QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI THEO QUY HOẠCH VÀ VẤN ĐỀ<br />
ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT1<br />
Đặng Anh Quân<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Quy hoạch sử dụng đất là sự tính toán, phân bổ<br />
đất đai của Nhà nước một cách cụ thể, hợp lý cả về<br />
số lượng lẫn chất lượng, vị trí, không gian.v.v. cho<br />
các mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước cũng như<br />
từng địa phương trong mỗi giai đoạn phát triển của<br />
đất nước. Với quy định “Nhà nước thống nhất quản<br />
lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật” tại<br />
TIẾN SĨ ĐẶNG ANH QUÂN<br />
Khoa Luật thương mại<br />
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh<br />
Giảng viên thỉnh giảng<br />
Trường Đại học Mở Tp. Hồ Chí Minh<br />
<br />
Điều 18 Hiến pháp 1992 đã cho thấy, quy hoạch sử<br />
dụng đất không chỉ là hệ thống các biện pháp mang<br />
tính kinh tế, kỹ thuật mà còn mang tính pháp lý rất<br />
cao, là nền tảng cho hoạt động quản lý đất đai của<br />
Nhà nước.<br />
<br />
Kết quả của quy hoạch là sự thay đổi trong hoạt động sử dụng đất bao gồm sự<br />
phân chia hoặc hợp nhất những diện tích đất đai nhất định, nghĩa là thay đổi đặc điểm<br />
hình học của đất đai; thay đổi mục đích sử dụng đất và thậm chí thay đổi cả chủ thể sử<br />
dụng đất và các quyền đối với đất đai. Nó có tác động rất lớn đến thị trường quyền sử<br />
dụng đất nói riêng và thị trường bất động sản nói chung, bởi sự thay đổi mục đích sử<br />
dụng đất sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong giá trị của đất đai, và sự thay đổi giá trị này<br />
thường theo hướng tăng lên.<br />
Với ảnh hưởng như thế, muốn quy hoạch đạt được hiệu quả, đòi hỏi sự phối hợp chặt<br />
chẽ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong tất cả các giai đoạn của quá trình quy<br />
hoạch, từ khâu thu thập thông tin, lập ra quy hoạch, tổ chức lấy ý kiến về quy hoạch, phê<br />
duyệt quy hoạch đến việc công bố công khai và tổ chức triển khai quy hoạch trên cơ sở<br />
những thủ tục, thể chế pháp lý được quy định rõ ràng như quy định về thu hồi đất; về bồi<br />
thường cho người có đất bị thu hồi và những người bị ảnh hưởng bởi quy hoạch; về khiếu<br />
nại và giải quyết khiếu nại của người dân...v.v.<br />
1<br />
<br />
Bài viết tại Hội thảo khoa học: “Đánh giá thực tiễn thi hành chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992”<br />
<br />
Trang 1<br />
<br />
Cần lưu ý việc lập quy hoạch tuy nhằm định hướng cho hoạt động sử dụng đất,<br />
không thể dựa trên việc tự ý sử dụng đất của từng chủ thể, nhưng không thể thoát khỏi<br />
ảnh hưởng bởi nhu cầu, ý chí chung của người sử dụng đất. Quy hoạch phải mang tính<br />
chấp nhận xã hội, nghĩa là phải được người dân chấp nhận. Dù trong phần lớn trường hợp<br />
Nhà nước có thể dùng quyền lực của mình để đảm bảo quy hoạch do mình lập ra được<br />
triển khai, buộc người dân phải tuân thủ, nhưng cũng không thể bỏ qua ý kiến của đông<br />
đảo người dân, nhất là khi người dân phản đối quy hoạch.<br />
Như vậy, ngoài sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành quy<br />
hoạch, không thể không chú trọng đến sự cân bằng hài hòa về pháp lý, chính trị và kinh tế<br />
trong mối quan hệ giữa các chủ thể: chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, nhà<br />
đầu tư và người dân, nhất là những người chịu ảnh hưởng bởi quy hoạch. Nếu lợi ích của<br />
quy hoạch không phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, hoặc của địa phương<br />
vùng quy hoạch thì việc triển khai quy hoạch sẽ hết sức khó khăn, thậm chí không thể<br />
thực hiện. Trong trường hợp này, tính cưỡng chế của quy hoạch sẽ bị lung lay và quy<br />
hoạch có thể phải bị hủy bỏ. Bởi xét đến cùng, mục đích của quy hoạch không chỉ nhằm<br />
định hướng cho việc sử dụng đất được hiệu quả, bền vững, mà hơn hết là vì lợi ích của<br />
người dân – những chủ sở hữu của đất đai.<br />
2. Một số quyền lợi cơ bản của người sử dụng đất cần được đảm bảo trong công tác<br />
quy hoạch sử dụng đất<br />
Đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất luôn là vấn đề quan trọng được đặt ra<br />
trong hoạt động quy hoạch sử dụng đất. Sự đảm bảo này được thể hiện ở nhiều khía cạnh<br />
khác nhau, nhưng có thể khái quát ở một số quyền cơ bản của người sử dụng đất như:<br />
quyền được đóng góp ý kiến đối với công tác quy hoạch sử dụng đất; quyền được thông<br />
tin về quy hoạch sử dụng đất; quyền khiếu nại, tố cáo và quyền được đảm bảo ổn định<br />
cuộc sống khi quy hoạch.<br />
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hoạt động quy hoạch sử dụng đất ở nước ta vẫn còn<br />
nhiều phức tạp. Hầu hết quy định điều chỉnh quy hoạch chủ yếu chú trọng công tác quản lý<br />
nhà nước, chưa thực sự đề cao quyền lợi của người sử dụng đất hoặc nếu có thì chỉ<br />
mang tính hình thức, thiếu cơ chế thực thi. Do đó, những quyền lợi nêu trên của người sử<br />
dụng đất vẫn chưa thực sự được tôn trọng.<br />
Quyền đóng góp ý kiến đối với quy hoạch sử dụng đất<br />
Trang 2<br />
<br />
Theo quy định tại Điều 25 Luật Đất đai, một dự án quy hoạch sử dụng đất trước khi<br />
được phê duyệt, bắt buộc phải được đưa ra để nhân dân đóng góp ý kiến. Việc tham vấn<br />
tiến hành tại cấp xã. Nhưng thực tế khi lập quy hoạch, tham vấn duy nhất được tiến hành<br />
lại là tại cấp huyện và cấp tỉnh, với người được tham vấn là đại diện của hàng loạt các sở,<br />
ngành (giao thông, nông nghiệp, xây dựng…v.v)2. Còn người dân, hầu như mờ mịt về<br />
việc khu vực mình sống có bị quy hoạch hay không. Nếu có sự rò rỉ thông tin mà biết được<br />
thì cũng chẳng biết phải thể hiện ý chí của mình như thế nào và tại đâu. Ngay chính cơ<br />
quan có trách nhiệm lấy ý kiến nhân dân cũng chưa chắc biết phải tiến hành ra sao. Bởi lẽ,<br />
dù luật pháp có đề cập đến vấn đề này nhưng lại không có văn bản hướng dẫn thực hiện cụ<br />
thể. Việc tổ chức lấy ý kiến sẽ được tiến hành khi nào? Hình thức của nó? Nội dung đưa ra<br />
trao đổi? Nếu ý kiến của người dân không ủng hộ thì xử lý thế nào?<br />
Sau Luật Đất đai, cũng có những văn bản khác quy định việc lấy ý kiến của người dân<br />
trong công tác quy hoạch. Cụ thể là Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH thực hiện dân chủ ở<br />
xã, phường, thị trấn (ngày 20/4/2007). Từ Điều 19 đến Điều 22 của Pháp lệnh đề cập việc<br />
tham gia ý kiến của người dân đối với dự thảo quy hoạch sử dụng đất chi tiết, hình thức<br />
để nhân dân tham gia góp ý kiến và trách nhiệm của chính quyền trong việc tổ chức tiếp<br />
thu ý kiến của người dân. Và gần đây nhất là quy định của Luật Quy hoạch đô thị về<br />
quyền tham gia ý kiến (Điều 8), trách nhiệm lấy ý kiến (Điều 20) và hình thức, thời gian lấy<br />
kiến ý (Điều 21) đối với quy hoạch đô thị.<br />
Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn mang tính chung chung. Sự tham gia và vai<br />
trò của người dân, nhất là những người có đất nằm trong khu vực quy hoạch, vẫn còn mờ<br />
nhạt. Dù quy hoạch sử dụng đất là một vấn đề phức tạp, mang tính chuyên môn, kỹ thuật<br />
và mỗi người dân đều có một trình độ nhất định khác nhau, nhưng không có quy định về<br />
việc hướng dẫn hay định hướng cho người dân tham gia ý kiến. Thiếu những quy định đặt<br />
ra các tiêu chí hay thang bậc giá trị để giúp người dân có thể hiểu và đánh giá về quy hoạch<br />
sử dụng đất, dù quy hoạch đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và cuộc sống của họ. Vì<br />
vậy, sẽ là khó khăn để mọi người có thể hiểu mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng chung,<br />
lớn lao của quy hoạch sử dụng đất so với lợi ích thiết thực của bản thân họ. Nghĩa là khó<br />
có sự hi sinh lợi ích bản thân vì lợi ích chung mà lợi ích ấy còn xa vời, chỉ mới hiển hiện<br />
trên lý thuyết, trên giấy tờ đầy khó hiểu. Đã không hiểu rõ dự án quy hoạch sử dụng đất thì<br />
2<br />
<br />
SEMLA, “Đánh giá chính sách và quản lý (MPR) cho quy hoạch sử dụng đất và đề xuất kế hoạch hành động”,<br />
tháng 8/2006, trang 26.<br />
<br />
Trang 3<br />
<br />
làm sao người dân góp ý? Và liệu những ý kiến đó có được khách quan, có được quan tâm<br />
lắng nghe không? Điều này phụ thuộc vào cách làm của từng địa phương, nhưng hầu hết<br />
chỉ dừng ở mức độ thông báo thông tin về sơ đồ quy hoạch nên chưa thực sự thu hút được<br />
sự quan tâm và góp ý của người dân.<br />
Dự án “Lập quy hoạch cơ bản phát triển khu vực sông Hồng, đoạn qua Hà Nội” cũng<br />
đã được triển lãm công bố đến quần chúng thông tin quy hoạch cơ bản, thu thập ý kiến<br />
đóng góp nhằm hoàn thiện ý tưởng quy hoạch đô thị tương lai của thành phố Hà Nội.<br />
Tuy nhiên, trong 30.000 người đến tham quan triển lãm (từ 17/9 đến 29/9/2007), chỉ có<br />
2527 người trả lời phiếu điều tra ý kiến (chưa đến 10%)3.<br />
Chính lẽ đó, người dân thường không được biết về quy hoạch sử dụng đất trong giai<br />
đoạn lập dự án. Thậm chí, ngay cả khi quy hoạch được phê duyệt, đã được thông tin về nó,<br />
có thể người dân cũng không thể hiểu một cách rõ ràng, tường tận. Vấn đề này lại liên<br />
quan quyền được thông tin về quy hoạch của người sử dụng đất.<br />
Quyền được thông tin về quy hoạch sử dụng đất<br />
Điều 28 Luật Đất đai 2003 quy định “trong thời hạn không quá 30 ngày làm việc, kể<br />
từ ngày quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt, Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan quản<br />
lý đất đai các cấp phải có trách nhiệm công bố công khai quy hoạch sử dụng đất tại trụ sở<br />
cơ quan và trên các phương tiện thông tin đại chúng trong suốt thời gian có hiệu lực của<br />
kỳ quy hoạch sử dụng đất”.<br />
Đây là vấn đề đương nhiên vì nó liên quan đến lợi ích thiết thực của người dân. Họ<br />
là người bị ảnh hưởng bởi quy hoạch, phải tuân thủ và thực hiện theo quy hoạch mà Nhà<br />
nước lập ra. Thế nhưng, luật không quy định thống nhất việc công bố và ràng buộc trách<br />
nhiệm công bố công khai quy hoạch. Do đó, mỗi địa phương có những cách làm riêng<br />
của mình: hoặc công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng; hoặc thể hiện trên các<br />
bản vẽ phóng to đặt tại trụ sở cơ quan hay tại khu vực đất quy hoạch. Tuy nhiên, như đã đề<br />
cập, không phải người dân nào cũng có kiến thức về quy hoạch, nên dù đồ án quy hoạch<br />
có được công khai nơi công cộng thì cũng khó để người dân hiểu rõ và hiểu hết.<br />
<br />
3<br />
<br />
Tạ Quỳnh Hoa, “Quy hoạch đô thị với sự tham gia của cộng đồng – Những vần đề cần nghiên cứu cho việc áp<br />
dụng phương pháp tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng – Trường Đại học Xây dựng, số 06, tháng<br />
12/2009.<br />
<br />
Trang 4<br />
<br />
Bên cạnh đó, vẫn còn có những địa phương không tuân thủ quy định của pháp<br />
luật, không công bố công khai hoặc công bố chậm, hoặc thông tin không đầy đủ về quy<br />
hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, khiến người dân trong khu vực quy hoạch luôn<br />
sống trong tâm trạng bất an. Nhưng thông tin về quy hoạch thì lại rò rỉ, tạo cơ hội cho các<br />
tay cò đất hoạt động, sang nhượng đất đai, mua bán nhà ở đón đầu quy hoạch chờ hưởng<br />
lợi, tạo nên những cơn sốt nhà – đất, đẩy giá nhà – đất tăng cao đột biến. Những người<br />
nghèo, thu nhập thấp thực sự có nhu cầu cấp thiết về nhà ở sẽ phải sống chui rút trong các<br />
khu ổ chuột, với ước mơ cải thiện nhà ở, mua được một căn nhà đàng hoàng ngày càng<br />
trở nên xa vời, khó mà với tới. Trong khi đó, những kẻ đầu cơ thì chỉ có nhu cầu mua,<br />
không có nhu cầu ở nên nhiều căn hộ bị bỏ không, hoặc nhiều khu đất bị phân lô rồi để<br />
đấy làm cho thị trường bất động sản khan hiếm một cách giả tạo.<br />
Quy hoạch sử dụng đất là điều cần thiết và tất yếu đối với sự phát triển của đất<br />
nước, nhưng nó phải được lập ra phù hợp với nguyện vọng của người dân, cần có sự<br />
tham gia góp ý, cũng như cần được kịp thời công bố đến nhân dân. Tuy nhiên, do những<br />
hạn chế nêu trên, phần lớn nội dung của quy hoạch sử dụng đất tại các địa phương khi<br />
được thông qua chủ yếu là dành quỹ đất cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế, thu hút đầu tư<br />
các dự án sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Chính quyền địa phương, trên cơ sở đó,<br />
cho rằng đã mang lại lợi ích thiết thực và sự phồn thịnh cho người sử dụng đất mà bỏ qua<br />
tâm tư, nguyện vọng của người có đất nằm trong khu quy hoạch. Hệ quả của nó là sự chống<br />
đối của người dân khi quy hoạch được triển khai.<br />
Sự bất bình của người dân thông qua kiến nghị của đại biểu quốc hội đối với việc<br />
quy hoạch sử dụng đất một cách ào ạt dành cho các dự án sân golf tại nhiều địa<br />
phương ở Việt Nam là một ví dụ điển hình. Tính đến tháng 12/2008, cả nước có 166<br />
dự án sử dụngđất cho mục tiêu sân golf với tổng diện tích lên đến 52.739 ha trên<br />
địa bàn của 41/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong đó, có tới 128 dự án<br />
được các địa phương cấp phép đầu tư hoặc phê duyệt chủ trương đầu tư trong vòng<br />
chưa đầy hai năm (từ ngày 01/7/2006 đến ngày 04/6/2008). Điều đáng nói là diện<br />
tích đất nông nghiệp phải mất đi cho các dự án này là 10.546 ha, trong đó đất trồng<br />
lúa chiếm khoảng 3.000 ha. Phần lớn các dự án chủ yếu là trá hình kinh doanh bất<br />
động sản bởi đất quy hoạch làm sân golf chỉ có 16.850 ha (chiếm 31,95%), còn lại<br />
<br />
Trang 5<br />
<br />