intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

129
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau gần 30 năm đổi mới, cơ cấu xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Biến đổi cơ cấu xã hội đi liền với phân tầng xã hội ngày càng sâu sắc, gia tăng mạnh mẽ bất bình đẳng xã hội. Trước thực tế này, yêu cầu đặt ra là phải có chính sách quản lý, chính sách an sinh và phúc lợi phù hợp nhằm phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam...<br /> <br /> BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI VIỆT NAM<br /> TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI<br /> NGUYỄN VĂN KHÁNH *<br /> NGUYỄN TUẤN ANH **<br /> <br /> Tóm tắt: Sau gần 30 năm đổi mới, cơ cấu xã hội Việt Nam đã có nhiều thay<br /> đổi. Biến đổi cơ cấu xã hội đi liền với phân tầng xã hội ngày càng sâu sắc, gia tăng<br /> mạnh mẽ bất bình đẳng xã hội. Trước thực tế này, yêu cầu đặt ra là phải có chính<br /> sách quản lý, chính sách an sinh và phúc lợi phù hợp nhằm phát triển bền vững<br /> kinh tế - xã hội của đất nước.<br /> Từ khóa: Cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế<br /> Việt Nam đã trải qua hai dấu mốc quan<br /> trọng trong quá trình phát triển. Thứ<br /> nhất, năm 2007, Việt Nam trở thành<br /> thành viên chính thức thứ 150 của Tổ<br /> chức Thương mại Thế giới, mở đầu một<br /> giai đoạn hội nhập mới của nền kinh tế<br /> Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu. Trên<br /> thực tế, nền kinh tế Việt Nam đã gia<br /> tăng mức độ hội nhập quốc tế, với sự<br /> hiện diện của các công ty trên thị trường<br /> toàn cầu, các công ty đa quốc gia sản<br /> xuất hàng hoá ở Việt Nam, và giao dịch<br /> tài chính ngày càng quốc tế hoá. Đồng<br /> thời, lao động Việt Nam cũng tiến vào<br /> thị trường toàn cầu với việc ngày càng<br /> nhiều người Việt Nam đến làm việc tại<br /> các nước trên thế giới. Thứ hai, năm<br /> 2010, sau 25 đổi mới, Việt Nam từ một<br /> quốc gia nghèo nhất thế giới với thu<br /> nhập bình quân đầu người dưới 100 đô<br /> la Mỹ đã trở thành quốc gia có thu nhập<br /> trung bình thấp(1).<br /> Hai chỉ báo quan trọng này không chỉ<br /> <br /> chứng tỏ sự phát triển vượt bậc, toàn<br /> diện của Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực<br /> kinh tế, mà còn chứng tỏ rằng xã hội Việt<br /> Nam còn đang chuyển biến nhanh chóng<br /> về mặt cấu trúc trong bối cảnh toàn cầu<br /> hóa mạnh mẽ hiện nay. Thực tiễn đang<br /> đặt ra là phải nhận thức sâu sắc quá trình<br /> chuyển biến này để có chính sách, giải<br /> pháp quản lý phù hợp nhằm giữ vững ổn<br /> định xã hội và tiếp tục phát triển đất<br /> nước. Bài viết phân tích nội dung và xu<br /> hướng của sự biến đổi này và nêu ra một<br /> vài gợi ý về mặt chính sách.(1)<br /> 2. Biến đổi cơ cấu xã hội<br /> Cơ cấu xã hội hay cấu trúc xã hội<br /> (social structure) là mối quan hệ qua lại<br /> có trật tự giữa các thành tố khác nhau<br /> của một hệ thống xã hội hay một xã<br /> Giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã<br /> hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.<br /> (**)<br /> Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học khoa học<br /> xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.<br /> (1)<br /> The World Bank, "Tổng Quan về Việt Nam"<br /> (http://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/<br /> overview).<br /> (*)<br /> <br /> 87<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014<br /> <br /> hội(2). Nói đến cơ cấu xã hội/hay cấu<br /> trúc xã hội là đề cập đến cách mà các<br /> nhóm xã hội cơ bản (hay còn gọi là các<br /> bộ phận/các thành phần chủ yếu của một<br /> hệ thống xã hội cụ thể) liên hệ/quan hệ<br /> với nhau. Thông thường, khi nói đến cơ<br /> cấu xã hội, các nhà nghiên cứu chú ý<br /> đến các loại cơ cấu xã hội quan trọng/cơ<br /> bản như: cơ cấu giai cấp, cơ cấu nghề<br /> nghiệp, cơ cấu nhân khẩu, cơ cấu lãnh<br /> thổ, cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn giáo.<br /> Biến đổi cơ cấu xã hội hay biến đổi<br /> cấu trúc xã hội ở Việt Nam trong đổi<br /> mới rất đáng chú ý, nhất là trên hai<br /> phương diện. Thứ nhất là, sự thay đổi về<br /> số lượng và chất lượng của các nhóm xã<br /> hội chủ yếu trong xã hội. Thứ hai là, sự<br /> thay đổi của mối quan hệ qua lại giữa<br /> các nhóm cơ bản này. Sự thay đổi trên<br /> hai phương diện đó phản ánh cơ hội<br /> phát triển, nhất là trong vấn đề nguồn<br /> nhân lực, nguồn vốn con người - cơ sở<br /> quan trọng nhất của phát triển kinh tế xã hội đất nước.<br /> Trong 30 qua, Việt Nam đã từ bỏ nền<br /> kinh tế tập trung quan liêu bao cấp để<br /> xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần<br /> định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh<br /> công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ<br /> động, tích cực, hội nhập quốc tế. Quá<br /> trình này đã dẫn đến sự thay đổi của cơ<br /> cấu xã hội. Xét về mặt cơ cấu giai cấp<br /> đã có những thay đổi sâu sắc trong tất cả<br /> các thành phần giai cấp, từ giai cấp công<br /> nhân, nông dân, đến tầng lớp trí thức.<br /> Giai cấp công nhân đã có những<br /> bước phát triển cả về số lượng và chất<br /> lượng. Về mặt số lượng, theo số liệu của<br /> 88<br /> <br /> Tổng cục Thống kê, nếu năm 2005, số<br /> lượng người lao động làm việc trong các<br /> loại hình doanh nghiệp trên cả nước chỉ<br /> khoảng 6,07 triệu thì con số này tăng lên<br /> đến 7,94 triệu năm 2008; 8,70 triệu năm<br /> 2009; 9,83 triệu năm 2010 và 10,89<br /> triệu năm 2011(3). Như vậy, chỉ trong<br /> vòng 6 năm, từ năm 2005 đến 2011, số<br /> lao động trong các doanh nghiệp trên cả<br /> nước đã tăng gần 5 triệu người. Về mặt<br /> chất lượng, công nhân qua đào tạo có<br /> tăng lên, nhưng tỷ lệ không lớn. Chỉ tính<br /> 4 năm, từ 2009 đến 2012, tỷ lệ lao động<br /> từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo và đang<br /> làm việc trong nền kinh tế tương ứng là<br /> 14,8%; 14,6%; 15,4%; và 16,6%(4).<br /> Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù chỉ<br /> chiếm khoảng 11% tổng số dân cư của<br /> cả nước, nhưng lực lượng này đã làm ra<br /> phần lớn sản phẩm của xã hội, ước tính<br /> chiếm khoảng 60% tổng sản phẩm xã<br /> hội và đóng góp hơn 70% ngân sách nhà<br /> nước(5). Đó là những chỉ báo minh<br /> chứng cho tầm quan trọng của giai cấp<br /> công nhân đối với nền kinh tế Việt Nam<br /> trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp<br /> hóa, hiện đại hóa hiện nay.<br /> (2)<br /> <br /> Scott, John and Gordon Marshall (2005),<br /> Oxford Dictionary of Sociology, Oxford: Oxford<br /> University Press, p. 644.<br /> (3)<br /> Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống<br /> kê, NxbThống kê, Hà Nội, tr. 210.<br /> (4)<br /> Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống<br /> kê, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.122.<br /> (5)<br /> Phạm Văn Nhuận (2013) "Có đúng là giai cấp<br /> công nhân hiện nay không còn sứ mệnh lịch sử?"<br /> Tạp chí Cộng sản (http://www.tapchicongsan.org.vn/<br /> Home/Xay-dung-giai-cap-cong-nhan/2013/24144/<br /> Co-dung-la-giai-cap-cong-nhan-hien-nay-khongcon-su.aspx).<br /> <br /> Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam...<br /> <br /> Giai cấp nông dân tăng mạnh về mặt<br /> số lượng song lại giảm tỷ trọng trong<br /> dân cư. Sự sụt giảm tỷ trọng nông dân<br /> trong dân cư phản ánh quá trình chuyển<br /> đổi lao động trong các lĩnh vực phi nông<br /> nghiệp. Ðại hội Hội Nông dân Việt Nam<br /> lần thứ VI được tổ chức vào ngày 1<br /> tháng 7 năm 2013 cho thấy, nông dân<br /> chiếm gần 70% dân số cả nước (khoảng<br /> 63 triệu người trong tổng số khoảng 90<br /> triệu người hiện nay), và hơn 50% lực<br /> lượng lao động xã hội. Số hội viên của<br /> Hội Nông dân Việt Nam có gần 10,5<br /> triệu người(6). Tuy nhiên, tỷ lệ nông dân<br /> giảm so với dân số cả nước là kết quả<br /> của các dòng di cư nông thôn/đô thị diễn<br /> ra rất mạnh mẽ trong quá trình đổi mới.<br /> Quá trình di dân từ nông thôn ra đô thị<br /> là quá trình biến người nông dân và con<br /> cái của họ thành người thị dân/người<br /> công nhân. Về chất lượng giai cấp nông<br /> dân, có hai chỉ báo quan trọng cần được<br /> nhấn mạnh. Thứ nhất, thành tựu to lớn<br /> của giai cấp nông dân trong việc đưa<br /> nước ta từ một nước thiếu lương thực ở<br /> giai đoạn trước đổi mới thành một nước<br /> xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới,<br /> nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu gạo.<br /> Thứ hai, Việt Nam đã đạt được những<br /> tiến bộ vượt bậc trong công cuộc xóa<br /> đói giảm nghèo. Đóng góp vào thành<br /> công này có nhiều nhân tố và thành<br /> phần xã hội, trong đó phải kể đến giai<br /> cấp nông dân. Tuy nhiên, cũng cần phải<br /> nói rằng, chất lượng của giai cấp nông<br /> dân, mà chỉ báo cơ bản là năng suất lao<br /> động của lực lượng này, còn có nhiều<br /> hạn chế. Mặc dù nông nghiệp, lâm<br /> <br /> nghiệp, thủy sản là lĩnh vực có số lao<br /> động lớn nhưng giá trị tổng sản phẩm<br /> nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản chỉ<br /> chiếm khoảng từ 18% đến 20% trong cơ<br /> cấu các khu vực kinh tế (bao gồm nông<br /> nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công<br /> nghiệp và xây dựng; dịch vụ)(7). Chất<br /> lượng sản phẩm nông nghiệp cũng chưa<br /> có tính cạnh tranh cao trên thị trường<br /> quốc tế - ngay cả đối với mặt hàng gạo<br /> xuất khẩu(8).<br /> Về tầng lớp trí thức, đây là lực lượng<br /> quan trọng trong quá trình phát triển nền<br /> kinh tế tri thức, đẩy mạnh công nghiệp<br /> hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều này<br /> được khẳng định trong Nghị quyết Hội<br /> nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung<br /> ương Đảng khóa X: “Trí thức Việt Nam<br /> là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt<br /> quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh<br /> công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước<br /> và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri<br /> thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam<br /> tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây<br /> dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực<br /> tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức<br /> mạnh của đất nước, nâng cao năng lực<br /> lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt<br /> động của hệ thống chính trị. Ðầu tư xây<br /> Nhân Dân (2013), "Xây dựng giai cấp nông<br /> dân Việt Nam vững mạnh" Báo Nhân Dân điện<br /> tử (http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/xa-luan/<br /> item/20668502-xay-dung-giai-cap-nong-dan-vietnam-vung-manh.html).<br /> (7)<br /> Tổng cục thống kê (2013), Niên giám thống<br /> kê, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 122.<br /> (8)<br /> "Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản",<br /> Báo Nhân Dân điện tử, (http://www.nhandan.com.vn/<br /> mobile/_mobile_kinhte/_mobile_hoinhap/item/127783<br /> 02.html).<br /> (6)<br /> <br /> 89<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014<br /> <br /> dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát<br /> triển bền vững”(9). Trên thực tế, tầng lớp<br /> trí thức Việt Nam đã có sự phát triển<br /> nhanh về số lượng và chất lượng. Về<br /> mặt số lượng, tỷ lệ người hoạt động<br /> chuyên môn, khoa học và công nghệ<br /> trong tổng số lao động 15 tuổi trở lên đã<br /> qua đào tạo và đang làm việc trong nền<br /> kinh tế (theo số liệu của Tổng cục<br /> Thống kê) là 63,4% năm 2009; 65,2%<br /> năm 2010; 73,0% năm 2011; và 75,9%<br /> năm 2012(10). Đối với lực lượng trí thức<br /> tinh hoa, được hiểu theo nghĩa hẹp là<br /> đội ngũ thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo<br /> sư, theo thống kê của Bộ Khoa học Công nghệ thì cả nước hiện có 24.300<br /> tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ. So với năm<br /> 1996, đội ngũ này tăng trung bình<br /> 11,6%/năm, trong đó tiến sĩ tăng<br /> 7%/năm, thạc sĩ tăng 14%/năm.(11) Về<br /> số lượng phó giáo sư, giáo sư, theo số<br /> liệu của Hội đồng chức danh Giáo sư<br /> Nhà nước thì từ năm 1976 đến năm<br /> 2013, tổng số giáo sư, phó giáo sư đã<br /> được công nhận ở nước ta là 10.453,<br /> trong đó có 1.569 giáo sư và 8.884 phó<br /> giáo sư(12). Nếu chỉ xét trong giai đoạn 5<br /> năm, từ năm 2009 đến năm 2013, sau 5<br /> đợt xét và công nhận đạt tiêu chuẩn<br /> chức danh giáo sư, phó giáo sư thì số<br /> lượng người đã được công nhận đạt tiêu<br /> chuẩn là 2.744 người, trong đó có 269<br /> giáo sư(13) chiếm 17% và 2475 phó giáo<br /> sư chiếm khoảng 1/3 tổng số người đã<br /> được bổ nhiệm hoặc công nhận đạt tiêu<br /> chuẩn chức danh này từ trước đến nay.<br /> Những con số trên đây chứng tỏ trong<br /> giai đoạn đổi mới, nhất là những năm<br /> gần đây, số lượng tầng lớp trí thức,<br /> trước hết là đội ngũ trí thức tinh hoa có<br /> 90<br /> <br /> trình độ chuyên môn cao (giáo sư, phó<br /> giáo sư) đã gia tăng nhanh chóng. Tuy<br /> nhiên, chưa có sự phù hợp giữa những<br /> người giữ các chức danh này và công<br /> việc của họ. Cụ thể là, trong lĩnh vực<br /> giáo dục và đào tạo (lĩnh vực hoạt động<br /> chủ yếu của các giáo sư, phó giáo sư) lại<br /> có tỷ lệ tương đối thấp. Theo số liệu của<br /> Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2012, số<br /> giảng viên đại học trong toàn quốc là<br /> gần 59.700, trong đó chỉ có 348 giáo sư<br /> và 2.224 phó giáo sư(14). Như vậy, một<br /> (13)<br /> <br /> Ban Chấp hành TW (2008), "Nghị quyết Hội<br /> nghị lần thứ bảy BCH TW khóa X về xây dựng<br /> đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH đất nước" Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt<br /> Nam, (http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/<br /> NewsDetail.aspx?co_id=30668&cn_id=243149).<br /> (10)<br /> Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám<br /> Thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 122.<br /> (11)<br /> Chi Mai (2014), "24.000 tiến sĩ Việt Nam đang<br /> làm gì?" Vietnamnet (http://vietnamnet.vn/ vn/giaoduc/164238/24-000-tien-si-viet-nam-dang-lam-gi.html).<br /> (12)<br /> Trần Văn Nhung (2013), "Báo cáo của GS.<br /> Trần Văn Nhung tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám",<br /> Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước<br /> (http://www.hdcdgsnn.gov.vn/news/detail/tabid/77/<br /> newsid/357/seo/Bao-cao-cua-GS-Tran-Van-Nhungtai-Van-Mieu-Quoc-Tu-Giam/language/vi-VN/<br /> Default.aspx).<br /> (13)<br /> Trần Văn Nhung (2013) "Báo cáo của GS.<br /> Trần Văn Nhung tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám",<br /> Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước<br /> (http://www.hdcdgsnn.gov.vn/news/detail/tabid/77<br /> /newsid/357/seo/Bao-cao-cua-GS-Tran-Van-Nhungtai-Van-Mieu-Quoc-Tu-Giam/language/vi-VN/<br /> Default.aspx).<br /> (14)<br /> Trần Văn Nhung (2013), "Báo cáo của GS.<br /> Trần Văn Nhung tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám",<br /> Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước<br /> (http://www.hdcdgsnn.gov.vn/news/detail/tabid/<br /> 77/newsid/357/seo/Bao-cao-cua-GS-Tran-VanNhung-tai-Van-Mieu-Quoc-Tu-Giam/language/viVN/Default.aspx).<br /> (9)<br /> <br /> Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam...<br /> <br /> số lượng lớn giáo sư, phó giáo sư –<br /> những người được bổ nhiệm để làm<br /> công việc giảng dạy ở bậc đại học lại<br /> không phải là giảng viên đại học. Đây là<br /> một tình trạng mất cân đối về mặt cơ<br /> cấu đội ngũ trí thức tinh hoa xét theo<br /> tiêu chí lĩnh vực công tác. Sự mất cân<br /> đối này dẫn đến suy giảm năng suất làm<br /> việc hay hạn chế về mặt chất lượng của<br /> đội ngũ giáo sư, phó giáo sư do không<br /> có môi trường làm việc phù hợp với<br /> chức danh được bổ nhiệm. Một trong<br /> những chỉ báo quan trọng phản ánh hạn<br /> chế của đội ngũ tri thức là số lượng còn<br /> khiêm tốn các bằng sáng chế, các bài<br /> báo được công bố trên những tạp chí<br /> chuyên ngành có uy tín của thế giới.<br /> Trong năm 2013, số lượng các bài báo do<br /> các nhà khoa học Việt Nam công bố trên<br /> các tạp chí chuyên ngành uy tín trên thế<br /> giới (thuộc thư mục ISI) chỉ khoảng 2100<br /> bài(15). Vấn đề đặt ra đối với tầng lớp trí<br /> thức hiện nay là phải làm sao để nâng<br /> cao hơn nữa năng suất và hiệu quả<br /> nghiên cứu khoa học - một trong những<br /> yếu tố quan trọng góp phần phát triển<br /> kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao<br /> vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.<br /> Về tầng lớp doanh nhân, Nghị quyết<br /> Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành<br /> Trung ương khóa IX (năm 2003) là văn<br /> bản đầu tiên của Đảng trong giai đoạn<br /> đổi mới đã khẳng định vai trò của doanh<br /> nhân và nhất quán chỉ đạo “coi trọng vai<br /> trò của các doanh nhân trong phát triển<br /> kinh tế - xã hội. Hoàn thiện khung pháp<br /> lý chung để các nhà doanh nghiệp yên<br /> tâm phát triển sản xuất - kinh doanh.<br /> Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối<br /> với các tổ chức hiệp hội các nhà doanh<br /> <br /> nghiệp”(16). Một trong những chủ trương<br /> quan trọng về phát triển đội ngũ doanh<br /> nhân là Nghị quyết số 09-NQ/TW của<br /> Bộ Chính trị ngày 9 tháng 12 năm<br /> 2011 về xây dựng và phát huy vai trò<br /> của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong<br /> thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện<br /> đại hóa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết<br /> đã chỉ ra rằng “Đội ngũ doanh nhân là<br /> lực lượng có vai trò quan trọng trong sự<br /> nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br /> đất nước. Xây dựng đội ngũ doanh nhân<br /> lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm<br /> chất, uy tín cao, sẽ góp phần tích cực<br /> nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh<br /> tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo<br /> đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế”(17).<br /> Trong 30 năm qua, số lượng doanh<br /> nhân đã tăng lên nhanh chóng. Theo<br /> Tổng cục Thống kê, số lượng doanh<br /> nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh<br /> gia tăng từ 106.616 doanh nghiệp năm<br /> 2005; 192.179 năm 2008; 236.584 năm<br /> 2009; 279.360 năm 2010; lên 324.691<br /> năm 2011(18), tăng hơn 3 lần so với năm<br /> 2005. Sự tăng trưởng nhanh về mặt số<br /> lượng của đội ngũ doanh nhân Việt Nam<br /> Nguyễn Văn Tuấn (2014), "Thống kê về giáo<br /> sư, tiến sĩ ở Việt Nam", nguyenvantuan.org<br /> (http://www.nguyenvantuan.org/tin-tuc/thong-ke-vegiao-su-tien-si-o-viet-nam.aspx#.U1c9TqJZr1Z).<br /> (16)<br /> http://www.dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/<br /> NewsDetail.aspx?co_id=30580&cn_id=36814<br /> (17)<br /> Ban Chấp hành Trung ương (2003), "Nghị quyết<br /> Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương<br /> Đảng khoá IX số 23-NQ/TW", Báo điện tử Đảng<br /> Cộng sản Việt Nam (http://www.dangcongsan.vn/<br /> cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=3058<br /> 0&cn_id=36814#)<br /> (18)<br /> Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống<br /> kê, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 202..<br /> (15)<br /> <br /> 91<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
49=>1