Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11<br />
<br />
NGHIÊN CỨU<br />
Tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam<br />
thời kỳ đầu đến năm 1975<br />
(dưới góc nhìn của lý thuyết phức hệ)<br />
Nguyễn Duy Bình*<br />
Trường Đại học Vinh, 182 Lê Duẩn, Vinh, Nghệ An, Việt Nam<br />
Nhận ngày 03 tháng 11 năm 2014<br />
Chỉnh sửa ngày 11 tháng 01 năm 2015; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 01 năm 2015<br />
<br />
Tóm tắt: Phần đầu tiên của bài viết này sẽ giới thiệu chung về lý thuyết phức hệ và các khái niệm<br />
cơ bản của lý thuyết phức hệ (giao thoa nội chỉnh thể và giao thoa liên chỉnh thể, trung tâm và<br />
ngoại vi, phân tầng chuẩn và phân tầng phi chuẩn, hình mẫu sơ cấp và hình mẫu nhị cấp v.v...).<br />
Chúng tôi cũng sẽ trình bày những yếu tố cấu thành phức hệ và khả năng đóng góp của lý thuyết<br />
phức hệ trong việc nghiên cứu vị trí của văn học dịch trong một phức hệ văn học. Trên cơ sở đó,<br />
chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu quá trình tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam từ trước tới nay.<br />
Chúng tôi sẽ tìm hiểu các yếu tố như thể chế, văn chương, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ v.v... và<br />
chỉ rõ các yếu tố này giao thoa, tương tác với nhau như thế nào và tác động đến việc tiếp nhận văn<br />
học Pháp, từ đó làm nổi bật vị trí của hoạt động dịch văn học Pháp, về việc lựa chọn các tác phẩm<br />
dịch và về các chiến lược dịch văn học của các dịch giả Việt Nam.<br />
Từ khóa: Lý thuyết phức hệ, văn học dịch, giao thoa, văn học Pháp.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề∗<br />
<br />
dịch giả, coi “dịch là phản” và dịch giả là “kẻ<br />
nhai lại”. Đã có một số ít nhà nghiên cứu quan<br />
tâm nhưng các công trình của họ chỉ giới hạn ở<br />
nghiên cứu tuyến tính mà sao nhãng tính động,<br />
tính đa chiều, đa ngành của hoạt động này. Để<br />
phần nào bồi lấp lỗ hổng này, lý thuyết phức hệ<br />
(polysystem theory) có thể được xem là một lý<br />
thuyết khả quan bởi nó xem văn học dịch là một<br />
thể loại văn học với những đóng góp lớn lao<br />
cho nền văn học và văn hóa đích. Theo lý<br />
thuyết phức hệ, văn học dịch được xem như<br />
một hệ thống vận động trong sự tương tác của<br />
<br />
1.1. Ngày nay, không ai phủ nhận thực tế<br />
rằng văn học Pháp đã có ảnh hưởng rất lớn đến<br />
văn học và ngôn ngữ Việt Nam. Tuy nhiên, có<br />
thể khẳng định rằng lâu nay, hoạt động dịch văn<br />
học Pháp sang tiếng Việt được ít nhà nghiên<br />
cứu quan tâm đến bởi truyền thống văn hóa của<br />
chúng ta thường xem nhẹ văn học dịch và các<br />
<br />
_______<br />
∗<br />
<br />
ĐT.: 84-982812309<br />
Email: nguyendbinh@hotmail.com<br />
<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11<br />
<br />
các hệ thống khác như văn hóa, xã hội, chính<br />
trị, lịch sử... Nói cách khác, để có cái nhìn toàn<br />
diện hơn về vấn đề này, chúng ta phải đặt diễn<br />
ngôn văn học trong diễn trường của các diễn<br />
ngôn khác. Dưới ánh sáng của lý thuyết phức<br />
hệ, chúng ta có thể trả lời một cách thỏa đáng<br />
các câu hỏi sau: hoạt động dịch văn học Pháp<br />
đóng vị trí như thế nào trong nền văn học Việt<br />
Nam? Những yếu tố nào ảnh hưởng tới hoạt<br />
động đó? Những tác phẩm nào được chọn dịch?<br />
Trong bối cảnh văn hóa, xã hội, chính trị nào?<br />
Động cơ dịch thuật của các dịch giả là gì? Các<br />
tác giả, tác phẩm dịch được tiếp nhận ra sao?<br />
Trong giới hạn bài viết này, chúng tôi sẽ cố<br />
gắng chứng minh giả thuyết trên bằng việc khảo<br />
sát hoạt động dịch văn học Pháp ở Việt Nam<br />
theo dòng lịch sử: giai đoạn từ đầu đến năm<br />
1930, từ năm 1930 đến năm 1954, từ năm 1954<br />
đến năm 1975.<br />
1.2. Thuyết phức hệ ra đời vào những năm<br />
1970. Khái niệm phức hệ (polysystems) xuất<br />
hiện lần đầu tiên trong bài tham luận của Itamar<br />
Even-Zohar, giáo sư chuyên ngành thi pháp so<br />
sánh, văn học so sánh và nghiên cứu dịch thuật<br />
tại Trường Đại Học Tel-Aviv, tại Hội thảo về<br />
chủ đề “Lý luận về lịch sử văn học”. Về sau,<br />
nhiều nhà nghiên cứu khác đã theo hướng<br />
nghiên cứu này, có thể kể đến James Holmes,<br />
André Lefèvre, Susan Bassnett, Claudio<br />
Guillen, Pierre Brunel, Yves Chevrel, José<br />
Lambert... Thuyết phức hệ kế thừa chủ nghĩa<br />
hình thức Nga của những năm 1920 với những<br />
công trình nghiên cứu của Iouri Tynjanov và<br />
Roman Jakobson và khai thác triệt để lý thuyết<br />
về “trường” của Pierre Bourdieu.<br />
Itamar Even-Zohar định nghĩa thuyết phức<br />
hệ như sau:<br />
“Thuyết phức hệ là một kết cấu các hệ<br />
thống có thứ bậc, trong đó, các phân tầng khác<br />
nhau của toàn bộ phức hệ dịch chuyển và tương<br />
tác lẫn nhau. Trong phức hệ, nếu như vị trí cao<br />
<br />
nhất thuộc về một nền văn học cách tân thì phân<br />
tầng thấp thuộc về nền văn học thủ cựu. Mặt<br />
khác, nếu các hình thức thủ cựu nằm ở vị trí<br />
trên cùng thì các hình thức cách tân, đổi mới<br />
nằm ở phân tầng thấp. Nếu không thì đó sẽ là<br />
thời kỳ ngưng trệ.” [1]<br />
Thuyết phức hệ cho rằng văn học, trong đó<br />
có văn học dịch, là một hệ thống không biệt lập,<br />
nó nằm trong một kết cấu rộng hơn bao gồm<br />
nhiều hệ thống phi văn học khác như hệ thống<br />
tư tưởng, hệ thống văn hóa, hệ thống xã hội, hệ<br />
thống tôn giáo, hệ thống ngôn ngữ... Các hệ<br />
thống này tương tác, giao thoa lẫn nhau tạo nên<br />
sự biến chuyển vừa liên tục vừa linh hoạt về vị<br />
thế của từng hệ thống. Người ta gọi đó là giao<br />
thoa liên hệ thống. Trong từng hệ thống cũng có<br />
các tiểu hệ thống. Các tiểu hệ thống này cũng<br />
vận hành tương tự như các hệ thống trong phức<br />
hệ và sự giao thoa của chúng được gọi là sự<br />
giao thoa nội hệ thống. Giao thoa nội hệ thống<br />
có thể được hiểu là sự phân tầng (stratification)<br />
trong hệ thống, nó dựa trên sự đối lập giữa phân<br />
tầng chuẩn và phân tầng phi chuẩn. “Chuẩn” ở<br />
đây được hiểu là trội, là nòng cốt, là chủ đạo, là<br />
điển phạm.<br />
Sự đối lập giữa phân tầng chuẩn và phân<br />
tầng phi chuẩn tương ứng với sự đối lập giữa<br />
trung tâm và ngoại vi. Ở đây có sự đấu tranh<br />
của các phân tầng trong phức hệ văn học. Phân<br />
tầng nào mạnh, chuẩn mực, điển phạm thì<br />
chiếm lấy vị trí trung tâm, phân tầng nào yếu,<br />
không đáp ứng được các chuẩn mực đưa ra thì<br />
bị đẩy ra ngoại vi. Các phân tầng nằm ở ngoại<br />
vi không phải vì thế mà chịu nằm yên một chỗ.<br />
Chúng cố gắng thay đổi, vận động, biến chuyển<br />
để chuyển dịch về phía trung tâm của phức hệ.<br />
Nền văn học dân tộc (chính thống) và văn<br />
học dịch có thể được xem là hai hệ thống xung<br />
đột lẫn nhau trong phức hệ (từ đây, chúng tôi<br />
dùng danh từ phức hệ như là kết cấu các hệ<br />
<br />
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11<br />
<br />
thống). Lẽ tất nhiên, trong cuộc tranh giành vị<br />
trí giữa hai hệ thống này, văn học dịch thường<br />
yếu thế hơn và thường bị đẩy về phía ngoại vi.<br />
Nhưng cũng có những trường hợp văn học dịch<br />
chiếm lấy trung tâm phức hệ văn học và nó là<br />
yếu tố mang tính cách tân cho nền văn học dân<br />
tộc. Itamar Even-Zohar đưa ra ba trường hợp<br />
mà văn học dịch có thể giữ lấy vị trí trung tâm<br />
trong phức hệ văn học:<br />
a) Khi phức hệ văn học chưa kết tinh, tức là<br />
vẫn còn non trẻ. Văn học dịch đáp ứng nhu cầu<br />
của phức hệ văn học yếu kém này trong việc sử<br />
dụng ngôn ngữ mới được hình thành để tạo ra<br />
nhiều thể loại văn học nhất với mục đích biến<br />
ngôn ngữ đó thành một ngôn ngữ văn học thực<br />
thụ, đáp ứng nhu cầu của công chúng độc giả<br />
vừa mới lộ ra. Vì các nhà văn thuộc một nền<br />
văn học non trẻ chưa có khả năng sáng tác ngay<br />
tất cả các tác phẩm văn học, họ tận dụng kinh<br />
nghiệm của các nền văn học nước ngoài. Văn<br />
học dịch chính vì thế mà trở thành một trong<br />
những chỉnh thể quan trọng nhất.<br />
b) Khi một nền văn học đang nằm ở vị trí<br />
ngoại vi hoặc yếu kém. Những lỗ hổng của nền<br />
văn học đó sẽ được lấp đầy, toàn phần hoặc bán<br />
phần, bởi văn học dịch.<br />
c) Khi có những đột biến, khủng hoảng,<br />
hoặc khoảng trống trong văn học dân tộc [2].<br />
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ vận dụng<br />
một số khái niệm lý thuyết phức hệ nêu trên để<br />
tìm hiểu một cách sâu sát, trên cả bình diện lịch<br />
đại lẫn bình diện đồng đại, tiến trình tiếp nhận<br />
văn học Pháp ở Việt Nam vào thế kỷ XX.<br />
<br />
2. Tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam giai<br />
đoạn từ đầu đến 1930<br />
Từ năm 1884, năm mà Trương Minh Ký<br />
cho xuất bản cuốn Truyện Phan Sa diễn ra quốc<br />
<br />
3<br />
<br />
ngữ, cho đến những năm 1930, nhiều nhà<br />
nghiên cứu cho rằng dịch văn học chiếm vị trí<br />
trung tâm trong nền văn học Việt Nam. Alain<br />
Guillemin đánh giá đây là thời của các dịch giả<br />
(le temps des traducteurs) [3], Phạm Thế Ngũ<br />
cho rằng tất cả các nhà văn thuộc thế hệ này ít<br />
nhiều đều có dịch văn học [4], còn Trần Đình<br />
Hượu và Lê Chí Dũng thì nhận xét: “Chưa bao<br />
giờ công chúng được đọc cả một nền văn xuôi<br />
nước ngoài bằng tiếng mẹ đẻ nhiều đến như<br />
vậy” [5]. Sự lên ngôi của văn học dịch nói<br />
chung và dịch văn học Pháp nói riêng ở giai<br />
đoạn này có thể được giải thích bằng sự tương<br />
tác của nhiều hệ thống: hệ thống văn học dân<br />
tộc, hệ thống thể chế, hệ thống văn hóa - giáo<br />
dục, hệ thống báo chí. Nhận định này tương<br />
ứng với trường hợp (a) mà Even-Zohar đã đưa<br />
ra và chúng tôi đã trích dẫn ở trên.<br />
Cuộc khủng hoảng của nền văn học Việt<br />
Nam ở giai đoạn này được thể hiện ở cả nội<br />
dung lẫn hình thức. Khi các nhà văn, nhà thơ<br />
giai đoạn này, vốn đang bị giam hãm trong tập<br />
tính truyền thống, trong những hình thức và thể<br />
loại văn học cổ điển, bỗng tiếp xúc với những<br />
cách sống mới, những công nghệ mới, một cách<br />
tư duy mới đòi hỏi “tính chính xác, rõ ràng,<br />
logic, mối quan tâm về bố cục, thị hiếu sáng tạo<br />
và phát kiến” [6] thì họ cảm thấy vô cùng bỡ<br />
ngỡ, mất phương hướng và đôi khi bất lực trong<br />
một trường văn hóa đang ở giai đoạn chuyển<br />
tiếp, đang ở giai đoạn “Âu học vẫn chưa vin<br />
được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ”<br />
[7]. Bên cạnh đó, có thể nói giai đoạn này thực<br />
dân Pháp đã thôn tính Việt Nam (mặc dù có<br />
một số phong trào phản kháng như Phong trào<br />
Cần vương, Khởi nghĩa Yên Bái v.v…). Trước<br />
sức mạnh và chính sách nô dịch văn hóa của<br />
người Pháp, có một bộ phận trí thức An Nam<br />
chấp nhận sự hiện diện của họ và thậm chí cộng<br />
tác với họ, như Huỳnh Tịnh Của, Phạm Quỳnh,<br />
Nguyễn Văn Vĩnh... Sự thống trị của người<br />
Pháp dĩ nhiên có những tác động rất lớn đến<br />
quá trình tiếp biến văn hóa Pháp ở một bộ phận<br />
người Việt. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục,<br />
<br />
4<br />
<br />
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11<br />
<br />
được khởi xướng năm 1907, năm thành lập<br />
trường dạy học tư thục cùng tên, đã có ảnh<br />
hưởng rất lớn trong các tầng lớp nhân dân trong<br />
việc nâng cao dân trí, ý thức dân tộc, tinh thần<br />
yêu nước. Chủ trương dịch sách Đông Tây sang<br />
tiếng Việt của Đông Kinh Nghĩa Thục để giữ<br />
gìn và phát triển chữ quốc ngữ đã được đông<br />
đảo trí thức Việt Nam đón nhận. Cũng về lĩnh<br />
vực giáo dục, trong giai đoạn này, thực dân<br />
Pháp đã thành lập hai trường đào tạo thông<br />
ngôn: Trường Thông Ngôn được thành lập năm<br />
1860 tại Nam Kỳ và Trường Thông Ngôn Yên<br />
Phụ năm 1886. Mục đích thành lập của hai<br />
trường này là nhằm đào tạo thông ngôn cho các<br />
cơ quan hành chính của thực dân Pháp nhưng<br />
không phải vì thế mà học sinh của hai trường<br />
này khi ra trường không tham gia dịch văn học,<br />
đơn cử như Trương Minh Ký, Phạm Quỳnh,<br />
Nguyễn Văn Vĩnh, Đoàn Phú Tứ v.v... Nhìn<br />
vào chương trình của các trường học Pháp Việt<br />
giai đoạn này, chúng ta thấy những kiến thức về<br />
văn hóa, văn học và ngôn ngữ được chú trọng<br />
một cách rõ rệt. Việc thành lập trường đại học<br />
Pháp đầu tiên tại Việt Nam vào năm 1906 cũng<br />
không nằm ngoài ý đồ truyền bá tư tưởng chính<br />
trị, triết học và văn học Pháp của người Pháp.<br />
Có thể nói, trong những thập kỷ đầu của<br />
thế kỷ XX, ở Việt Nam đã có hầu hết các loại<br />
báo: công báo, báo, tạp chí, từ báo có bảo trợ<br />
của thực dân Pháp đến báo tư nhân. Gia Định<br />
báo, Lục tỉnh Tân văn, Đông Dương Tạp chí,<br />
Nam Phong Tạp chí, Thực nghiệp dân báo, Hữu<br />
Thanh tạp chí, Phụ nữ tân văn, An Nam tạp chí<br />
v.v… đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời<br />
sống văn hóa của Việt Nam hồi đó và đã trở<br />
thành mảnh đất phì nhiêu cho dịch văn học và<br />
triết học phát triển. Đặc biệt, chúng ta không<br />
thể không kể đến vai trò của Nam Phong Tạp<br />
chí và Đông Dương Tạp chí. Hai tạp chí này là<br />
nơi các dịch giả Pháp ngữ công bố các công<br />
trình dịch thuật văn học cũng như triết học:<br />
những Ronsard, Descartes, Boileau, Bossuet,<br />
Corneille, Molière, La Fontaine, Fénélon,<br />
<br />
những Pascal, Montesquieu, Diderot, Rousseau,<br />
Renan,<br />
Taine,<br />
Hugo,<br />
Bourget,<br />
Loti,<br />
Maupassant, France, Dumas đã được dịch và<br />
trích dịch trong các tạp chí này.<br />
Nội trong hệ thống dịch văn học cũng có sự<br />
tương tác của các tiểu hệ thống trào lưu và thể<br />
loại. Trong giai đoạn này, với cái nhìn toàn<br />
cảnh về văn học Pháp, chúng ta có thể thấy<br />
nhiều trào lưu, trường phái văn học: chủ nghĩa<br />
cổ điển, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng<br />
mạn, chủ nghĩa Dada, chủ nghĩa siêu thực...<br />
Thế nhưng, các dịch giả ở giai đoạn này gần<br />
như chỉ chọn các tác phẩm tiểu thuyết, kịch cổ<br />
điển và các tác phẩm thơ thuộc trường phái lãng<br />
mạn. Dưới góc nhìn của lý thuyết phức hệ, có<br />
thể nói chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng<br />
mạn chiếm vị trí trung tâm trong phức hệ văn<br />
học dịch Việt Nam giai đoạn này. Điều này có<br />
thể được giải thích bằng sự tương đồng về tư<br />
tưởng và mỹ cảm giữa các nhà văn cổ điển<br />
Pháp và các dịch giả Việt Nam cuối thế kỷ XIX<br />
đầu thế kỷ XX. Các tác phẩm văn học cổ điển<br />
Pháp thường có nội dung giáo huấn và do vậy<br />
được các dịch giả Việt Nam giai đoạn này chú<br />
trọng. Hẳn vì thế mà Tuồng Lôi Xích của<br />
Corneille, Người biển lận của Molière, Tê-lêmạc phiêu lưu ký của Fénélon, Những kẻ khốn<br />
nạn của Hugo, Ba chàng ngự lâm pháo thủ của<br />
Dumas đã được chọn dịch và đã rất được độc<br />
giả Việt Nam thời đó hoan nghênh. Vả lại,<br />
những bận tâm về vấn đề luân lý có thể giải<br />
thích tại sao những tác phẩm văn học Pháp đầu<br />
tiên được dịch sang tiếng Việt không phải là<br />
tiểu thuyết, truyện kể mà là ngụ ngôn La<br />
Fontaine. Có lẽ vì thế mà trong một bài báo<br />
đăng trên Nam Phong Tạp chí, số 27, tháng 5<br />
năm 1923, Vũ Đình Long có viết: “Hiển nhiên<br />
là đạo đức không đủ để tạo ra các giá trị thẩm<br />
mỹ, nhưng không có đạo đức thì không thể có<br />
giá trị thẩm mỹ. (...) Văn học phản đạo đức<br />
không phải là văn học. Tất cả những gì phản<br />
<br />
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11<br />
<br />
đạo đức là phản lại nghệ thuật” [16]. Bên cạnh<br />
sự gặp gỡ về đạo đức là sự tương đồng về tâm<br />
trạng giữa các nhà văn, nhà thơ Pháp thế kỷ<br />
XIX và giới văn nghệ sĩ và dịch giả Việt Nam<br />
đầu thế kỷ XX. Nếu như các nhà văn nhà thơ<br />
Pháp thế kỷ XIX chìm đắm trong nỗi đau thế kỷ<br />
(le mal du siècle) thì các nhà văn, nhà thơ cũng<br />
như một bộ phận tiểu tư sản Việt Nam bế tắc<br />
trong nỗi buồn thế hệ: u sầu, tuyệt vọng, vỡ<br />
mộng, hoang mang, cô đơn, chán nản... Tất cả<br />
như là hệ quả của chủ nghĩa cá nhân đúng nghĩa<br />
lần đầu tiên thâm nhập vào đời sống tình cảm,<br />
suy tư của thế hệ này. Về thể loại, chúng ta có<br />
thể dễ dàng nhận ra các dịch giả Việt Nam giai<br />
đoạn này có xu hướng dịch thơ hơn là dịch tiểu<br />
thuyết và kịch. Theo thống kê sơ bộ của chúng<br />
tôi, giai đoạn này có khoảng 50 người dịch thơ.<br />
Phần lớn không phải là nhà thơ. Các nhà thơ<br />
tham gia dịch thơ Pháp rất ít, gồm Á Nam Trần<br />
Tuấn Khải, Đông Hồ, Nguyễn Giang (con trai<br />
Nguyễn Văn Vĩnh). Tác phẩm thơ Pháp đầu<br />
tiên được dịch sang tiếng Việt là Ngụ ngôn La<br />
Fontaine, nếu có thể coi ngụ ngôn là thi phẩm.<br />
Còn về thơ đúng nghĩa, chúng ta có thể thống<br />
kê được khoảng 300 bài thơ của khoảng 60 nhà<br />
thơ Pháp được dịch từ năm 1917 đến năm 1937<br />
[6]. Đứng đầu là Lamartine, tiếp theo là Hugo,<br />
tiếp nữa là Musset, đứng thứ tư là Ronsard, thứ<br />
năm là Verlaine. Giai đoạn này, tiểu thuyết vẫn<br />
là một thể loại rất mới đối với người Việt, vốn<br />
chỉ quen với thể loại truyện. Tiểu thuyết đầu<br />
tiên được chuyển ngữ sang tiếng Việt là Tê-lêmạc phiêu lưu ký của Fénélon (năm 1889 bởi<br />
dịch giả Trương Minh Ký). Sau đó có một loạt<br />
tiểu thuyết phiêu lưu được dịch: Bá tước Môngxích-tô của Dumas do Vũ Công Nghi dịch năm<br />
1922, Truyện ba người ngự lâm pháo thủ của<br />
Dumas do Nguyễn Văn Vĩnh dịch năm 1926,<br />
Những sự bí mật của thành Ba Lê của Eugène<br />
Sue do Nguyễn Văn Thuộc dịch năm 1926<br />
v.v... Ngoài ra, các tiểu thuyết và truyện vừa<br />
<br />
5<br />
<br />
thuộc trào lưu hiện thực cũng được các dịch giả<br />
Việt Nam thời đó lựa chọn: Truyện miếng da<br />
lừa của Balzac, Những kẻ khốn nạn của Hugo<br />
do Nguyễn Văn Vĩnh dịch năm 1926, truyện<br />
của Maupassant như Cái bàn tay (La main<br />
gauche) được Dương Quảng Hàm dịch năm<br />
1921, Chuỗi hạt kim cương (La parure) được<br />
Vũ Văn Định dịch năm 1922, Truyện trên xe<br />
lửa (En voyage) được Phạm Quỳnh dịch năm<br />
1931 v.v... Về kịch, có thể nói, ý đồ ban đầu<br />
của các dịch giả như Phạm Quỳnh và Nguyễn<br />
Văn Vĩnh khi dịch kịch Pháp sang Việt ngữ là<br />
lấp đầy khoảng trống giữa tuồng, chèo của<br />
người An Nam và kịch Tây, để truyền bá nghệ<br />
thuật kịch của Pháp tại Việt Nam.<br />
Như vậy, những thập niên đầu thế kỷ XX,<br />
hoạt động dịch văn học, đặc biệt là dịch văn học<br />
Pháp, đã trở thành hoạt động văn hóa nổi trội<br />
nhất và đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong<br />
việc làm cầu nối giữa Pháp và Việt, tạo thuận<br />
lợi cho quá trình giao thoa văn hóa giữa hai<br />
nước: những gì mà văn học dịch và triết học<br />
dịch mang lại cho văn hóa và ngôn ngữ Việt<br />
Nam là vô cùng lớn lao, tạo tiền đề cho sự trỗi<br />
dậy của nền văn học dân tộc vào giai đoạn sau.<br />
<br />
3. Dịch văn học ở Việt Nam giai đoạn từ<br />
những năm 1930 đến 1954<br />
Khoảng từ những năm 1930 đến năm 1954,<br />
chúng ta chứng kiến sự thức dậy đầy hào khí<br />
của tinh thần quốc văn. Nếu như trước đó, văn<br />
học dân tộc yếu thế trước văn học dịch thì giai<br />
đoạn này văn học dân tộc trỗi dậy một cách<br />
mãnh liệt, đẩy văn học dịch ra phía ngoại vi của<br />
trường văn học Việt Nam. Tất cả các điều kiện<br />
gần như hội tụ để văn học dân tộc thay da đổi<br />
thịt và dịch chuyển từ vị trí ngoại biên vào vị trí<br />
trung tâm: sự ra đời của một thế hệ nhà văn mới<br />
(Phan Khôi, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng<br />
Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Lưu Trọng<br />
<br />