm và trải nghiệm những cái mới, là nơi kết nối lý thuyết với thực hành. Trong quá trình học tập đó GV sẽ học được nhiều điều để phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ mới. Khác với SHCM truyền thống, người dự không còn phê phán hay chỉ trích những hạn chế của người dạy. Họ không còn để ý về năng lực giữa các GV nữa mà đều tập trung vào việc đánh giá HS. GV sẽ thoải mái hơn khi trao đổi và chia sẻ ý kiến. Từ đó học dễ dàng chấp nhận lẫn nhau và chỉ quan tâm đến những khó khăn của người GV trước sự thay đổi phức tạp trong học tập của HS. NCBH thúc đẩy, duy trì sự hợp tác giữa các giáo viên, giúp các giáo viên phát triển kĩ năng làm việc nhóm, góp phần phát triển không khí hợp tác, đoàn kết trong nhà trường. NCBH tạo ra cộng đồng học tập, văn hóa học tập và củng cố tình đồng nghiệp trong nhà trường. Tham gia vào NCBH giáo viên thực hiện vai trò của người nghiên cứu, cải tạo thực tiễn và họ trở nên vững vàng hơn về chuyên môn, nghiệp vụ, tăng sự chuyên nghiệp của giáo viên và giúp giáo viên tự tin hơn trong việc giải quyết vấn đề của thực tiễn để nâng cao chất lượng dạy học của mình.. Nghiên cứu bài học tạo cơ hội cho giáo viên có thể quan tâm tới tất cả các học sinh trong lớp, tạo cơ hội phát triển cho mọi học sinh. Và dẫn tới hệ quả tất yếu là nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Ngoài ra NCBH còn là cái cầu kết nối các nội dung kiến thức, giữa các bộ môn để thu được sự hỗ trợ bổ sung tốt nhất giữa các bộ môn góp phần đào tạo toàn diện cho học sinh, giữa các cấp học để thu được chương trình đào tạo mạch lạc, thông suốt. Qua việc NCBH chúng ta có thể nhận ra tính ưu việt của NCBH so với các hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ khác. NCBH xuất phát từ thực tiễn cần giải quyết những khó khăn thực tiễn trong lớp học của giáo viên. Thông qua NCBH giáo viên được hợp tác cùng nhau, làm việc cùng nhau để xây dựng một kế hoạch bài học hoàn chỉnh. II. Thực trạng sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT nói chung và Trường THPT Nguyễn Duy Trinh nói riêng Sinh hoạt chuyên môn ở các trường phổ thông đã được tổ chức thực hiện và duy trì khá thường xuyên. Sinh hoạt chuyên môn không chỉ giúp mỗi giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn cho bản thân mà SHCM còn là môi trường để tình đồng nghiệp nảy nở và phát triển giữa tất cả giáo viên, giúp họ hỗ trợ lẫn 7
  8. nhau trong công tác; hình thành môi trường học tập tốt đẹp cũng như truyền thống, bản sắc văn hóa riêng của mỗi nhà trường Sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT nói chung cũng như ở trường THPT Nguyễn Duy Trinh thường diễn ra theo hai hình thức: +Tổ chức sinh hoạt theo các chuyên đề + Dự giờ, trao đổi kinh nghiệm về bài học. Ở SKKN này chúng tôi chỉ đề cập đến hoạt động dự giờ trao đổi kinh nghiệm bài học. Đây là hoạt động chuyên môn thường xuyên trong nhà trường. Trong mỗi buổi dự giờ có sự tham gia của BGH, tổ trưởng, nhóm trưởng và hầu hết giáo viên trong tổ, nhóm chuyên môn. Sau dự giờ các nhóm chuyên môn tiến hành thảo luận rút kinh nghiệm và đánh giá xếp loại giờ dạy của giáo viên. Thao giảng dự giờ là một hoạt động chuyên môn quan trọng trong việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, một biện pháp để thúc đẩy đổi mới PPDH. Tuy nhiên việc thao giảng dự giờ bấy lâu nay đã bộc lộ nhiều nhược điểm: Do xuất phát từ mục đich của buổi dự giờ là để đánh giá kĩ năng dạy học và năng lực chuyên môn của giáo viên nên tạo ra áp lực cho cả người dạy và người dự. Người dạy sẽ chỉ ngồi nghe còn người dự trở thành giám khảo phán xét, đánh giá. Mặt khác xuất phát từ suy nghĩ của người dự giờ, khi được mời phát biểu, nếu chỉ toàn khen lại sợ người khác nghĩ mình kém cỏi. Nếu có nhiều ý kiến lại sợ làm tổn thương và ảnh hưởng đến kết quả xếp loại của đồng nghiệp. Một số khác lại suy nghĩ họ có thể học được rất ít từ đồng nghiệp bởi hầu hết giáo viên khi dạy đều bám sát vào sách giáo viên và các tài liệu hướng dẫn khác dành cho giáo viên do vậy cấu trúc bài học, tiến trình lên lớp gần như giống nhau nên họ cảm thấy nhàm chán. Họ đi dự giờ cốt để đủ số giờ theo quy định. Hiệu quả của việc dự giờ chưa cao. Thực tế cho thấy hoạt động thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm giờ dạy chiếm phần lớn thời gian trong sinh hoạt của tổ, nhóm chuyên môn. Tuy nhiên, các thức sinh hoạt theo lối cũ tạo nên một lối mòn khó có thể thay đổi được. Chính điều này đã làm cho việc đổi mới PPDH thiếu đồng bộ theo kiểu “ngôi nhà mới xây trên nền đất cũ”. Thực tế các buổi sinh hoạt chuyên môn với nội dung thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm chúng ta thấy hiện nay các tổ, nhóm chuyên môn vẫn hướng vào mục đích đánh giá, xếp loại giờ dạy theo các tiêu chí, quy trình đã được quy 8
  9. định thành văn bản biểu mẫu. Khi dự giờ, đồng nghiệp chỉ biết chú ý quan sát mọi hoạt động của giáo viên để phân tích, góp ý, rút kinh nghiệm về nội dung kiến thức, PPDH, tư thế tác phong. Sâu hơn nữa thì mổ xẻ cách trình bày bảng, biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học, ứng dụng CNTT, phân bố thời gian có hợp lý hay không?. Sau một thời gian phân tích, nhận xét ưu khuyết điểm, tổ trưởng hoặc nhóm trưởng chuyên môn chốt lại những bài học kinh nghiệm cho giáo viên và tiến hành đánh giá cho điểm, phân loại giờ dạy. Quy trình rập khuôn và máy móc đó đã dẫn đến hệ quả là thiếu sự sáng tạo và năng động trong việc sử dụng kỹ thuật và PPDH. Tiến trình dạy học hầu như theo một bản sao cố định. Ngồi ở phía dưới, người dự giờ và ngay cả HS cũng phỏng đoán được trước các bước thực hiện của GV trên bục giảng như thế nào và thời gian là bao nhiêu. Giờ học cũng vì thế mà tẻ nhạt đơn điệu. Trong giáo án soạn sẵn ở nhà, bên cạnh câu hỏi đưa ra GV đã có dự kiến trước câu trả lời của HS. Trong sinh hoạt chuyên môn góp ý giờ dạy, do chỉ chú ý đánh giá hoạt động sư phạm của giáo viên nên mọi ý kiến mổ xẻ đều hướng về người dạy mà bỏ quên người học. Giáo viên dạy thao giảng lúc nào cũng trở thành “điểm ngắm” duy nhất để người ngồi ở phía dưới nhận xét. Ý kiến nhận xét vì thế mang tính chủ quan, áp đặt dựa vào kinh nghiệm của từng cá nhân theo kiểu: “Theo tôi cách tốt nhất là, …” mặc dù trong thực tế không có cách dạy nào tốt nhất cho tất cả mọi người vì còn tùy thuộc vào từng đối tượng học sinh trong mỗi lớp. Những ý kiến đưa ra góp ý hầu như không tìm được một “tiếng nói chung” để cải tiến giờ dạy. Chính vì thế kết quả học tập của học sinh ít được cải thiện, nhất là các đối tượng yếu kém vì luôn bị “bỏ rơi”. Thiệt thòi nhất vẫn là học sinh. PPDH tích cực “”Lấy học sinh làm trung tâm” vẫn đang chỉ là khẩu hiệu. Chúng tôi đã làm phiếu hỏi với 250 học sinh với nội dung: “Trong đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng NCBH, năm học này em đã được tham gia tiết học nào chưa?” Kết quả cho thấy có 200 học sinh (tỷ lệ 80%) trả lời đã tham gia rồi, 50 học sinh (20% ) trả lời là chưa tham gia. Điều này phản ánh một thực tế không phải lớp học nào cũng được chọn để giáo viên tiến hành dạy theo NCBH. Câu hỏi thứ hai chúng tôi tiếp tục khảo sát ý kiến của 200 em học sinh đã được tham gia ít nhất một tiết học theo NCBH bằng cách yêu cầu học sinh khoanh tròn những lựa chọn theo sũy nghĩ riêng của cá nhân các em về tiết học theo NCBH. 9
  10. Bảng 2.1: Ý kiến của học sinh về hoạt động chủ đạo nhất trong tiết dạy theo NCBH Hoạt động chủ đạo nhất Số ý Tỷ lệ % kiến 1 Hoạt động cá nhân 0 0 2 Hoạt động nhóm 200 100 3 Hoạt động cặp 0 0 Chúng tôi thật sự ngỡ ngàng khi có tới 100% số học sinh được khảo sát cho rằng: hoạt động chủ đạo nhất trong tiết học theo NCBH là hoạt động nhóm. Điều này chứng tỏ các em đặc biệt quan tâm, tập trung cao độ vào các hoạt động được tổ chức trong các giờ dạy theo NCBH. Bảng 2.2: Ý kiến của học sinh về mức độ tham gia của em vào các hoạt động do giáo viên tổ chức trong tiết dạy theo NCBH Mức độ tham gia Số ý Tỷ lệ % kiến 1 Thường xuyên 160 80 2 Thỉnh thoảng 40 20 3 Không bao giờ 0 0 Kết quả ở bảng 2.2 cho thấy: 80% các em thường xuyên tham gia vào các hoạt động do giáo viên tổ chức, 20% các em thỉnh thoảng mới tham gia, không có em nào không bao giờ tham gia. Đây là một điểm mới mẻ, khác lạ của dạy theo NCBH so với phương pháp dạy học thông thường. Đa số học sinh (75%) được khảo sát cho rằng việc dạy theo NCBH rất quan trọng đối với học sinh bởi vì các em được hình thành các năng lực tự chủ, năng lực giao tiếp, hợp tác và giải quyết vấn đề khi tham gia học theo NCBH. Ưu điểm của học theo NCBH mà hầu hết các em nhận thấy đó là giúp học sinh tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập, hơn thế nữa việc dự giờ của giáo viên không làm ảnh hưởng đến tiến trình học tập của các em mà ngược lại, giáo viên còn hỗ trợ, động viên các em tham gia vào các hoạt động học tập. Do vậy trong quá trình học theo NCBH, tỷ lệ học sinh tích cực, sôi nổi trong học tập luôn đạt mức cao hơn so với tiết học bình thường. 10
  11. Song song với việc khảo sát học sinh, chúng tôi tiến hành khảo sát 60 giáo viên đang trực tiếp tham gia giảng dạy tại trường về các câu hỏi liên quan đến vấn đề dạy theo NCBH. Bảng 2.3: Ý kiến của giáo viên về mức độ cần thiết của việc dạy theo NCBH cho học sinh trong các trường THPT? Mức độ cần thiết Số ý Tỷ lệ % kiến 1 Cần thiết 60 100 2 Rất cần thiết 0 0 3 Không cần thiết 0 0 Kết quả bảng khảo sát 2.3 cho thấy: 100% cho rằng rất cần thiết dạy theo NCBH cho học sinh trong các trường THPT để hình thành cho các em những kỹ năng: xác định, giải quyết vấn đề, kỹ năng hợp tác….. Khi được hỏi về nguyên nhân từ phía học sinh có ảnh hưởng đến việc các em không hứng thú trong các tiết học theo NCBH chúng tôi thu được kết quả sau đây: Bảng 2.4: Những nguyên nhân nào sau đây từ phía học sinh có ảnh hưởng đến việc các em không hứng thú trong các tiết học theo NCBH? STT Các nguyên nhân Số ý kiến Tỷ lệ % 1 Bản thân học sinh chưa tự giác trong học tập. 20 33,3 2 Hình thức tổ chức dạy học chưa phong phú 30 50 3 Học sinh chỉ quan tâm đến những môn các em 40 66,7 yêu thích. 4 Những biến đổi về tâm sinh lý lứa tuổi 20 33,3 5 Một bộ phận thầy cô giáo chưa quan tâm đến 35 58,3 năng lực và sở trường của học sinh. 6 Năng lực học tập của học sinh còn hạn chế. 25 41,7 7 Học sinh chưa được rèn luyện kỹ năng tự học, 41 68,3 hợp tác hay làm việc nhóm. 8 Học theo NCBH vẫn còn là vấn đề mới mẻ 36 60 11
  12. 9 Nội dung của bài học còn xa rời với thực tiễn, 42 70 mang tính hàn lâm. 10 Nhiều em chưa quan tâm đến học theo NCBH 30 50 Như vậy : Ý kiến của giáo viên được khảo sát về nội dung này phân bổ ở các mức độ và nguyên nhân khác nhau: 50% giáo viên cho rằng các em không hứng thú do hình thức tổ chức dạy học chưa phong phú, nhiều em không quan tâm đến việc học theo NCBH. Hơn 33% ý kiến cho rằng học sinh không hứng thú do các em chưa tự giác trong học tập hoặc do những biến đổi về tâm sinh lý lứa tuổi. Một tỷ lệ lớn ( 66,7%) giáo viên cho rằng học sinh không hứng thú do các em chỉ quan tâm đến các môn học yêu thích hay các em chưa được rèn luyện nhiều về kỹ năng tự học, hợp tác hay làm việc nhóm hoặc nội dung bài học còn xa rời thực tiễn đối với học sinh. Để khảo sát ý kiến đánh giá của giáo viên về kỹ năng mà học sinh đạt được thông qua phương pháp dạy theo NCBH, chúng tôi thu được bảng tổng hợp sau đây: Bảng 2.5 Tổng hợp ý kiến đánh giá của giáo viên về các kỹ năng mà học sinh đạt được thông qua phương pháp dạy theo NCBH cho HS Kỹ năng được rèn luyện Số ý Tỷ lệ % kiến 1 Kỹ năng giao tiếp: 38 63,3 2 Kỹ năng xác định vấn đề 36 60 3 Kỹ năng ra quyết định. 45 75 4 Kĩ năng giải quyết vấn đề 60 100 5 Kĩ năng hợp tác 60 100 6 Kỹ năng ứng phó với tình huống căng thẳng 45 75 7 Kỹ năng đặt mục tiêu 37 61,7 Như vậy, đại đa số (trên 60%) giáo viên được khảo sát đều cho rằng, học sinh rèn luyện được nhiều kỹ năng thông qua phương pháp dạy theo NCBH. Đặc biệt 100% giáo viên thừa nhận rằng hai kỹ năng học sinh được rèn luyện nhiều nhất là: kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng hợp tác. Những câu hỏi tiếp theo Giáo viên được hỏi đều liên quan đến việc chỉ đạo đổi mới SHCM theo NCBH. 100% giáo viên đều cho rằng các BGH, tổ nhóm chuyên môn đã xây dựng kế hoạch từ đầu năm học, sau đó tiếp tục cụ thể 12
  13. hóa kế hoạch theo từng học kỳ, tháng và tuần. Tất cả giáo viên đồng ý rằng việc chỉ đạo đổi mới nội dung SHCM theo NCBH ở trường được thực hiện bằng các hình thức: thông qua họp hội đồng nhà trường, họp cốt cán, sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn, nội dung từng chủ điểm tháng hay thông qua các trang nhóm Zalo, Facebook của trường . Sau đây là số liệu tổng hợp ý kiến khảo sát giáo viên. Bảng: 2.6 Thống kê ý kiến của giáo viên về việc xây dựng kế hoạch dạy theo NCBH cho học sinh Số ý kiến STT Các loại kế hoạch Tỷ lệ % đồng ý 1 Kế hoạch GD của nhà trường cho GV- HS 60 100 vào đầu năm học. 2 Kế hoạch GD môn học theo từng năm học 60 100 3 Kế hoạch GD môn học theo từng học kỳ 60 100 4 Kế hoạch GD môn học theo từng tháng 60 100 5 Kế hoạch GD bộ môn theo tuần 60 100 Bảng: 2.7 Thống kê ý kiến của giáo viên về những hình thức chỉ đạo đổi mới nội dung SHCM theo NCBH ở trường THPT Nguyễn Duy Trinh Số ý TT Nội dung trả lời kiến Tỷ lệ % đồng ý 1 Chỉ đạo thông qua họp hội đồng nhà trường 60 100 2 Chỉ đạo thông qua họp cốt cán chuyên môn 60 100 3 Chỉ đạo thông qua nội dung sinh hoạt chuyên môn 60 100 các tổ, nhóm. 4 Chỉ đạo thông qua nội dung từng chủ điểm tháng 60 100 5 Chỉ đạo thông qua các trang nhóm zalo,facebook 60 100 của trường Bảng: 2.8 Thống kê ý kiến của giáo viên về sự phối hợp của cán bộ quản lý với các lực lượng trong nhà trường để tăng cường công tác chỉ đạo đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo NCBH. Số ý kiến TT Nội dung trả lời Tỷ lệ % đồng ý 1 Đội ngũ TT, TP chuyên môn 60 100 13
  14. 2 Đội ngũ giáo viên cốt cán, Giáo viên giỏi 60 100 3 Đội ngũ giáo viên bộ môn, nhân viên 60 100 Như vậy, từ những kết quả thu được thông qua việc khảo sát giáo viên và học sinh trường THPT Nguyễn Duy Trinh về phương pháp dạy theo NCBH, chúng tôi rút ra những nhận định sau đây: + Đổi mới phương pháp dạy học theo NCBH là một việc cần thiết để rèn luyện kỹ năng cho học sinh đặc biệt là học sinh THPT. + Lãnh đạo các nhà trường cần có những chỉ đạo cụ thể đối với các tổ, nhóm chuyên môn trong việc triển khai thực hiện dạy theo NCBH nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tại các nhà trường hiện nay. III. Đánh giá thực trạng về đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc dạy theo NCBH ở trường THPT Nguyễn Duy Trinh - Huyện Nghi Lộc - Tỉnh Nghệ An 1. Thứ nhất: Về ưu điểm Qua điều tra và khảo sát chúng tôi thấy rằng đa số học sinh đều có nhận thức đúng đắn và hiểu rõ tầm quan trọng của phương pháp dạy theo NCBH trong việc hình thành kỹ năng đối với bản thân mình. Các em đã tích cực tham gia vào các hoạt động do giáo viên tổ chức trong các giờ dạy minh học để nhằm trang bị cho mình những kiến thức, sự hiểu biết và rèn luyện kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng hợp tác.... Thấy được tầm quan trọng của vấn đề, nhà trường đã có nhiều kế hoạch hoạt động và triển khai thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng để đạt hiệu quả cao trong việc năng cao chất lượng dạy và học tại trường. 2. Thứ hai: Về hạn chế Mặc dù trong thời gian qua, việc đổi mới SHCM theo hướng NCBH đã được các nhà quản lý quan tâm bằng cách đưa ra các giải pháp thích hợp. Tuy nhiên hiệu quả đạt được vẫn còn rất thấp, một số nhà quản lý giáo dục, các tổ nhóm chuyên môn trong các nhà trường vẫn còn tỏ ra lúng túng và chưa tìm ra phương pháp thích hợp để tận dụng tối đa hiệu quả của các giờ dạy theo NCBH. Hoạt động đổi mới SHCM theo hướng NCBH chủ yếu được thực hiện kết hợp với tiết dạy thao giảng của giáo viên. Do đó việc đánh giá, kết quả học tập của học sinh nhiều lúc không được chú trọng. Các hình thức tổ chức các hoạt động dạy học chưa phong phú, đa dạng, có chiều sâu để cuốn hút học sinh và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. 14
  15. Sự phối hợp các lực lượng trong nhà trường có lúc chưa đồng bộ, nhất là vẫn còn một số các em học sinh chưa nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc học theo hướng NCBH trong việc hình thành kỹ năng tự học và giải quyết vấn đề. IV. Giải pháp tổ chức thực hiện Đổi mới nội dung sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học tại Trường THPT Nguyễn Duy Trinh. 1. Nội dung sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học - Cơ sở để đề xuất giải pháp thực hiện. 1.1 Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học. Hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là hoạt động mà ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến người học như: học sinh học như thế nào? Học sinh gặp khó khăn gì trong học tập? Nội dung và phương pháp dạy học có phù hợp, có gây hứng thú cho học sinh không? Kết quả học tập của học sinh có được cải thiện không? Cần điều chỉnh gì và như thế nào?. Sinh hoạt chuyên môn theo NCBH không tập trung vào đánh giá giờ học, xếp loại giáo viên mà khuyến khích mỗi giáo viên tìm ra nguyên nhân tại sao học sinh học chưa có kết quả như mong muốn và có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập, giúp giáo viên có khả năng chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng của trường mình, lớp mình. 1.2. Mục đích và ý nghĩa của sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học: - Phát triển năng lực chuyên môn của giáo viên; - Cải tiến việc dạy học của giáo viên thông qua sự hợp tác có hệ thống với các giáo viên khác; - Để hiểu rõ hơn về cách học sinh học; tác động của PPDH đến việc học tập của học sinh; - Nâng cao hiệu quả học tập của học sinh; - Đảm bảo việc học của mọi học sinh, đặc biệt là những học sinh có khó khăn về học; 15
  16. - Tạo cơ hội cho tất cả GV nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và phát huy khả năng sáng tạo… thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau dự giờ; - Nâng cao chất chất lượng dạy và học của nhà trường; - Góp phần thay đổi văn hóa ứng xử trong nhà trường. 1.3. Quy trình thực hiện đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học: * Bước 1: Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu Cần xác định mục tiêu kiến thức và kỹ năng mà HS cần đạt được khi tiến hành nghiên cứu (sử dụng tài liệu về chuẩn kiến thức, kỹ năng ở từng môn học). Mục tiêu phải phù hợp với trình độ của HS, năng lực chuyên môn của GV cũng như chuẩn kiến thức, kỹ năng; tôn trọng và khuyến khích sự tự chủ, sáng tạo của GV khi soạn bài với ý tưởng mới. GV thảo luận chi tiết, cụ thể bài học tiến hành nghiên cứu theo những gợi ý sau: đặt câu hỏi xem đây là loại bài học gì? cách giới thiệu bài học này như thế nào? có sử dụng tình huống có vấn đề để giới thiệu bài học này không? việc sử dụng các phương pháp dạy học và các phương tiện dạy học thế nào cho đạt hiệu quả cao? nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến thức nào? dự kiến tổ chức những hoạt động dạy học nào tương ứng? GV sử dụng những câu hỏi để kích thích khả năng tư duy sáng tạo của HS như thế nào? Từ đó lựa chọn: hình tổ chức lớp học, kỹ thuật dạy học, lời nói, hành động, thao tác cụ thể của GV, những nội dung cần trình bày trên bảng, nội dung kiến thức giáo dục cần tích hợp... cho phù hợp. Dự kiến cách suy nghĩ, lời nói hành động, thao tác của HS; sản phẩm học tập của HS trong bài học này là gì? những thuận lợi, khó khăn của HS khi tham gia các hoạt động học tập; các tình huống xảy ra và các xử lý nếu có..., kết thúc bài học như thế nào? đánh giá kết quả học tập của học sinh qua tiết học bằng cách nào? các bằng chứng để đánh giá kết quả học tập của HS là gì? Ngoài ra, GV còn thảo luận về một số vấn đề khác như: làm thế nào để khắc phục được sự chênh lệch về trình độ của các HS trong lớp để đảm bảo tất cả các HS sau mỗi bài học đều đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng; làm thế nào để thúc đẩy quá trình hình thành các kỹ năng khác nhau ở HS; làm thế nào để duy trì và 16
  17. nuôi dưỡng các kỹ năng đã có của HS và mối liên hệ của nội dung đó với các nội dung khác của môn học hay với các môn học khác. Tổ trưởng hoặc nhóm trưởng chuyên môn giao cho 01 GV trong nhóm soạn giáo án của bài học nghiên cứu, trao đổi với các thành viên trong tổ để chỉnh sửa lại giáo án. Các thành viên khác có nhiệm vụ nêu kế hoạch chi tiết cho việc quan sát và thảo luận sau khi tiến hành bài học nghiên cứu. Chuẩn bị giờ dạy thao giảng trước Chuẩn bị giờ dạy minh họa đây SHCM - NCBH - Mục đích: Tìm giải pháp nâng cao - Mục đích: Đánh giá, xếp loại giờ hiệu quả học tập của học sinh. Tập dạy. Tập trung vào hoạt động của giáo trung vào hoạt động của học sinh. viên. Thống nhất cách dạy để các giáo Mỗi giáo viên tự rút ra bài học để áp viên cùng thực hiện. dụng. - Một giáo viên thiết kế và dạy minh - Một nhóm giáo viên thiết kế. Một họa. giáo viên dạy minh họa. - Thực hiện đúng quy trình, nội dung - Dựa vào trình độ học sinh để lựa và các bước thiết kế theo quy định. chọn phương pháp, nội dung, quy trình cho phù hợp 17
  18. Các nhóm chuyên môn sinh hoạt để lựa chọn bài học minh họa - Sinh hoạt chuyên môn nhóm Ngoại Ngữ - Sinh hoạt chuyên môn nhóm Sử - Địa - GDCD 18
  19. * Bước 2: Tiến hành bài học và dự giờ Sau khi hoàn thành kế hoạch dạy học chi tiết, một GV sẽ dạy minh họa bài học nghiên cứu ở một lớp học cụ thể, các GV còn lại trong nhóm tiến hành dự giờ và ghi chép thu thập dữ liệu về bài học. Việc bố trí dự giờ là một khâu quan trọng của đổi mới SHCM theo NCBH, là cơ sở để GV có cách nhìn mới, nhận ra các vấn đề liên quan đến công việc của bản thân và đồng nghiệp. Các yêu cầu cụ thể của việc dự giờ như sau: - Chuẩn bị lớp dạy minh họa, bố trí lớp có đủ chỗ ngồi quan sát thuận lợi cho người dự. - Điều chỉnh số lượng người dự ở mức vừa phải, không quá đông gây khó khăn cho việc quan sát diễn biến bài học. - Việc dự giờ cần đảm bảo không ảnh hưởng đến việc học của HS, không gây khó khăn cho người dạy minh họa. - Vị trí của người dự: do trọng tâm là qua sát việc học của HS, cho nên người dự hoặc ngồi (đứng) ở hai bên lớp học hoặc đứng ở phía trước lớp học. Có thể quay video hoặc chụp ảnh để lấy tư liệu sau bài học phục vụ thảo luận. GV cần quan sát cách HS học, cách phản ứng của HS trong giờ học, cách HS làm việc nhóm, những sai lầm HS mắc phải trong quá trình học. Sự quan sát ấy hướng tới tất cả các HS trong lớp học chứ không riêng những HS nổi bật, những HS giỏi hay giơ tay phát biểu. Sau khi kết thúc tiết học, những người tham gia sẽ cùng thảo luận về bài học đã được thực hiện.  Người tiến hành giờ dạy minh họa: là 1 GV tự nguyện hoặc người được nhóm thiết kế lựa chọn. Người dạy cần quan tâm đến tất cả các HS, không dạy trước hoặc huấn luyện trước cho HS về nội dung bài học.  Người dự giờ: ghi lại các hoạt động của HS trong giờ học bằng cách chụp ảnh, ghi chép hoặc quay video.  Vị trí người dự giờ: phía trước hoặc hai bên lớp học, không ngồi sau HS vì không quan sát được việc học của HS.  Kĩ thuật: kết hợp nghe, nhìn, suy nghĩ, ghi chép, quay phim, chụp ảnh… để nhằm trả lời các câu hỏi: HS học như thế nào? HS gặp những khó khăn gì? Vì sao? Cần phải thay đổi như thế nào để cải thiện kết quả học tập của HS? 19
  20. SƠ ĐỒ LỚP DẠY MINH HỌA BẢNG Vị trí quan sát của GV dự Vị trí quan sát của GV dự Vị trí Học sinh Vị trí Học sinh quan quan sát Học sinh Học sinh sát của của GV Học sinh Học sinh GV dự dự Học sinh Học sinh Một số hình ảnh các tiết dạy theo nghiên cứu bài học - Tiết dạy theo NCBH của nhóm Tiếng Anh 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2