« Home « Kết quả tìm kiếm

Tìm hiểu sự tự học môn phương pháp giảng dạy của sinh viên chuyên ngành giảng dạy Tiếng Anh theo học chế tín chỉ


Tóm tắt Xem thử

- TÌM HIỂU SỰ TỰ HỌC MÔN PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CỦA SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH GIẢNG DẠY TIẾNG ANH THEO.
- Mục tiêu của nghiên cứu trình bày trong bài báo này là tìm hiểu thực trạng về sự tự học của sinh viên chuyên ngành giảng dạy tiếng Anh trong suốt khóa học về Phương pháp giảng dạy tiếng Anh (phần 1).
- Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy mặc dù đa số sinh viên ý thức cao vai trò tự học nhằm phát triển năng lực chuyên môn nhưng 90% sinh viên đã không dành thời gian để tự học đúng theo quy định của học chế tín chỉ.
- Ngoài ra, sinh viên không đánh giá cao tính độc lập và thói quen tự học của họ.
- Kết quả bài kiểm tra giữa kỳ và quan sát sinh viên tập giảng cho thấy sinh viên chỉ đạt được 50% mục tiêu mà giảng viên đề ra đối với các hoạt động tự học.
- Do đó, nhóm tác giả đề nghị nhà trường cần phải có biện pháp hỗ trợ giảng viên quản lý thời gian tự học và đánh giá các hoạt động học tập của sinh viên ngoài giờ lên lớp..
- Từ khóa: Sinh viên chuyên ngành giảng dạy, tự học, học chế tín chỉ, các hoạt động tự học..
- Đặc điểm này buộc người dạy phải áp dụng phương pháp giảng dạy (PPGD) giúp cho sinh viên (SV) phát huy được tính tự chủ và giúp họ biết cách học để tự học.
- Kết quả cho thấy dù tính tự chủ của người học khóa TC so với khóa học phần hầu như vượt hơn trong khoảng bốn phần năm (4/5) các nội dung nghiên cứu, nhưng sự khác biệt có ý nghĩa chỉ khoảng một phần ba (1/3) trong năm môn học của năm thứ nhất, đặc biệt là phần quy định tự học và một số nội dung trong hai môn nghe-nói và đọc hiểu được xem như thành công của học chế TC..
- ĐH Cần Thơ kết luận trong hoàn cảnh Việt Nam năng lực tự học có thể được phát triển thông qua việc ứng dụng học tập tự điều chỉnh..
- Sau khi nghiên cứu sự tự học trong một khóa học về PPGD ngôn ngữ dành cho giáo viên dạy tiếng Anh bậc tiểu học và trung học, Cotterall (2004) đề nghị giáo viên nên khuyến khích người học: (1) xây dựng mục tiêu học tập lâu dài để trong quá trình học tập họ sẽ đầu tư nhiều vào các hoạt động học tập nhằm lĩnh hội được những kỹ năng mà họ cần, và (2) suy ngẫm kỹ lại những gì mình đã làm bởi vì sự suy ngẫm là một yếu tố then chốt trong việc nâng cao khả năng làm việc và học tập một cách độc lập của người học..
- Dữ liệu phân tích định tính và định lượng của Sert (2006) cho thấy dường như SV SP Anh tại một trường ĐH ở Thổ Nhĩ Kỳ chưa xác định mình phải học cái gì và học như thế nào để đạt hiệu quả cao khi tự học.
- Tác giả này chỉ ra rằng những SV này thiếu khả năng tự đánh giá trong việc theo dõi quá trình tự học.
- Với kết quả tìm được, Sert đã đưa ra giả thuyết rằng, cần phải giúp cho người học nâng cao nhận thức về việc tự học của họ và khi người học nhận thức tốt họ sẽ nâng cao khả năng tự kiểm soát việc học của mình và khả năng này góp phần tạo động lực giúp họ học đạt hiệu quả cao hơn (Sert, 2006)..
- Một nghiên cứu khác về niềm tin của 112 SV tiếng Anh đối với việc tự học khác được thực hiện bởi Balçikanli (2010) tại Khoa SP Anh của trường ĐH Gazi -Thổ Nhĩ Kỳ.
- Kết quả cho thấy những SV này có thái độ tích cực đối với việc tự học..
- Theo kết quả nghiên cứu lý luận của hai tác giả Mascaskill và Taylor (2010), chưa có những PP đo lường tâm lý học một cách hoàn chỉnh mặc dù các PP đo lường này rất quan trọng đối với việc tự học.
- Tuy nhiên, Mascaskill và Taylor (2010) kết luận thang đo 12 tiêu chí có ý nghĩa trong việc đo lường sự tự học về mặt tâm lý của SV..
- Tóm lại, các nghiên cứu trong nước tập trung vào các môn học về kỹ năng ngôn ngữ, chưa có nhiều nghiên cứu sự tự học của SV môn chuyên ngành.
- Từ những kết quả nghiên cứu trên và thực tế tại ĐH Mở Tp.HCM, phương thức đào tạo theo hệ thống TC đã được áp dụng từ năm học nhóm nghiên cứu xét thấy nghiên cứu tìm hiểu về sự tự học của SV qua đó giảng viên có cơ sở để nghiên cứu lại nội dung tự học cũng như cách hướng dẫn SV tự học đạt hiệu quả cao là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
- Mục tiêu của nghiên cứu này tìm hiểu thực trạng về sự tự học của SV khi học môn PPGD tiếng Anh một nhằm tìm hiểu nhận thức của SV về tầm quan trọng của sự tự học, và tính độc lập như thói quen tự học của SV ngoài giờ lên lớp..
- Các hoạt động tự học của SV khi học môn PPGD tiếng Anh một bao gồm đọc thêm tài liệu tham khảo bắt buộc theo đề cương môn học và tự tìm tài liệu thiết kế bài giảng.
- Câu hỏi nghiên cứu: Sinh viên tự học các nội dung được phân bổ trong đề cương môn PPGD tiếng Anh một như thế nào ngoài giờ lên lớp? Để tìm ra câu trả lời của câu hỏi này cũng như mục tiêu đề ra, nhóm tác giả sử dụng ba câu hỏi định hướng sau đây:.
- Sinh viên có ý thức được tầm quan trọng của các hoạt động tự học quy định trong đề cương môn PPGD tiếng Anh một được thiết kế theo phương thức đào tạo TC hay không?.
- Sinh viên tự đánh giá tính độc lập trong học tập và thói quen tự học của họ như thế nào?.
- Theo sự đánh giá của giảng viên, sinh viên tự học có đạt được mục tiêu mà giảng viên đề ra hay không?.
- Tự học trong học chế tín chỉ (TC) Theo Quy chế 43 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đơn vị TC được xác định dựa trên khối lượng lao động học tập của một SV trung bình, và thường được định nghĩa như sau: “nếu môn học có một giờ lên lớp (50 phút) trong một tuần kéo dài trong một học kỳ 15 tuần thì được tính một tín chỉ”.
- Các định nghĩa về tự học Thuật ngữ tự học:.
- Có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “tự học”(autonomy).
- Theo Thornbury, tự học hay “autonomy” đồng nghĩa với cụm từ.
- Các nhà phê bình không đồng tình với phong trào tự học thì tranh luận rằng khái niệm tự học đối với người học là một sự mâu thuẫn trong các thuật ngữ bởi vì nếu người học có thể tự học, họ sẽ không cần theo học bất kỳ một khóa học ngôn ngữ nào ngay từ đầu.
- Các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục và giảng dạy ngôn ngữ có nhiều định nghĩa khác nhau về tự học.
- Theo Holec (1981) tự học là khả năng chịu trách nhiệm cho việc học của riêng một cá nhân nào đó trong khi đó Little (1991) cho rằng tự học là một thuộc tính tâm lý có liên quan đến quá trình và nội dung học, và.
- Theo Benson, tự học là một sự công nhận những quyền hạn của người học trong các hệ thống giáo dục (trích từ Wikipedia)..
- “tự học” của Holec (1981) có ảnh hưởng nhiều nhất và được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng bởi vì điểm mạnh trong định nghĩa của Holec (1981) là nó được dựa trên giả thuyết người học không tự phát triển năng lực tự học, tuy nhiên khi họ bị đặt vào trong những tình huống mà họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tự học và đây là một trong những sự phát triển có ý nghĩa quan trọng đối với định nghĩa tự học hơn 30 năm qua.
- Benson (2006) cũng nhận xét rằng Holec (1981) chỉ mô tả việc rèn luyện tự học hơn là chính sự tự học.
- Có nghĩa là, định nghĩa về tự học của Holec chỉ giải thích những thứ mà một người tự học có thể làm được chứ không lý giải được làm thế nào để anh/chị ta có thể làm được..
- Một vấn đề nữa Benson (2006) đưa ra là: “Những yếu tố quan trọng nhất của sự tự học ngôn ngữ chính xác là gì?” Theo tác giả này thì vẫn chưa có được một kết luận rõ ràng và rất khó xác định được các yếu tố quan trọng của sự tự học.
- tuy nhiên nhiều tác giả đã đạt được một sự đồng thuận- đó là có nhiều mức độ tự học theo Nunan và hành vi của người tự học có thể dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào độ tuổi, sự tiến bộ mà người học đạt được trong quá trình học và cái mà họ tiếp nhận từ nhu cầu học trước mắt (Little, 1991-trích dẫn lại từ Benson, 2006)..
- Nunan đưa ra mô hình tự học với năm cấp độ khác nhau của hoạt.
- động tự học: (1) nhận thức (awareness);.
- Theo Nunan (1997) mỗi cấp độ tự học đều gắn liền với hai mặt đó là nội dung và quy trình tự học.
- người tự học ít nhất đã phát triển khả năng kiểm soát hoạt động học của họ và.
- Thói quen tự học.
- Dựa theo định nghĩa tự học của Holec (1981) như đã trình bày ở trên.
- Các hoạt động này tương đồng với các giai đoạn của quá trình tự học theo hai tác giả Reinders &.
- Trong quá trình tự học, người học phải lên kế hoạch và sắp xếp việc học sao cho hiệu quả, do đó một người tự học phải xây dựng cho mình thói quen học tập.
- Macaskill và Taylor (2010) cho rằng thói quen của người tự học bao gồm các yếu tố quản lý thời gian trong quá trình học, sự trì hoãn và thái độ của người học khi làm việc một mình..
- Đánh giá sự tự học.
- Đồng quan điểm với Tassinari (2012), Gardner (2000) đánh giá cao vai trò của sự tự đánh giá và tin rằng việc sử dụng tự đánh giá như một công cụ trong một bộ dụng cụ dành cho người tự học và sẽ giúp họ rất nhiều trong quá trình học.
- Sự tự học trong chương trình đào tạo (CTĐT) giáo viên tiếng Anh.
- Mặc dù sự tự học rất cần thiết và phù.
- hợp với sự phát triển không ngừng của thế giới ngày nay, theo hai tác giả Reinders và Balcikanli (2011) thì trong số 11 đầu sách (xuất bản từ năm 1991 đến 2007) được sử dụng trong các CTĐT giáo viên tiếng Anh nhiều nơi trên thế giới, hầu hết các tài liệu không có thông tin về sự tự học và cũng không bất kỳ thông tin liên quan đến sự phát triển các kỹ năng cần thiết để tự học..
- 2008) đề xuất sự hợp nhất các yếu tố như học tập cộng tác, tự học và tư duy có tiềm năng thúc đẩy các SV phát triển năng lực chuyên môn và khả năng tự học..
- Sự tự học (Autonomy).
- Sự tự học của những giáo viên ngôn ngữ, theo Bailey (2006) có thể tìm thấy ở bài giảng (action), quyết định lựa chọn PP và tài liệu giảng dạy (decision making) hoặc cả hai.
- Anh muốn tự học và nghiên cứu để phát triển nghề nghiệp của mình thì phải quan ba bước: (1) soạn giáo án, (2) tập giảng, và (3) nhờ đồng nghiệp dự giờ góp ý hoặc tự xem lại bài giảng để rút ra những ưu điểm hoặc hạn chế của họ và từ đó sẽ biên soạn lại bài giảng khác hiệu quả hơn..
- Như vậy theo mô hình của Wallace sự tự học của SV được tìm thấy ở bước thực hành hay tập giảng một phân đoạn nhỏ trên lớp (micro-teaching), sau khi tập giảng SV chuyển sang bước tiếp theo là suy ngẫm lại bài dạy của mình nhằm tìm ra những gì chưa tốt và chuẩn bị bài khác tốt hơn quay lại thực hành một lần nữa.
- Tóm lại, tự học tập nghiên cứu sau giờ học trên lớp là một trong những đặc tính quan trọng của phương thức đào tạo theo hệ thống TC.
- Trong giảng dạy ngôn ngữ, mặc dù có một số chuyên gia không đồng tình với phong trào tự học nhưng một số khác ủng hộ việc tự học và đạt được một sự đồng thuận về mức độ tự học.
- Hơn nữa, cũng cần có nhiều biện pháp để đánh giá kết quả học tập của người học trong đó người học tự đánh giá năng lực của họ là một công cụ cần thiết.Trong các CTĐT giáo viên tiếng Anh, việc tự tìm tài liệu để soạn giáo án tập giảng được xem là một hoạt động tự học.
- Để giúp cho SV chuyên ngành giảng dạy tự học hiệu quả, SV cần phải học tập cộng tác hay học theo nhóm và sau khi tập giảng SV cần phải xem lại bài giảng lại nhằm rút ra những bước nào SV chưa làm tốt để họ có thể khắc phục những hạn chế khi thực hiện một bài giảng khác..
- Những vấn đề trình bày trên đây là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực trạng về sự tự học của SV khi học môn PPGD tiếng Anh một được trình bày ở phần tiếp theo của bài báo này..
- Ngoài ra, theo đề cương môn học SV phải tự học thêm phần kiến thức nâng cao theo quyển sách “Approaches and Methods in Language Teaching” của hai tác giả Richards, J.C và Rodgers, T.S..
- Khi khóa học kết thúc, giảng viên tổng hợp lại và phân tích để tìm một câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ ba: “Theo sự đánh giá của giảng viên, sinh viên tự học có đạt được mục tiêu mà giảng viên đề ra hay không?”.
- Phần thứ nhất nhằm tìm hiểu nhận thức của SV về tự học như (1) tầm quan trọng của tự học đối với một giáo viên tiếng Anh, (2) động lực tự học, (3) thời gian dành cho tự học và (4) cách đối phó với nội dung khó.
- Thông tin thu thập từ phần này sẽ được phân tích nhằm trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ nhất liên quan đến nhận thức của SV về sự tự học khi học môn PPGD tiếng Anh một.
- SV tự đánh giá sự tự học và thói quen tự học theo năm mức (cao nhất là 5 và thấp nhất là 1)..
- Dữ liệu được thu thập vào buổi cuối cùng của khóa học và giúp cho nhóm tìm câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ hai - “Sinh viên tự đánh giá tính độc lập trong học tập và thói quen tự học của họ như thế nào?”..
- Số liệu trên Bảng 1 cho thấy giảng viên đánh giá việc sinh viên tự học môn PPGD tiếng Anh một thông qua việc tìm tài liệu để tự chuẩn bị một bài dạy theo một PPGD mà các em bốc thăm vào buổi học đầu tiên và thực hành giảng thử trên lớp không được cao.
- Có ba yếu tố chứng minh rằng SV nhận thức cao về tự học.
- SV một đều nhận thức được tầm quan trọng của sự tự học và tự nghiên cứu.
- Những số liệu trên là một tính hiệu tích cực về ý thức của sinh viên đối với việc tự học ngoài giờ lên lớp.
- tuy nhiên có một vấn đề mà giảng viên cũng như nhà trường cần phải quan tâm đặc biệt đó là thời gian SV dành cho việc tự học ngoài giờ lên lớp.
- Mặc dù theo học chế TC thời gian tự học tối thiểu phải gấp đôi thời gian lên lớp nhưng kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 8/90 SV (9%) tự học theo đúng với thời gian quy định và 1% (1/90) SV tự học nhiều hơn thời gian quy định.
- Ngược lại, 90% SV dành thời gian tự học môn chuyên ngành chưa đạt yêu cầu.
- trong đó hơn một nửa sinh viên (61%) chỉ đạt được 50% thời gian (4-5 giờ trong tuần) và 29% tự học ít hơn một phần.
- SV tự đánh giá tính độc lập và thói quen tự học ở mức TB khá (xem hình 3).
- 2008) có tiềm năng giúp cho SV tự học tốt để phát triển năng lực chuyên môn và khi học tập cộng tác (theo Dooly, 2008) thì SV vừa có trách nhiệm cá nhân và vừa có trách nhiệm với công việc chung của cả nhóm..
- Kết quả trên hình 4 cũng cho thấy SV tự chấm điểm có động lực hoàn thành trước thời gian quy định đạt 3.0/5 và mức độ hoàn thành việc tự học trước thời gian quy định là 3.6/5.
- Thói quen tự học 1.
- Quản lý tốt thời gian tự học 3.
- Bào chữa cho việc không tự học..
- Hạnh phúc khi tự học..
- Một trong những yếu tố giúp cho SV tự học tốt đó là phải có thói quen sắp xếp thời gian cũng như quản lý thời gian tốt;.
- Ở cột thứ tư của hình này cũng cho thấy SV tự chấm điểm mức độ bào chữa cho việc không tự học là 2.2/5 nhưng trên thực tế đa số SV luôn đưa ra rất nhiều lý do như học nhiều môn, có nhiều bài tập, phải đi làm thêm ngoài giờ lên lớp để kiếm tiền lo cho chi phí học hành v.v.
- Thứ nhất, mặc dù SV ý thức được tầm quan trọng của việc tự học và nghiên cứu của một giáo viên tiếng Anh khi còn ngồi trên giảng đường và khi làm việc như là một giáo viên thực sự nhằm giúp cho họ phát triển năng lực chuyên môn, nhưng kết quả phân tích dữ liệu cho thấy SV chưa dành thời gian để tự học và nghiên cứu.
- Thứ hai, SV tự đánh giá về sự tự học và thói quen tự học chỉ đạt trên TB;.
- SV chưa thể hiện được trách nhiệm cá nhân cao, chưa cộng tác với đồng môn, và chưa có thói quen sắp xếp và quản lý thời gian khi làm việc độc lập mặc dù theo các chuyên gia đây là những yếu tố giúp SV chuyên ngành giảng dạy tiếng Anh phát triển tiềm năng tự học nhằm nâng cao năng lực chuyên môn..
- Thứ ba, từ những hạn chế trên theo kết quả tự đánh giá của SV dẫn đến kết quả học tập của SV cũng không cao.Theo đánh giá của giảng viên khi quan sát bài giảng của SV trên lớp và kết quả của bài kiểm tra các nội dung mà SV phải tự đọc thêm ở nhà theo quy định trong đề cương môn học, có thể kết luận rằng SV chỉ đạt mức TB đối với phần tự học kiến thức nâng cao và TB khá đối với phần soạn bài tập giảng..
- Thứ nhất, như đã trình bày ở trên đa số SV không dành đủ thời gian cho việc tự học ở nhà nhưng nhóm nghiên cứu không tìm được nguyên nhân của vấn đề do hạn chế ở phần câu hỏi khảo sát.
- Thứ hai, sau khi mỗi nhóm hoàn thành tập giảng nội dung tự biên soạn, giảng viên không có đủ thời gian để quay phim lại bài giảng cho cả lớp xem lại nhằm khuyến khích SV phụ trách bài giảng tự đánh giá lại theo những tiêu chí mà giảng viên đang áp dụng bởi vì theo các chuyên gia như đã trình bày trong phần cơ sở lý luận đây là một bước quan trọng nhằm giúp SV tự học hiệu quả..
- Vào buổi đầu tiên của khóa học, sau khi giới thiệu đề cương môn học, giảng viên cần phải nhắc nhở SV thời gian tự học cá nhân và theo nhóm ngoài giờ lên lớp theo học quy định của học chế TC.
- Đặc biệt là, giảng viên phải bổ sung các loại câu hỏi khác nhau để SV tự kiểm tra lại phần nội dung tự học.
- Ngoài ra cần phải có cơ chế kiểm soát thời gian tự học của SV và điều này giảng viên phụ trách môn học không thể làm tốt được mà như Trần (2010) đề nghị cần phải có sự hỗ trợ của các đơn vị trong trường.
- Giảng viên cần phải xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, câu hỏi thảo luận và tự luận theo mỗi chủ đề cho SV làm trực tuyến trước khi lên lớp, và giảng viên phải quản lý được tổng số giờ SV làm bài trực tuyến, số điểm đạt được và số lần tham gia vào diễn đàn trực tuyến để làm cơ sở đánh giá các hoạt động tự học của SV..
- Đối với lãnh đạo nhà trường, nhóm thực hiện đề tài nghiên cứu có một số kiến nghị sau: Đề nghị thứ nhất, để giúp cho SV có đủ thời gian tự học tập và nghiên cứu ngoài giờ lên lớp, Phòng Quản lý Đào tạo, đặc biệt là bộ phận phụ trách đăng ký môn học cần phải có cách khống chế số môn học SV đăng ký trong một học kỳ..
- Đề nghị cuối cùng là để giúp giảng viên phụ trách môn học kiểm soát thời gian tự học của SV hiệu quả hơn, nhà trường - đặc biệt là bộ phận quản lý mạng thông tin hỗ trợ Khoa xây dựng hệ thống học trực tuyến sao cho giảng viên có thể kiểm soát được thời gian làm bài của.
- lớp và mã số SV một cách dễ dàng, chỉ có cách này mới có thể quản lý và nâng cao chất lượng tự học của SV..
- Phát triển năng lực tự học trong hoàn cảnh Việt Nam

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt