« Home « Kết quả tìm kiếm

Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định việc tham gia bảo hiểm trồng lúa của hộ nông dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An


Tóm tắt Xem thử

- CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH VIỆC THAM GIA BẢO HIỂM TRỒNG LÚA CỦA HỘ NÔNG DÂN HUYỆN.
- Với mục tiêu xác định các yếu tố tác động đến quyết định mua bảo hiểm trồng lúa, nghiên cứu này sử dụng hồi quy Logit cho dữ liệu phỏng vấn mặt đối mặt từ một trăm hộ nông dân tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
- Một số kết quả chính rút ra từ nghiên cứu: Các nông hộ có quan tâm đến mức phí bảo hiểm, và số người phụ thuộc vào nghề lúa càng nhiều thì xu hướng tham gia bảo hiểm càng tăng.
- Tuy nhiên, những hộ nông dân có diện tích canh tác lớn, năng suất cao và có nhiều năm kinh nghiệm ít sẵn lòng tham gia bảo hiểm.
- Các đặc điểm khác của hộ như tuổi chủ hộ, giới tính, không ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm..
- bảo hiểm trồng lúa.
- quyết định tham gia..
- Sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) đã được triển khai tại Việt Nam từ năm 1982..
- Theo báo cáo từ Bộ Tài chính (2009), chỉ khoảng 1% tổng diện tích cây trồng, 0,24% số trâu - bò, 0,1% đàn lợn và 0,04% số gia cầm được mua bảo hiểm..
- Doanh số bảo hiểm chỉ đạt khoảng 2,45 tỷ đồng vào năm 2010.
- Chỉ có 85% số hộ nghèo tham gia BHNN, dù được Nhà nước hỗ trợ 100% phí bảo hiểm (Phạm Thị Định, 2013)..
- Đây cũng chính là mục đích để tiến hành nghiên cứu này.
- Nghiên cứu sẽ tập trung vào sản phẩm bảo hiểm trồng lúa vì đây là một trong những cây trồng chủ lực của nông nghiệp Việt Nam.
- Bằng dữ liệu thu thập từ các hộ nông dân trồng lúa tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An, kết quả từ nghiên cứu sẽ cung cấp những gợi ý cần thiết cho việc triển khai chương trình bảo hiểm tại các tỉnh và các địa phương khác.
- Cụ thể, nghiên cứu sẽ nhằm giải quyết hai vấn đề:.
- Thứ nhất, xác định những yếu tố tác động đến quyết định tham gia bảo hiểm trồng lúa của các nông hộ và lượng hóa các tác động đó..
- Thứ hai, dựa vào kết quả của mô hình nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện tỷ lệ tham gia bảo hiểm của các nông hộ..
- Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm.
- Mở đầu cho lý thuyết về bảo hiểm nông sản (crop insurance), Bruce và Randall (1986) xuất bản một tuyển tập các nghiên cứu liên quan tới vấn đề này.
- mô hình để xác định nhu cầu của nông dân đối với bảo hiểm nông nghiệp, đồng thời ứng dụng vào nghiên cứu thực nghiệm tại Mexico và Panama.
- Trong nghiên cứu của Pennings và Leuthold (1999) bằng cách tiếp cận đa ngành, đề xuất hai mô hình nghiên cứu về lựa chọn công cụ quản trị rủi ro của nông dân.
- Mô hình đầu tiên chỉ ra rằng, các thuộc tính của dịch vụ bảo hiểm như: cách thức cung cấp dịch vụ (service delivery), các điều khoản hợp đồng (contract specification) sẽ tác động đến lượng nông sản mà người dân quyết định bảo hiểm..
- Mô hình thứ hai cho thấy quyết định tham gia bảo hiểm phụ thuộc vào các thuộc tính riêng về nhận thức rủi ro (risk perception) và thái độ rủi ro (risk attitude) của người nông dân..
- Đóng góp lớn nhất của nghiên cứu này về mặt lý thuyết là xác thực được hai yếu tố chính ảnh hưởng tới quyết định chọn mua bảo hiểm đó là nhận thức rủi ro và thuộc tính tâm lý của người đưa ra quyết định..
- Có rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm trong chủ đề bảo hiểm nông nghiệp trên thế giới và tại Việt Nam, tuy nhiên điểm chung của các nghiên cứu này là, khi nghiên cứu về quyết định mua bảo hiểm của nông hộ, đều đưa vào xem xét các nhân tố thuộc ba nhóm:.
- Các nghiên cứu thực nghiệm tiêu biểu có thể kể đến là:.
- thiên tai là các yếu tố thúc đẩy nông trại tham gia bảo hiểm.
- Điều đặc biệt trong nghiên cứu này là mức phí bảo hiểm không ảnh hưởng đến quyết định bảo hiểm..
- Cũng cùng phạm vi nghiên cứu tại Hoa Kỳ, Sherrick và cộng sự (2004) tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm tại ba tiểu bang của Hoa Kỳ nhằm mục đích xác định các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua bảo hiểm của nông hộ.
- Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng đặc điểm cá nhân và sản xuất đều ảnh hưởng đến rủi ro của từng nông hộ.
- Những người có tuổi càng cao, diện tích canh tác lớn và có nhận thức cao về các rủi ro ảnh hưởng đến năng suất có xu hướng mua bảo hiểm nhiều hơn..
- Đối với Việt Nam, nghiên cứu của Hoàng Triệu Huy và cộng sự (2013) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định tham gia bảo hiểm trồng lúa tại tỉnh Đồng Tháp sau hai năm thí điểm chương trình bảo hiểm.
- Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: các hộ có tham gia các chương trình tập huấn về kỹ thuật sản xuất, các hộ dễ dàng huy động nguồn lực lao động gia đình, hay các hộ có khả năng bán lúa thành phẩm ở mức giá cao có xu hướng tham gia bảo hiểm cao hơn.
- Tuy nhiên, các hộ có năng suất lúa càng cao hay có quy mô diện tích trồng lúa càng lớn thì thường lại ít có động cơ tham gia bảo hiểm..
- Nghiên cứu của Phạm Lê Thông (2013) chủ yếu tính toán mức phí mà mỗi gia đình sẵn lòng trả cho sản phẩm bảo hiểm giá lúa (giả định) bằng phương pháp định giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method) của các nông hộ ở Cần Thơ trong tháng 2 năm 2010..
- Tuy nhiên bên cạnh đó, tác giả còn xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sản phẩm bảo hiểm.
- Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng: khả năng tham gia bảo hiểm của hộ phụ thuộc rất lớn vào mức phí bảo hiểm đề nghị, diện tích và kinh nghiệm trồng lúa.
- Kết quả này vừa có điểm tương đồng, vừa có sự khác biệt so với nghiên cứu tại quốc gia khác.
- động của diện tích canh tác hay trình độ học vấn tương đồng với nghiên cứu của Sherrick và cộng sự (2004), trong khi đó, biến kinh nghiệm lại cho kết quả khác biệt..
- Rõ ràng, các nghiên cứu thực nghiệm đều đưa ra các kết quả rất khác nhau.
- Nhưng nhìn chung, nhân tố chính tạo nên sự khác biệt đến từ sự khác nhau trong đặc điểm của nông hộ tại khu vực thực hiện nghiên cứu.
- Nghiên cứu này sẽ ứng dụng khung phân tích của Pennings và Leuthold (1999) kết hợp thêm các nhân tố liên quan đến sản xuất và nhóm nhân tố xã hội để làm cơ sở xây dựng mô hình..
- Mô hình nghiên cứu.
- Mô hình kinh tế lượng xác định xác suất một cá nhân thứ n nào đó sẽ chọn phương án mua bảo hiểm i thay vì phương án không mua bảo hiểm j được tính như sau:.
- Khi đó được hiểu là xác suất cá nhân n mua bảo hiểm.
- là thỏa dụng khi cá nhân n mua bảo hiểm.
- Trong đó, là hàm thỏa dụng khi chọn mua bảo hiểm của cá nhân có thể được nhà nghiên cứu quan sát, còn đối với.
- Người ra quyết định sẽ chọn phương án mua bảo hiểm khi .
- Nghiên cứu sơ bộ sử dụng thang Likert để đánh giá mức quan tâm của mỗi nông dân đối với mức phí bảo hiểm.
- Tuy nhiên, do các hộ nông dân tham gia khảo sát sơ bộ không sẵn lòng dùng thang đo này, nên nghiên cứu sẽ sử dụng biến giả để đo lường với quy ước: có quan tâm (1), không quan tâm (0)..
- Biến phụ thuộc của mô hình, nhận giá trị 1 nếu như người khảo sát quyết định chọn mua bảo hiểm trồng lúa..
- Cuối cùng, sau khi nắm rõ sản phẩm bảo hiểm trồng lúa, người đại diện hộ sẽ được đề nghị tham gia bảo hiểm một cách giả định với một mức phí phù hợp và người phỏng vấn sẽ ghi lại quyết định này..
- Do đó, nghiên cứu sẽ đưa ra tình huống giả định mức phí là phù hợp cho người nông dân..
- Kết quả mô hình kinh tế lượng Dữ liệu nghiên cứu được tiến hành thu thập tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
- Một trăm hộ nông dân trồng lúa được chọn để khảo sát.
- Nghiên cứu đã tiến hành ước lượng mô hình đầy đủ bao gồm tám biến độc lập và mô hình có loại bỏ hai biến giới tính (Gender) và.
- Đối với mô hình đầy đủ, nghiên cứu phát hiện có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra đối với biến tuổi, kinh nghệm và năng suất.
- Như vậy, quyết định tham gia bảo hiểm trồng lúa của hộ nông dân huyện Cần Đước phụ thuộc vào ba nhóm biến đã nêu: nhóm nhân tố xã hội, nhóm nhân tố liên quan đến sản xuất cuối cùng là sở thích và nhận thức..
- Mức quan tâm đến mức phí bảo hiểm ảnh hưởng cùng chiều đến quyết định tham gia bảo hiểm (ở mức ý nghĩa 1.
- hàm ý rằng hộ càng quan tâm đến mức phí bảo hiểm thì xác suất tham gia bảo hiểm càng tăng.
- Nông dân có quan tâm đến mức phí, cũng chính là quan tâm đến đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm..
- Mặc dù không giống về cách đo lường biến, nhưng kết quả này nhất quán với nghiên cứu của Phạm Lê Thông (2013), kết luận càng tăng mức phí bảo hiểm sẽ làm giảm khả năng nông dân mua bảo hiểm.
- Ngược lại, các hộ không quan tâm đến sản phẩm bảo hiểm sẽ không đi sâu tìm hiểu các thông tin liên quan, từ đó không nhận thấy những mặt tích cực mà chương trình bảo hiểm mang lại..
- Số người phụ thuộc vào nghề lúa (Size) có mối quan hệ cùng chiều với quyết định tham gia bảo hiểm (mức ý nghĩa 5.
- nhiều nhân khẩu phụ thuộc vào nghề trồng lúa thì xác suất tham gia bảo hiểm sẽ tăng.
- Do đó, tham gia bảo hiểm sẽ giúp thu nhập của hộ ổn định hơn, dẫn đến đảm bảo được mức thỏa dụng..
- Các hộ có nhiều đất canh tác lại có xu hướng không mua bảo hiểm.
- Xu hướng mua bảo hiểm trồng lúa của hộ nông dân giảm khi diện tích canh tác tăng..
- Đây rất có thể là nguyên nhân dẫn đến tăng diện tích ruộng sẽ làm giảm nhu cầu mua bảo hiểm..
- Nhưng trong hai nghiên cứu của Smith và Baque (1996), Barry và cộng sự (2004), biến này không có ý nghĩa.
- Giá trị này cho biết nếu giữ nguyên các yếu tố khác tại mức trung bình, cứ mỗi mười năm kinh nghiệm trồng lúa tăng thêm thì trung bình xác suất tham gia bảo hiểm lại giảm đi 0,042 lần (hay 4,2 điểm phần trăm)..
- Năng suất (Yield) có quan hệ ngược chiều với quyết định tham gia bảo hiểm (tại mức ý nghĩa thống kê 10.
- Điều này có thể giải thích thông qua đặc điểm sản phẩm bảo hiểm trồng lúa đang được triển khai.
- Để giảm thiểu lựa chọn sai lầm và rủi ro đạo đức, các doanh nghiệp sử dụng loại bảo hiểm năng suất theo địa bàn.
- Theo đó, mức năng suất có bảo hiểm được tính bằng 90% (năm 2012 là 80%) năng suất lúa bình quân của xã.
- Vì vậy, nếu năng suất của hộ cao hơn mức bình quân xã, xác suất hộ nhận được tiền đền bù thiệt hại không cao và động cơ tham gia bảo hiểm của hộ sẽ ít đi..
- Ngược lại, nếu các hộ thường xuyên có năng suất thấp hơn mức năng suất được bảo hiểm thì khả năng nhận được phần bồi thường tăng cao, hộ sẽ quyết tâm tham gia bảo hiểm hơn..
- Biến đa dạng hóa trong thu nhập (Diver) có dấu hệ số hồi quy dương, không như kỳ vọng ban đầu của nghiên cứu (ở mức ý nghĩa 5.
- Như vậy, hộ càng có thu nhập từ nhiều nguồn ngoài cây lúa có khả năng quyết định chọn mua bảo hiểm cao hơn hộ chỉ có nguồn thu chính từ cây lúa.
- Kết luận này không nhất quán theo lý thuyết kỳ vọng, nguyên nhân có thể là do trình độ học vấn của các chủ hộ khác nhau ảnh hưởng gián tiếp thông qua sự đa dạng trong thu nhập tác động đến quyết định hành vi chọn mua bảo hiểm (Knight, Weir, &.
- Do đó, hộ có nguồn thu ngoài cây lúa nhưng không quá nhiều có thể vẫn có động lực mua bảo hiểm..
- Trong mô hình Logit đầy đủ của nghiên cứu, hai biến giới tính và tuổi không mang ý nghĩa về mặt thống kê hàm ý rằng không có sự khác biệt trong quyết định mua bảo hiểm giữa nam và nữ, giữa người có độ tuổi lớn và nhỏ hơn.
- Nguyên nhân bởi vì đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm trồng lúa không có tính da dạng cao, ví dụ như:.
- sản phẩm bảo hiểm không có nhiều gói bảo hiểm khác nhau hoặc không khác biệt về màu sắc, kích cỡ như các sản phẩm thông thường..
- Với mục tiêu tìm ra các yếu tố tác động đến hành vi tham gia bảo hiểm trồng lúa của các nông dân, nghiên cứu đã phát hiện ra hành vi tham gia bảo hiểm trồng lúa bị tác động bởi các yếu tố bao gồm: mức độ quan tâm đến bảo hiểm trồng lúa của nông dân, số người trong hộ phụ thuộc vào nghề lúa, diện tích trồng lúa, kinh nghiệm, năng suất lúa, và sự đa dạng hóa thu nhập.
- Trong quá trình thực hiện khảo sát cho thấy tỷ lệ nông dân thật sự hiểu được sản phẩm bảo hiểm trồng lúa còn ở mức thấp, chỉ 25% hộ quyết định tham gia bảo hiểm.
- Tỷ lệ này tương đồng với các địa phương đã triển khai sản phẩm bảo hiểm trồng lúa.
- Thứ nhất, chính quyền địa phương cần tuyên truyền về BHNN một cách rộng rãi, chi tiết để người dân nắm được thông qua các phương thức như: mở các lớp tuyên truyền, phổ biến lợi ích của sản phẩm BHNN do doanh nghiệp bảo hiểm kết hợp với Hội Nông dân, Hội Phụ nữ tổ chức hay khuyến khích các Đảng viên, cá nhân có uy tín gương mẫu tham gia BHNN để làm cơ sở tuyên truyền,.
- nhân rộng trong nông dân.
- Thực tiễn cho thấy, khi tuân thủ quy trình, năng suất trồng trọt sẽ được cải thiện và sản xuất theo quy trình cũng là điều kiện cơ sở để tham gia bảo hiểm.
- Thứ hai, điều chỉnh mức phí bảo hiểm để khuyến khích nông dân tham gia, vì kết quả mô hình thực nghiệm cho thấy mức phí bảo hiểm được nông hộ quan tâm và có ảnh hưởng tích cực đến quyết định mua bảo hiểm.
- Cụ thể, Bộ Tài Chính nên phối hợp với các công ty bảo hiểm điều chỉnh mức phí cùng các rủi ro được bảo hiểm phù hợp với từng địa phương cụ thể.
- Các đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm nhận được sự quan tâm của nông dân và là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định mua bảo hiểm.
- Thực tiễn triển khai cho thấy, rủi ro được bảo hiểm còn mang tính gượng ép, không phù hợp với địa bàn, nên nông dân không sẵn lòng tham gia..
- Thứ ba, từ kết quả tác động ngược chiều của diện tích canh tác lên quyết định mua bảo hiểm, nghiên cứu khuyến nghị nên có sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp vào mô hình.
- Do đó, các công ty bảo hiểm có thể tận dụng điều này để bán sản phẩm BHNN.
- Nếu doanh nghiệp trên đại diện các hộ trong mô hình ký hợp đồng bảo hiểm thì chi phí của công ty bảo hiểm sẽ giảm đi đáng kể.
- Đổi lại, công ty bảo hiểm cũng nên có những ưu đãi về phí bảo hiểm trong trường hợp này..
- Thứ tư, Chính phủ cần tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp bảo hiểm triển khai sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp, nguồn lực của các công ty bảo hiểm như Bảo Việt, Bảo Minh là tương đối lớn, nhưng vẫn chưa đủ khả năng để triển khai, quản lý trên diện rộng.
- Thực tế, Bộ Tài chính đã chỉ ra rằng, các doanh nghiệp bảo hiểm đang gặp rất nhiều khó khăn khi cung cấp dịch vụ, cũng như khi tiến hành kiểm tra, giám sát do thiếu nhân lực hoặc do địa bàn rộng, phức tạp

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt