Lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ...<br />
<br />
LỢI ÍCH QUỐC GIA TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI<br />
CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI<br />
TRẦN NAM TIẾN*<br />
<br />
Tóm tắt: Việc xác định lợi ích quốc gia (LIQG) trong chính sách đối ngoại<br />
được xem là một hoạt động chính trị thường xuyên của các quốc gia độc lập<br />
trên thế giới. Trong hoạt động đối ngoại hiện nay, LIQG dân tộc ngày càng<br />
được công nhận là nguyên tắc tối thượng trong chính sách đối ngoại của các<br />
nước và của Việt Nam. Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt<br />
Nam đã nêu rõ, khi triển khai chính sách đối ngoại phải luôn luôn “vì LIQG,<br />
dân tộc” và “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Trên cơ sở<br />
nêu trên, bài viết tập trung nhìn lại quá trình xác định LIQG trong chính sách<br />
đối ngoại Việt Nam thời kỳ Đổi mới (1986) cho đến Đại hội Đảng toàn quốc<br />
lần thứ XI (2011), từ đó rút ra những đặc điểm, luận giải khoa học, góp phần<br />
phác thảo một số đường nét cơ bản chính sách đối ngoại của Việt Nam nhằm<br />
theo đuổi LIQG trong giai đoạn mới.<br />
Từ khóa: Việt Nam, lợi ích quốc gia, chính sách đối ngoại, Đổi mới.<br />
<br />
1. Khái niệm lợi ích quốc gia<br />
“Lợi ích quốc gia” (State’s Interest)<br />
là một trong những khái niệm cơ bản<br />
trong quan hệ quốc tế, là nhân tố hết sức<br />
quan trọng trong việc xác định chính<br />
sách đối ngoại của bất kỳ quốc gia nào<br />
và cũng là công cụ không thể thiếu để<br />
phân tích chính sách đối ngoại của quốc<br />
gia. Có thể nói, việc xác định LIQG<br />
trong hoạt động đối ngoại là một hoạt<br />
động chính trị thường xuyên của tất cả<br />
các nhà nước kể từ khi xuất hiện. LIQG<br />
bao gồm các mục tiêu chiến lược, đôi<br />
khi cả các công cụ thực hiện mục tiêu,<br />
mà quốc gia theo đuổi trên trường quốc<br />
tế. LIQG gia của một nước sẽ chỉ đạo<br />
các nguyên tắc, phương châm, chính<br />
sách đối ngoại và các hoạt động ngoại<br />
giao của quốc gia đó. Do đó, xác định<br />
đúng LIQG chính đáng là yếu tố rất quan<br />
<br />
trọng khi hoạch định và triển khai chính<br />
sách đối ngoại của quốc gia.(*)<br />
Việc hình thành LIQG là quá trình lịch<br />
sử lâu dài, phức tạp của việc kết hợp các<br />
nhân tố khác nhau như: chính trị, kinh tế,<br />
văn hóa, lịch sử, tâm lý, kinh nghiệm.<br />
LIQG là hiện tượng lịch sử - xã hội không<br />
thể tồn tại độc lập với nhận thức con<br />
người. Trong lịch sử, ngay khi con người<br />
bắt đầu xây dựng quan hệ quốc tế, người<br />
ta đã nhận thức được LIQG trong chính<br />
sách đối ngoại của quốc gia.<br />
Tuy nhiên đến tận năm 1935, khái<br />
niệm “lợi ích quốc gia” mới chính thức<br />
được sử dụng như một thuật ngữ khoa<br />
học đầu tiên trong giới khoa học Mỹ. Cuốn<br />
Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và<br />
Nhân văn - Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí<br />
Minh.<br />
(*)<br />
<br />
23<br />
<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013<br />
<br />
The International Relations Dictionary<br />
xuất bản ở Mỹ đưa ra khái niệm: “Lợi<br />
ích quốc gia là mục tiêu cơ bản và nhân<br />
tố quyết định cuối cùng trong việc<br />
hoạch định chính sách đối ngoại. Lợi<br />
ích quốc gia là khái niệm có tính khái<br />
quát hóa cao bao gồm những nhu cầu<br />
sống còn của quốc gia đó. Đó là tự bảo<br />
vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh<br />
quân sự và thịnh vượng về kinh tế”(1).<br />
Hiện nay, bên cạnh LIQG còn có lợi ích<br />
dân tộc (LIDT) và LIQG - dân tộc.<br />
LIDT thường được hiểu là lợi ích của tất<br />
cả mọi người dân của một nước. LIQG<br />
được hiểu là lợi ích của giai cấp cầm<br />
quyền đại diện cho quốc gia. LIQG dân tộc được hiểu theo hướng tổng hợp<br />
cả hai khái niệm trên(2).<br />
Ở Việt Nam, các khái niệm LIQG,<br />
LIDT hay LIQG - dân tộc thường được<br />
xác định là có chung nội hàm và được<br />
sử dụng thay thế lẫn nhau. Theo Từ điển<br />
Thuật ngữ Ngoại giao do Học viện<br />
Quan hệ quốc tế xuất bản năm 2002, thì<br />
LIQG là: “lợi ích chung của cộng đồng<br />
những người sống trên một đất nước, có<br />
chung nguồn gốc, lịch sử, phong tục tập<br />
quán và phần nhiều còn chung cả tiếng<br />
nói, chữ viết”(3).<br />
2. Quan điểm của Đảng về lợi ích<br />
quốc gia trong chính sách đối ngoại từ<br />
khi đổi mới đến nay<br />
Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước<br />
yêu cầu cấp bách phải nhanh chóng vượt<br />
ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế,<br />
phá thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa<br />
đế quốc và các thế lực thù địch, đường<br />
lối mở rộng quan hệ đối ngoại và hội<br />
nhập quốc tế, trước hết trong lĩnh vực<br />
kinh tế ngày càng được bổ sung, hoàn<br />
thiện, đồng thời được thực hiện tích cực<br />
24<br />
<br />
hơn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI<br />
(12-1986) mở ra bước ngoặt trong tư<br />
duy và thực tiễn hoạt động đối ngoại của<br />
Đảng, Nhà nước ta. Đại hội chỉ rõ:<br />
“Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc<br />
với sức mạnh của thời đại, nước ta phải<br />
tham gia sự phân công lao động quốc<br />
tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô,<br />
Lào và Campuchia, với các nước khác<br />
trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng<br />
thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế<br />
và khoa học - kỹ thuật với các nước thế<br />
giới thứ ba, các nước công nghiệp phát<br />
triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân<br />
nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng<br />
cùng có lợi”(4). Nghị quyết 13 của Bộ<br />
Chính trị (1988) khóa VI đã khẳng định:<br />
“Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân<br />
ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình<br />
để tập trung sức xây dựng và phát triển<br />
kinh tế”(5). Có thể nói, Đại hội Đảng lần<br />
thứ VI đã mở ra một bước ngoặt phát<br />
triển cho đất nước, mở ra một quá trình<br />
đổi mới tư duy trên lĩnh vực đối ngoại,<br />
trong đó có việc xác định lại “lợi ích<br />
quốc gia - dân tộc” trong thời kỳ mới.<br />
(1)<br />
<br />
Jack C. Plano - Roy Olton (1982), The<br />
International Relations Dictionary, California:<br />
ABC-CLIO Santa Barbarra, Third Editions, p. 9.<br />
(2)<br />
Đặng Đình Quý (2010), “Bàn thêm về lợi ích<br />
quốc gia dân tộc trong hoạt động đối ngoại Việt<br />
Nam giai đoạn mới”, Tạp chí Nghiên cứu quốc<br />
tế, số 1 (80), tr. 115.<br />
(3)<br />
Dương Văn Quảng, Vũ Dương Huân (chủ<br />
biên), (2002), Từ điển thuật ngữ ngoại giao Việt Anh - Pháp, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr. 63.<br />
(4)<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện<br />
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự<br />
thật, Hà Nội, tr. 81.<br />
(5)<br />
Nguyễn Cơ Thạch (1990), “Những chuyển<br />
biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta”,<br />
Tạp chí Quan hệ quốc tế, số 1, tr. 7.<br />
<br />
Lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ...<br />
<br />
Những thay đổi quan trọng của tình<br />
hình thế giới (xu thế hòa hoãn trong<br />
quan hệ quốc tế, quá trình quốc tế các<br />
lực lượng sản xuất và hợp tác kinh tế<br />
giữa các quốc gia không phân biệt hệ tư<br />
tưởng và chế độ chính trị đang diễn ra<br />
mạnh mẽ) đã dẫn đến sự đổi mới tư duy<br />
của Đảng về mối quan hệ giữa LIQG và<br />
nghĩa vụ quốc tế. Sự thay đổi cơ bản khi<br />
bước vào thời kỳ đổi mới là, Đảng ta coi<br />
việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn<br />
định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi<br />
ích cao nhất của Tổ quốc. Trong đó,<br />
hoạt động đối ngoại hướng đến thực<br />
hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây<br />
dựng thành công và bảo vệ vững chắc<br />
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, qua<br />
đó “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi<br />
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã<br />
hội và bảo vệ Tổ quốc”(6). Về mối quan<br />
hệ giữa LIQG - dân tộc và lợi ích giai<br />
cấp, việc Việt Nam xây dựng thành<br />
công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập<br />
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển<br />
kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước<br />
mạnh cũng là cách tốt nhất để Việt Nam<br />
thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Trong nhận<br />
thức mới của Đảng ta, khi công cuộc đổi<br />
mới thành công, một nước Việt Nam ổn<br />
định và giàu mạnh sẽ là phần đóng góp<br />
quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân<br />
dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân<br />
chủ và phát triển(7).<br />
Ngay đầu thập niên cuối cùng của thế<br />
kỷ XX, Liên Xô và hệ thống xã hội chủ<br />
nghĩa rơi vào khủng hoảng trầm trọng,<br />
vấn đề quan hệ giữa LIQG và nghĩa vụ<br />
quốc tế càng được Đảng ta đặt ra một<br />
cách bức thiết. Đại hội Đảng toàn quốc<br />
lần thứ VII (6-1991) đã xác định nhiệm<br />
vụ đối ngoại là giữ vững hòa bình, mở<br />
<br />
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác nhất là<br />
hợp tác kinh tế, tạo điều kiện quốc tế<br />
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo<br />
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời<br />
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của<br />
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân<br />
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội(8). Có thể<br />
thấy, trong quá trình xác định LIQG thời<br />
kỳ đổi mới, Đảng ta đã đặt lên hàng đầu<br />
mục tiêu phát triển trong khi vẫn kiên<br />
định mục tiêu bảo đảm an ninh quốc gia.<br />
Tuy nhiên, cuối năm 1991, sự kiện<br />
Liên Xô tan rã và hệ thống xã hội chủ<br />
nghĩa sụp đổ đã tác động lớn đến Việt<br />
Nam. Trước tình hình đó, Hội nghị<br />
Trung ương 3 khóa VII (6-1992) đã<br />
khẳng định rõ vị trí của LIQG - dân tộc<br />
trong chính sách đối ngoại Việt Nam.<br />
Theo đó, mục tiêu “hòa bình và phát<br />
triển” trở thành chuẩn mực trong hoạt<br />
động quốc tế của Việt Nam và những<br />
chuẩn mực này phục vụ lợi ích cao nhất<br />
của dân tộc ta hiện nay là “nhanh chóng<br />
ra khỏi khủng hoảng, giữ vững và tăng<br />
cường ổn định chính trị, phát triển kinh<br />
tế - xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh,<br />
bảo vệ vững chắc độc lập và tự do của<br />
Tổ quốc”(9). Nghị quyết của Hội nghị chỉ<br />
rõ: “Tư tưởng chỉ đạo chính sách đối<br />
ngoại là giữ vững nguyên tắc vì độc lập,<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Sđd, tr. 99.<br />
Vũ Dương Huân (2007), “Về vấn đề đổi mới<br />
tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam”,<br />
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 1 (68), tr. 9-19.<br />
(8)<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện<br />
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự<br />
thật, Hà Nội, tr. 88.<br />
(9)<br />
Nguyễn Mạnh Cầm (2009), “Trên đường triển<br />
khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới”,<br />
trong sách Đổi mới về đối ngoại và hội nhập<br />
quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 65.<br />
(6)<br />
(7)<br />
<br />
25<br />
<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013<br />
<br />
thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng<br />
thời phải rất sáng tạo, năng động, linh<br />
hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và<br />
hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như<br />
diễn biến của tình hình thế giới và khu<br />
vực”(10). Hội nghị cũng đã đưa ra bốn<br />
phương châm xử lý các mối quan hệ đối<br />
ngoại, trong đó phương châm đầu tiên là<br />
“Bảo đảm LIDT chân chính”(11).<br />
Như vậy, có thể thấy giai đoạn 19861996 là thời gian định hình nhận thức<br />
của Đảng ta về LIQG mới, tập trung vào<br />
“sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội<br />
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.<br />
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ<br />
VIII (6-1996), Đảng ta đã đề ra chiến<br />
lược “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”<br />
đất nước tới năm 2020, trong đó về mặt<br />
đối ngoại phải: “giữ vững độc lập tự chủ<br />
đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa<br />
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối<br />
ngoại...”(12). Sự nghiệp công nghiệp hóa,<br />
hiện đại hóa đi đôi với quá trình hội<br />
nhập quốc tế, hội nhập khu vực đã tiếp<br />
tục thúc đẩy nhận thức của Đảng về<br />
LIQG trong thời kỳ đổi mới. Quan niệm<br />
của Đảng ta về lợi ích an ninh cũng<br />
chuyển biến từ an ninh truyền thống tới<br />
“an ninh toàn diện”(13). Tại Hội nghị<br />
Trung ương 8 khóa VIII (12-1998),<br />
Đảng ta đã đặt mục tiêu vì sự phát triển<br />
và bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, lợi<br />
ích dân tộc; tranh thủ điều kiện quốc tế<br />
thuận lợi phục vụ công cuộc công<br />
nghiệp hóa, hiện đại hóa, củng cố và<br />
nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế<br />
giới. Trong đó, việc “hội nhập kinh tế<br />
quốc tế” được xem là một bước quan<br />
trọng phục vụ cho mục tiêu “phát triển”<br />
của Việt Nam về mặt đối ngoại.<br />
26<br />
<br />
Như vậy, với phương châm chủ động<br />
hội nhập kinh tế quốc tế với mục tiêu và<br />
lộ trình phù hợp, hội nhập trên nguyên<br />
tắc bình đẳng, cùng có lợi, giữ vững độc<br />
lập, tự chủ, bản sắc văn hóa dân tộc,<br />
định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh<br />
quốc gia và ổn định đất nước, công tác<br />
đối ngoại của Đảng và ngoại giao Nhà<br />
nước từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ<br />
VIII đã chuyển hướng mạnh sang “phục<br />
vụ kinh tế”, gắn ngoại giao kinh tế với<br />
việc chủ động hội nhập kinh tế, thực<br />
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp<br />
hóa, hiện đại hóa đất nước.(10)Quan điểm<br />
này tiếp tục được Đại hội Đảng toàn<br />
quốc lần thứ IX kế thừa và phát triển:<br />
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và<br />
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa<br />
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc<br />
Hồng Hà (1992), “Tình hình thế giới và<br />
chính sách đối ngoại của ta”, Tlđd, tr. 10-14.<br />
(11)<br />
Bốn phương châm xử lý các mối quan hệ<br />
đối ngoại đó là: 1) Bảo đảm lợi ích dân tộc chân<br />
chính, kết hợp nhuẫn nhuyễn chủ nghĩa yêu<br />
nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công<br />
nhân; 2) Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự<br />
cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa<br />
quan hệ đối ngoại; 3) Nắm vững hai mặt hợp<br />
tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế vì LIDT<br />
chân chính của ta; 4) Tham gia hợp tác khu vực,<br />
đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước,<br />
đặc biệt coi trọng việc quan hệ cân bằng với các<br />
nước lớn. Xem Bùi Văn Hùng, 2011, Ngoại<br />
giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội<br />
nhập quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 39.<br />
(12)<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện<br />
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb<br />
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 84.<br />
(13)<br />
Nguyễn Nam Dương (2011), “Vấn đề lợi ích<br />
quốc gia, dân tộc trong hoạt động đối ngoại của<br />
Việt Nam đến năm 2020”, trong sách Đường lối<br />
chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn<br />
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 217.<br />
(10)<br />
<br />
Lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ...<br />
<br />
tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định<br />
hướng xã hội chủ nhĩa, bảo vệ LIDT, an<br />
ninh quốc gia”(14). Hội nghị Trung ương<br />
8 khóa IX (7-2003) xác định: Một là,<br />
bảo vệ vững chắc độc lập, tự chủ, thống<br />
nhất toàn vẹn lãnh thổ; Hai là, bảo vệ<br />
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã<br />
hội chủ nghĩa; Ba là, bảo vệ sự nghiệp<br />
đổi mới, hiện đại hóa đất nước; Bốn là,<br />
bảo vệ LIQG, dân tộc; Năm là, bảo vệ<br />
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội<br />
và nền văn hóa; Sáu là, giữ vững ổn<br />
định chính trị và môi trường hòa bình,<br />
phát triển đất nước theo định hướng xã<br />
hội chủ nghĩa”(15). Tuy Nghị quyết<br />
không phân loại lợi ích theo tiêu chí tầm<br />
quan trọng, nhưng có nhấn mạnh đến lợi<br />
ích ưu tiên. Đó là: “Kiên định mục tiêu<br />
độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã<br />
hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa<br />
bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã<br />
hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại<br />
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là<br />
lợi ích cao nhất của Tổ quốc”(16). Đại<br />
hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006)<br />
cũng nêu rõ, “lấy phục vụ lợi ích đất<br />
nước làm mục tiêu cao nhất”(17). Để<br />
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội làm cơ sở xác định LIQG - dân<br />
tộc nói trên, Đảng ta đã chỉ đạo xây<br />
dựng và triển khai chính sách đối ngoại<br />
được nêu rõ trong Đại hội Đảng lần thứ<br />
X: “Thực hiện nhất quán đường lối đối<br />
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác<br />
và phát triển; chính sách đối ngoại rộng<br />
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các<br />
quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực<br />
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở<br />
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực<br />
khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy<br />
<br />
của các nước trong cộng đồng quốc tế,<br />
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác<br />
quốc tế và khu vực v.v.. Nhiệm vụ của<br />
công tác đối ngoại là giữ vững môi<br />
trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc<br />
tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy<br />
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công<br />
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây<br />
dựng và bảo vệ Tổ quốc”(18). Thực tế<br />
triển khai thực hiện đường lối, chính<br />
sách đối ngoại của Đại hội Đảng toàn<br />
quốc lần thứ X cho rằng thấy hoạt động<br />
đối ngoại đã tập trung thực hiện tốt cả<br />
ba mục tiêu an ninh, phát triển và nâng<br />
cao vị thế đất nước, trong đó lấy lợi ích<br />
phát triển làm trung tâm.(19)<br />
Như vậy, trong giai đoạn 1996-2006,<br />
LIQG trong chính sách đối ngoại của<br />
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được<br />
định hình với những nội dung cơ bản,<br />
gắn liền với việc thực hiện thành công<br />
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển<br />
kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện<br />
đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ<br />
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện<br />
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb<br />
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 120.<br />
(15)<br />
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2003),<br />
Tài liệu học tập Nghị quyết Trung ương 8, khóa<br />
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 45-46.<br />
(16)<br />
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2003),<br />
Sđd, tr. 46-47.<br />
(17)<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện<br />
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb<br />
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 114.<br />
(18)<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Sđd, tr. 233.<br />
(19)<br />
Phạm Gia Khiêm (2007), “Đẩy mạnh triển<br />
khai thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách<br />
đối ngoại Đại hội X của Đảng”, trong sách<br />
Chính sách đối ngoại Việt Nam (lưu hành nội<br />
bộ), Nxb Thế giới, Hà Nội, tr. 124.<br />
(14)<br />
<br />
27<br />
<br />