« Home « Kết quả tìm kiếm

Bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Tóm tắt: Bảo đảm an sinh xã hội là một chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo phát triển đất nước.
- Mặc dù, trong thời gian qua, hệ thống chính sách đảm bảo an sinh xã hội của nước ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập cần tiếp tục phải cải thiện, khắc phục để đảm bảo chính sách được thực hiện hiệu quả.
- Việc nghiên cứu, đưa ra những chính sách và giải pháp khả thi, nhằm tăng cường, đảm bảo tính bền vững của hệ thống an sinh xã hội Việt Nam trong thời gian tới là một yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay..
- Từ khoá: An sinh xã hội, phát triển bền vững, bảo trợ xã hội, trợ giúp xã hội..
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đã nêu rõ: phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đồng thời “thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước.
- và từng chính sách phát triển”.
- Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước.
- Hiện nay, nước ta đang phấn đấu đến năm 2020 có hệ thống an sinh xã hội bao phủ khắp toàn dân.
- Bài viết phân tích, làm rõ những kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội.
- đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội phù hợp với phát triển kinh tế bền vững và bảo đảm quyền an sinh xã hội cho người dân trong thời gian tới..
- Kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Thứ nhất, bảo đảm an sinh xã hội gắn với tiến bộ và phát triển xã hội, với thành tựu phát triển kinh tế trong bối cảnh kinh tế thị.
- Trong thời gian qua, mặc dù có nhiều biến động về kinh tế trong nước và quốc tế, nguồn lực của đất nước còn hạn hẹp, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn coi trọng công tác bảo đảm an sinh xã hội, đặt nhiệm vụ phát triển dân sinh trong mối tương quan hài hòa và gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế, giữa đầu tư phát triển kinh tế với đầu tư bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội..
- Dù còn có những hạn chế và bất cập so với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, nhưng kết quả, thành tích mà Việt Nam đạt được về phát triển giáo dục, chăm lo sức khỏe cộng đồng, thực hiện bảo hiểm y tế cho người dân, khám, chữa bệnh cho người nghèo, chăm sóc các bà mẹ và trẻ em, cũng như những nỗ lực giải quyết việc làm, cải thiện mức sống và điều kiện sống cho dân cư, cứu trợ xã hội và thực hiện phúc lợi xã hội, quan tâm tới các đối tượng yếu thế.
- là những minh chứng về những tiến bộ đáng kể thực hiện an sinh xã hội..
- Thứ hai, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện để bảo đảm quyền an sinh xã hội cho mọi người dân.
- Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền an sinh xã hội cơ bản cho người dân (Điều 34:.
- “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”.
- Điều 59: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”)..
- tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế trên thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm.
- tiếp tục mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đều bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp).
- Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi (năm 2014) mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động làm việc có hợp đồng từ 1 tháng trở lên.
- tăng cường chế tài đối với việc trốn đóng bảo hiểm xã hội.
- hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh.
- đề xuất giải pháp khuyến khích người lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội.
- hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội..
- Thứ ba, đầu tư của Nhà nước cho an sinh xã hội ngày càng tăng.
- Nếu như năm 2012 tổng chi cho an sinh xã hội bằng 5,88% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thì đến năm 2015 con số này tăng lên khoảng trên 6,6% GDP.
- Mặc dù trong điều kiện kinh tế khó khăn, Đảng và Nhà nước không giảm đi bất cứ một chính sách, khoản chi nào dành cho an sinh xã hội mà còn tăng lên.
- thực hiện hiệu quả các chính sách xã hội từ nhiều nguồn lực, trong đó các nguồn lực chính là nguồn lực nhà nước, nguồn lực từ bên ngoài, nguồn lực xã hội từ các doanh nghiệp, tổ chức và nguồn lực từ trong nhân dân..
- tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội đạt 23,35%, tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt 19,7% [2].
- Về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp: đến quý III/2016, có người (chiếm 23,35% lực lượng lao động) tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó bảo hiểm xã hội bắt buộc có người và bảo hiểm xã hội tự nguyện có 194.000 người.
- Trong 9 tháng đầu năm 2016, có 6,2 triệu lượt người lao động và thân nhân được giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội (chưa bao gồm lực lượng vũ trang), tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2015.
- trong đó 105.367 người hưởng bảo hiểm xã hội (BHXH) hàng tháng, 511.253 lượt người hưởng chế độ trợ cấp một lần lượt người.
- Về trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: đến cuối năm 2015, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 31.000 tấn gạo cứu đói cho gần 2.100.000 lượt người ở 21 tỉnh, tập trung ở các tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Bình Định, Quảng Bình.
- Hàng tháng trợ cấp tiền mặt và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trên 2.643.000 đối tượng (37.348 trẻ mồ côi, 88.594 người đơn thân nuôi con thuộc hộ nghèo người trên 80 tuổi, 896.644 người khuyết tật, 69.257 gia đình, cá nhân chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng, 8.185 người có HIV thuộc hộ nghèo).
- Cả nước hiện có 408 cơ sở trợ giúp xã hội nuôi dưỡng, chăm sóc trên 41.400 đối tượng, trong đó số đối tượng bị.
- Chương trình phát triển nhà ở xã hội dành cho công nhân khu công nghiệp, đã xây dựng 28.550 căn hộ và đang tiếp tục xây dựng 69.300 căn hộ.
- Chương trình nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị, đã xây dựng 25.850 căn hộ và tiếp tục xây dựng khoảng 61.290 căn hộ.
- Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, song vẫn còn những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện các chính sách xã hội.
- Mặc dù chiến tranh đã kết thúc hơn 40 năm trước, nhưng hậu quả của nó để lại vẫn còn nặng nề, đối tượng trợ giúp xã hội còn nhiều.
- Xu hướng già hóa dân số nhanh hơn dự kiến đặt ra những thách thức về chi phí liên quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và chính sách an sinh xã hội.
- Hệ thống chính sách an sinh xã hội hiện hành còn phân tán, manh mún, thiếu sự gắn kết, chưa khuyến khích người dân tích cực tham gia.
- Hiệu quả chính sách còn hạn chế..
- chênh lệch giàu - nghèo về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội giữa các vùng, nhóm dân cư có xu hướng gia tăng, nhất là giữa khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên với các vùng còn lại.
- Đa số lao động phi chính thức chưa tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
- gần 4,415 triệu người từ 55 tuổi trở lên hưởng an sinh tuổi già (gồm 2,2 triệu người hưởng chế độ hưu trí, 1,6 triệu người già trên 80 tuổi và 670 người cao tuổi thuộc hộ nghèo được hưởng trợ cấp tuổi già) [3].
- công tác trợ giúp đột xuất có phạm vi hẹp, huy động nguồn lực xã hội khó khăn, điều phối còn bất cập.
- Triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo còn chậm.
- Nhận thức về vai trò của an sinh xã hội ở không ít cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân chưa đúng và chưa đầy đủ, còn coi an sinh xã hội là trách nhiệm riêng của Nhà nước, tư tưởng trông chờ vào Nhà nước, vào Trung ương còn nặng nề..
- Năng lực xây dựng chính sách an sinh xã hội còn hạn chế.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, luật pháp, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách an sinh xã hội chưa được quan tâm đúng mức..
- Quản lý nhà nước về an sinh xã hội chưa tốt do quá nhiều chính sách, lại được ban hành ở nhiều giai đoạn khác nhau, áp dụng cho nhiều nhóm đối tượng khác nhau nên chồng chéo, thiếu tính hệ thống, gây khó khăn cho việc quản lý chính sách an sinh xã hội và đối tượng thụ hưởng các chính sách đó..
- Việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội ở các cấp, nhất là cấp cơ sở còn yếu.
- Nguồn lực cho thực hiện chính sách an sinh xã hội còn hạn hẹp, mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước còn thấp, phân tán, chưa đúng đối tượng.
- thiếu sự phối hợp, lồng ghép trong việc thực hiện các chính sách.
- chưa huy động hết sự tham gia từ cộng đồng, thiếu chính sách khuyến khích người dân tự an sinh, người nghèo tự vươn lên thoát nghèo..
- Một số thách thức đặt ra đối với việc bảo đảm an sinh xã hội hiện nay.
- tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tăng chậm.
- chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở chậm được triển khai.
- Thứ ba, hệ thống chính sách an sinh xã hội còn cồng kềnh, chồng chéo.
- Chủ trương tích hợp hệ thống chính sách cũng như việc lồng ghép thực hiện chính sách cho cùng một nhóm hưởng thụ cũng chưa được triển khai..
- Thứ tư, một số chương trình an sinh xã hội chưa thực sự hiệu quả.
- Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, các chương trình trợ giúp xã hội còn phân tán về đối tượng, kinh phí, tổ chức thực hiện..
- Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách về an sinh xã hội ở một số địa phương còn yếu, hình thức thông tin, tuyên truyền chưa hiệu quả..
- Thứ năm, việc bảo đảm an sinh tối thiểu cho người dân gặp nhiều khó khăn, thách thức, do số lượng các chương trình an sinh xã hội hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu về an sinh của.
- phạm vi bao phủ của chính sách an sinh xã hội bị hạn hẹp, chỉ phục vụ cho một nhóm dân cư, thông thường là nhóm dân cư.
- “khỏe hơn, tốt hơn” trong xã hội.
- Thứ sáu, sự tham gia của cơ quan, đoàn thể và xã hội, huy động nguồn lực cho thực hiện chính sách chưa tốt, còn phân tán..
- Nhận thức về vai trò của an sinh xã hội của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân chưa đúng và chưa đầy đủ, còn tư tưởng trông chờ vào Nhà nước, vào Trung ương về chính sách và kinh phí.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, luật pháp, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện an sinh xã hội chưa được quan tâm đúng mức..
- Công tác xã hội hóa, huy động sự tham gia đóng góp của khu vực tư nhân còn nhiều bất cập, chưa phát huy hết tiềm năng tham gia của người dân, doanh nghiệp và các đối tác xã hội..
- Các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội.
- Thứ nhất, tiếp tục bảo đảm mục tiêu, định hướng an sinh xã hội đến năm 2020..
- Bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
- Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội, đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của cá nhân, hộ.
- gia đình, người lao động, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc bảo đảm an sinh xã hội theo tinh thần xã hội hóa, tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm các điều kiện sống của họ..
- Bảo đảm an sinh xã hội cho người dân là một chủ trương đúng đắn và xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo đất nước.
- Phát triển an sinh xã hội là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, góp phần quan trọng tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh..
- Do vậy, đến năm 2020 chúng ta cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân, bảo đảm cho người dân tiếp cận đến các chính sách việc làm, giảm nghèo, tham gia bảo hiểm xã hội, hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu nhập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo.
- tăng cường các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng của nhân dân..
- Thứ hai, hoàn thiện thị trường lao động, phát triển việc làm, bảo đảm an sinh xã hội bền vững.
- Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, các chính sách và giải pháp bảo đảm an sinh xã hội..
- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật về an sinh xã hội, trong đó cần nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Việc làm, Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Cứu trợ xã hội, Luật Ưu đãi xã hội.
- nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật về an sinh xã hội cộng đồng, nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định, chính sách, chế độ an sinh xã hội.
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách hiện hành về an sinh xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, hệ thống hỗ trợ tích cực.
- Phối hợp đồng bộ chính sách an sinh xã hội với các chính sách kinh tế - xã hội khác, như: chính sách việc làm, chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện các chương trình hỗ trợ tích cực, các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững.
- tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng và vùng đặc thù..
- Thứ tư, tăng cường huy động các nguồn lực cho chính sách an sinh xã hội.
- Tăng chi ngân sách nhà nước về an sinh xã hội đạt mức trung bình khu vực Đông Nam Á (7%.
- GDP) kết hợp với huy động đóng góp của người dân, doanh nghiệp và xã hội cho an sinh xã hội.
- Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đa dạng các mô hình an sinh xã hội, các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào sự tham gia của cộng đồng (các đoàn thể địa phương, các nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia đình, dòng họ, cá.
- trong việc cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội, thực hiện các hoạt động nhân đạo, giúp đỡ, chia sẻ rủi ro đối với những nhóm yếu thế, những đối tượng đặc thù..
- Tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm của các nước trong xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội..
- Những năm gần đây, cùng với những thành tựu đổi mới kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn để thực hiện an sinh xã hội, chăm lo cải thiện, nâng cao đời sống của người dân..
- Các chương trình an sinh xã hội của Việt Nam đã thu được những kết quả rất quan trọng, được dư luận quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, nhất là xóa đói giảm nghèo cho nông dân, đặc biệt ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Tuy nhiên, để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã hội và an sinh xã hội trong điều kiện thực hiện quan điểm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, Việt Nam cũng đang.
- Để thực hiện tốt mục tiêu này, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ hệ thống an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế trong từng chính sách, mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước..
- [1] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2016), Báo cáo tình hình thực hiện chính sách an sinh xã hội trình Chính phủ tháng 12 năm 2016, Hà Nội..
- [2] Hoàng Văn Cương (2014), Báo cáo trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hoàn thiện chính sách thu hẹp bất bình đẳng xã hội ở Việt Nam, tháng 9 năm 2014, Hà Nội.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt