« Home « Kết quả tìm kiếm

Thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam vì mục tiêu công bằng


Tóm tắt Xem thử

- Tóm tắt: An sinh xã hội (ASXH) là một trong những hình thức phân phối cơ bản.
- Trong những năm qua, việc thực hiện ASXH đã đạt được những thành tựu nhất định, vì đã góp phần cải thiện đời sống người nghèo, giảm bất bình đẳng và bất công, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội..
- Song việc thực hiện ASXH còn bộc lộ nhiều hạn chế như: mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) còn thấp, chính sách BHYT còn nhiều bất cập, quỹ BHXH chưa quản lý hiệu quả, chưa cân đối trong phân bổ tài chính thực hiện ASXH.
- Nhằm thực hiện tốt hơn ASXH và qua đó thực hiện công bằng xã hội tốt hơn, cần phải: nâng cao mức độ bao phủ của hệ thống ASXH.
- nâng cao năng lực quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với hệ thống ASXH.
- có chính sách cụ thể đối với nhóm phi chính thức.
- tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thực của người dân về các chính sách ASXH..
- Hệ thống ASXH là một trong các phương thức phân phối của cải của xã hội cho các cá nhân.
- Một trong những nguồn thu nhập mà mỗi người nhận được từ xã hội là thu nhập qua hệ thống ASXH.
- Vì vậy, khi xem xét sự phân phối có công bằng hay không, chúng ta cần phải xem xét sự hưởng thụ của mỗi người không chỉ qua sự phân phối trực tiếp từ quá trình sản xuất (chẳng hạn từ lương mà người lao động được hưởng), mà còn qua sự phân phối ở hệ thống phúc lợi xã hội và ASXH.
- Về BHXH: theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, đối tượng tham gia BHXH tính đến tháng 10 năm 2015 đạt trên 12,07 triệu người, chiếm trên 23% lực lượng lao động (trong đó, tham gia BHXH bắt buộc trên 11,85 triệu người, tăng trên 2,25 triệu người so với cuối năm 2010.
- tham gia BHXH tự nguyện trên 223 nghìn người, tăng trên 148 nghìn người so với cuối năm 2010) [9].
- Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ người dân tham gia BHXH ngày càng tăng.
- quyền lợi người lao động ngày càng được đảm bảo.
- Việc phối hợp giữa ngành Lao động Thương binh và xã hội và cơ quan BHXH ngày càng chặt chẽ.
- Điều đó giúp tăng cường hơn công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành Bộ luật Lao động và thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- tăng cường quản lý nhà nước về việc ký kết hợp đồng lao động, đăng ký thang lương, bảng lương, thỏa ước lao động tập thể.
- xử lý và ngăn chặn nhiều doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh có hành vi vi phạm về pháp luật BHXH đảm bảo công bằng xã hội (CBXH)..
- Về BHYT: “Đến cuối 2015, có 64,6 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 71,4% dân số.
- Tỷ lệ này cho thấy việc triển khai các chính sách BHYT đã đạt nhiều kết quả thuận lợi, nâng dần độ bao phủ toàn dân.
- Về hệ thống bảo hiểm thất nghiệp (BHTN): đến năm 2015 có trên 9,9 triệu người tham gia BHTN, tăng 3,6 triệu người so với cuối năm 2010.
- Số lượng người tham gia BHTN như trên cho thấy tính ưu việt của trụ cột này trong hệ thống ASXH, góp phần đảm bảo CBXH.
- Thực hiện các quy định về BHTN cho người lao động nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn cho người lao động bị mất việc làm, nghỉ việc.
- là cơ sở quan trọng để người lao động hoà nhập vào thị trường lao động và có sinh kế.
- Ngân sách trung ương chi trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng tăng nhanh, năm 2015 khoảng trên 11,6 nghìn tỷ đồng, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2010.
- Tính đến nay cả nước có 408 cơ sở trợ giúp xã hội, nuôi dưỡng, chăm sóc trên 41,4 nghìn đối tượng bảo trợ xã hội (trong đó, số đối tượng người lớn, trẻ em bị khuyết tật, tâm thần chiếm tới.
- thực hiện đầy đủ các chính sách về chăm sóc sức khỏe, ưu đãi giáo dục và các chính sách ưu đãi khác đối với người có công.
- Đến cuối năm 2015 có 98,5% hộ gia đình chính sách có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình hộ dân nơi cư trú, tăng thêm 8,5% số hộ so với năm 2010.
- Các kết quả thực hiện chính sách trợ giúp xã hội, ưu đãi người có công thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong sự trợ giúp của xã hội.
- được tiếp cận tốt hơn các chính sách và nguồn lực về vốn hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng.
- Nhìn chung, các chính sách ASXH đã hướng đến nhiều đối tượng hơn.
- Đối với chính sách BHXH, đối tượng tham gia ngày càng được mở rộng đến các thành phần kinh tế hướng đến bao phủ toàn dân.
- Các quy định của Luật BHXH đã được sửa đổi ngày càng phù hợp với Bộ luật Lao động và nguyện vọng của người lao động..
- Chính sách BHYT đã từng bước mở rộng các đối tượng và đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHYT, thể hiện tính công bằng hơn.
- Các chính sách BHTN được triển khai có hiệu quả trên toàn quốc.
- Chế độ cho người lao động thất.
- Các chính sách bảo trợ thường xuyên và đột xuất đã có những tác động hết sức to lớn đến nhóm người yếu thế.
- Các chính sách này thể hiện qua các chế độ trợ giúp khác nhau (về tài chính, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, học văn hoá, học nghề, tạo việc làm.
- Nhà nước đã có nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội và cá nhân (tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp) tiến hành hoạt động từ thiện giúp đỡ các đối tượng khó khăn..
- Các chính sách ưu đãi đối với người có công với đất nước thể hiện được tinh thần.
- Các chính sách giảm nghèo được thực hiện theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững, nhất là đối với những địa bàn khó khăn, vùng đồng bào dân tộc và miền núi.
- Các chính sách ASXH tiếp tục được hoàn thiện trên các lĩnh vực lao động, việc làm, BHXH, BHYT, bảo trợ xã hội.
- góp phần ổn định, thúc đẩy sự phát triển xã hội..
- Thứ nhất, mức độ bao phủ của hệ thống BHXH, BHYT còn thấp.
- Đối với BHXH, tỷ lệ tham gia (kể cả hình thức bắt buộc ở khu vực chính thức và tự nguyện ở khu vực phi chính thức) mặt dù.
- Theo báo cáo giám sát thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội năm 2015 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, ở 6 tỉnh Hà Nam, Nam Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Đồng Tháp và An Giang, tỷ lệ bao phủ BHXH bình quân của 6 tỉnh được giám sát là 13% lực lượng lao động tham gia BHXH (chỉ khoảng 6,9%.
- Tỷ lệ bao phủ thấp này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân lớn nhất là các doanh nghiệp chưa thực hiện tốt nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động.
- Bên cạnh đó, các chính sách cho đối tượng phi chính thức tham gia BHXH còn hạn chế.
- Một bộ phận lớn lao động phi chính thức (như lao động thất nghiệp, lao động trong các hộ gia đình, lao động trong nông nghiệp, lao động tự do, lao động làm thuê, người cao tuổi…) không tham gia các quỹ BHXH.
- Nhà nước không có khả năng chi trả cho tất cả các nhóm đối tượng này nhưng nhóm này lại cần nhất sự trợ giúp của xã hội thông qua hệ thống ASXH.
- Đối với BHYT, theo báo cáo của BHXH Việt Nam 2015, tỷ lệ bao phủ BHYT các địa phương không đồng đều, nhiều tỉnh, thành phố có tỷ lệ tham gia BHYT thấp hơn mức bình quân chung của cả nước.
- Với mục tiêu đến cuối năm 2016 nâng mức độ che phủ lên 78% thì vẫn chưa thể bao phủ được toàn dân tham gia BHYT.
- Thứ hai, chính sách BHYT còn nhiều bất cập.
- Vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa đối tượng thụ hưởng BHYT với các đối tượng khác tại hệ thống các bệnh viện được đăng ký tham gia khám chữa bệnh.
- Chất lượng khám chữa bệnh cho nhóm tham gia BHYT thường kém hơn so với nhóm sử dụng dịch vụ y tế..
- Những người tham gia BHYT khi khám chữa bệnh ở các bệnh viện tư nhân thì không được chấp nhận cung cấp dịch vụ theo thẻ..
- những bất cập trên, cùng với sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường vào lĩnh vực y tế, nếu các chính sách BHYT không được cải thiện thì sẽ khó thực hiện tốt hơn công bằng xã hội (CBXH) trong BHYT..
- Số thu chủ yếu căn cứ vào số lương được ký trong hợp đồng lao động (chứ không căn cứ vào số lương thực lĩnh).
- Theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 2015 có 6 tỉnh giám sát tình trạng nợ đọng, trốn đóng BHXH, BHYT của các DN diễn ra phổ biến ở tất cả các tỉnh, thành phố.
- Ngoài ra, trong nhiều trường hợp các chính sách tài chính cũng bị lợi dụng “ăn chặn”.
- nguồn ngân sách nhà nước dành cho an sinh xã hội.
- một số người sử dụng lao động không đóng các khoản bảo hiểm cho người lao động..
- Đối với nhóm đối tượng lao động phi chính thức và nhóm cận nghèo hiện nay, các chính sách tài chính vẫn chưa khắc phục được tình trạng đời sống bấp bênh của họ, vì họ dễ tái nghèo.
- Theo Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2015 của tổ chức UNDP, Việt Nam đã phát triển hệ thống ASXH cơ bản dựa trên “quyền” và theo “vòng đời”, hệ thống này chia thành hai nhánh rõ ràng với BHXH tương đối hào phóng cho những người làm việc trong khu vực chính thức và trợ giúp xã hội rất hạn chế cho những người nghèo nhất.
- Tình trạng này và diện bao phủ hạn chế của trợ giúp xã hội đã dẫn tới sự “bỏ sót nhóm ở giữa” (gồm nhóm cận nghèo và nhóm trung lưu lớp dưới thường làm việc ở khu vực phi chính thức, nhóm những người chưa đủ tiêu chuẩn để được nhận trợ giúp xã hội hoặc chưa có khả năng tiếp cận bảo hiểm xã hội).
- Do không thuộc diện bao phủ của các hệ thống ASXH nên những đối tượng này ở trong tình trạng.
- Mức độ trợ cấp xã hội cũng quá thấp nên khó tạo ra sự khác biệt trong cuộc sống của những người có đủ tiêu chuẩn thụ hưởng và dẫn đến một số hệ quả, trong đó có tình trạng còi phổ biến ở trẻ em thuộc các hộ gia đình nghèo và có mức thu nhập thấp..
- Thứ nhất, nâng cao mức độ bao phủ của hệ thống ASXH.
- Để nâng cao mức độ bao phủ của hệ thống ASXH cần tạo thuận lợi cho người dân tham gia BHXH.
- chú trọng đến mở rộng các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.
- khuyến khích phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện dựa trên cơ sở xã hội hoá như bảo hiểm nhân thọ.
- Cần hoàn thiện các cơ chế hỗ trợ phí tham gia BHYT một cách hợp lý đối với các nhóm đối tượng dân cư khác nhau.
- Thứ hai, cần mở rộng các chính sách ưu đãi, xoá đói giảm nghèo (điều này góp phần.
- Cần đẩy mạnh thực hiện chính sách ưu đãi đặc biệt đối với người có công, thương binh, gia đình liệt sĩ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, chính sách trợ cấp xã hội cho các đối tượng yếu thế.
- hoàn thiện và đa dạng hóa các chương trình hỗ trợ đặc thù cho các nhóm đối tượng yếu thế, đồng thời khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội vào các chương trình bảo trợ..
- Các tỉnh, thành phố cần phải chủ động xây dựng và ban hành kế hoạch triển khai thực hiện các chính sách ASXH tại địa phương với những chỉ tiêu, giải pháp cụ thể theo từng nhóm đối tượng.
- Cần huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự khác trong việc theo dõi, đánh giá thực hiện chính sách ASXH.
- Vì vậy, cần tiếp tục chính sách tín dụng ưu đãi đối với những hộ nghèo có khả năng lao động nhưng thiếu vốn về đầu tư sản xuất kinh doanh.
- Cần thu BHXH căn cứ vào mức tiền lương, tiền công thực tế của người lao động (điều này một mặt sẽ tăng nguồn thu cho quỹ, đảm bảo được quyền lợi của người lao động.
- Thứ năm, có chính sách cụ thể đối với nhóm phi chính thức.
- Cần có chính sách giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng tham gia hệ thống ASXH của nhóm phi chính thức..
- Nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của lao động nhóm này rất lớn, họ cũng muốn đóng cao để hưởng mức cao nhưng khả năng đóng góp lại rất hạn chế..
- Đây lại là đối tượng đang được hưởng rất ít các chương trình phúc lợi xã hội.
- Vì vậy, cần cải cách mạnh mẽ thủ tục tham gia và thanh toán BHXH (điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người lao động nhóm này dễ dàng tiếp cận và tham gia).
- tham gia BHXH tự nguyện lần đầu.
- bỏ qua công đoạn thẩm tra nguồn thu nhập với những người tham gia.
- đẩy mạnh các chương trình việc làm, tiếp cận các nguồn lực phát triển kinh tế, xã hội....
- Thứ sáu, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về các chính sách ASXH.
- Tuyên truyền chú trọng đến các nhóm người nghèo, nhóm dân số trẻ, nhóm lao động di cư, nhóm dân số có trình độ nhận thức thấp ở những vùng nông thôn và vùng kém phát triển.
- Cần giúp người dân nhận thức được rằng, tham gia BHXH, BHYT, BHTN là lợi ích tương lai của chính mình.
- việc không ký kết hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao động sẽ gây thiệt hại cho chính mình, đồng thời tiếp tay cho chủ sử dụng lao động vi phạm pháp luật.
- Cần giúp người dân nhận thức được rằng, nếu phát hiện những bất cập trong các chính sách ASXH, người lao động có thể thông qua các kênh khác nhau để đề đạt nguyện vọng của mình (như gặp trực tiếp đại diện cơ quan chức năng, qua báo đài.
- Sự phản hồi trực tiếp của người lao động là yếu tố quan trọng để các cơ quan quản lý tiến hành tìm các giải pháp khắc phục kịp thời phù hợp.
- Có như vậy thì chúng ta mới đảm bảo CBXH tốt hơn, qua đó mới giữ được ổn định và phát triển bền vững xã hội..
- [1] Mai Ngọc Cường (Chủ biên) (2009), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- Chính trị quốc gia (2013), Những thách thức và giải pháp đối với chính sách an sinh xã hội bền vững cho tất cả mọi người tại Việt Nam và Đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- [5] Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2012), Chính sách xoá đói giảm nghèo thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- [6] Vũ Văn Phúc (Chủ biên) (2012), An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- [7] Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày về chiến lược phát triển ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội..
- [8] Phạm Thị Ngọc Trầm (2009), Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt