« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghiên cứu ứng dụng phương pháp phân tích màng bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis-DEA) để đánh giá hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả chi phí, hiệu quả phân phối nguồn lực và hiệu quả quy mô của nông hộ trồng xoài trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.


Tóm tắt Xem thử

- ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT XOÀI CỦA NÔNG HỘ Ở HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI.
- Nghiên cứu ứng dụng phương pháp phân tích màng bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis-DEA) để đánh giá hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả chi phí, hiệu quả phân phối nguồn lực và hiệu quả quy mô của nông hộ trồng xoài trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
- Số liệu nghiên cứu được thu thập từ 226 nông hộ trồng xoài ở huyện Vĩnh Cửu.
- Bên cạnh phương pháp phân tích DEA, nghiên cứu còn ứng dụng kiểm định trung bình giữa hai tổng thể (T-test) để so sánh hiệu quả trồng xoài giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
- Kết quả chỉ ra rằng, với mức năng suất xoài hiện tại, nông hộ đã lãng phí gần 20% các yếu tố nhập lượng, hiệu quả phân phối nguồn lực và hiệu quả sử dụng chi phí ở mức trung bình, hộ trồng xoài có thể nâng cao năng suất bằng cách thay đổi quy mô sản xuất phù hợp.
- Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, có sự chênh lệch về hiệu quả sản xuất giữa hộ nghèo và hộ không nghèo..
- Từ khóa: Hiệu quả sản xuất, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân phối nguồn lực, hiệu quả chi phí, hiệu quả quy mô.
- “vựa xoài” của cả nước vì diện tích trồng xoài toàn tỉnh (hơn 11.000 ha) chiếm hơn 34% diện tích trồng xoài cả nước..
- Theo đó, hoạt động trồng xoài thời gian qua đã góp phần giúp nông dân cải thiện thu nhập, một bộ phận không nhỏ hộ thoát nghèo nhờ vào cây xoài.
- hoạt động trồng xoài thời gian qua chưa thật sự mang lại hiệu quả kinh tế như mong đợi.
- Nông hộ tham gia trồng xoài ở huyện Vĩnh Cửu đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: chi phí sản xuất gia tăng, thị trường đầu ra thiếu ổn định,… Mặc dù là vùng chuyên canh xoài lớn nhưng sản lượng và chất lượng của sản phẩm xoài ở Vĩnh Cửu chưa thật sự tương xứng với tiềm năng và vị trí vốn có.
- “kinh nghiệm” cũng như nguồn lực của hộ trồng xoài còn hạn chế.
- Phần lớn nông hộ trồng xoài chưa chủ động tiếp cận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào canh tác xoài, đồng thời nông hộ cũng không quan tâm tính toán hiệu quả đầu.
- tư trong quá trình sản xuất.
- Từ đó, năng suất đạt được của người trồng xoài chưa cao, thậm chí nhiều nông hộ còn thua lỗ do những mùa giá xoài thấp.
- Để làm rõ những vấn đề trên, nghiên cứu này phản ánh hiệu quả trồng xoài của nông hộ ở huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai..
- Dữ liệu dùng trong nghiên cứu được thu thập từ 226 nông hộ trồng xoài trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
- Phương pháp chọn mẫu hạn ngạch (quota) theo tiêu chí địa lý và đặc điểm hộ được áp dụng để thu thập số liệu từ các địa bàn, các nhóm nông hộ trồng xoài khác nhau..
- và hiệu quả chi phí (Cost Efficiency - CE) được ứng dụng.
- Mô hình ước lượng hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân phối nguồn lực và hiệu quả sử dụng chi phí.
- Theo Tim Coelli (2005), ngoài việc xác định hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency - TE), hiệu quả phân phối nguồn lực (Allocative Efficiency - AE) và hiệu quả sử dụng chi phí (Cost Efficiency - CE) cũng là các chỉ tiêu rất quan trọng để đo lường hiệu quả sản xuất.
- Liên quan đến hoạt động trồng xoài sử dụng nhiều yếu tố đầu vào - một sản phẩm đầu ra như trong nghiên cứu này.
- Trong đó: w i = vectơ đơn giá các yếu tố sản xuất của DMU thứ i, x i.
- vectơ số lượng các yếu tố đầu vào theo hướng tối thiểu hóa chi phí sản xuất của DMU thứ I,.
- Mô hình ước lượng hiệu quả kỹ thuật theo quy mô sản xuất (Scale Efficiency - SE).
- Trong nhiều nghiên cứu trước đây, các tác giả đã tách TE đạt được từ biên sản xuất cố định theo quy mô (CRS) ra làm hai phần: phần thứ nhất là sự không hiệu quả kỹ thuật thuần túy (“pure”.
- Technical Inefficiency) và thứ hai là sự không hiệu quả do quy mô thay đổi (Scale Inefficiency).
- Vì thế sự đo lường về hiệu quả do quy mô (SE) có thể được sử dụng để xác định số lượng theo đó năng suất có thể được nâng cao bằng cách thay đổi quy mô sản xuất theo một quy mô sản xuất tối ưu được xác định..
- Nếu có sự khác biệt về TE giữa CRS-DEA và VRS-DEA đối với từng hộ sản xuất cụ thể, chúng ta có thể kết luận rằng có sự không hiệu quả về quy mô (Scale Inefficiency = 1 – Scale Efficiency).
- Tuy nhiên để thuận tiện tác giả sử dụng chương trình DEAP phiên bản 2.1 cho việc ước lượng các loại hiệu quả trong nghiên cứu về trồng xoài của nông hộ ở huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai..
- Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân phối và hiệu quả chi phí của nông hộ trồng xoài theo quy mô cố định (CRS-DEA).
- Theo kết quả phân tích, hệ số ước lượng TE, AE và CE của nông hộ trồng xoài ở huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai được thể hiện trong Bảng 3.
- Dựa vào kết quả này cho thấy, nông hộ trồng xoài ở huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đạt được hiệu quả kỹ thuật tương đối.
- cao, trong khi hiệu quả phân phối nguồn lực và hiệu quả sử dụng chi phí ở mức.
- Bảng 3: Hiệu quả trồng xoài của nông hộ huyện Vĩnh Cửu.
- (Nguồn: Kết quả phân tích DEA từ số liệu khảo sát, 2015) Hiệu quả kỹ thuật.
- Nếu hệ số này bằng 1 có nghĩa là hộ trồng xoài đạt hiệu quả kỹ thuật tối ưu, nhỏ hơn 1 có nghĩa là hộ chưa đạt hiệu quả kỹ thuật tối ưu..
- Kết quả phân tích cho thấy, hiệu quả kỹ thuật của hộ trồng xoài huyện Vĩnh Cửu tương đối tốt.
- Ngoài ra, kết quả cũng nói lên rằng hộ trồng xoài có TE <.
- 1 nên tiến hành giảm thiểu các yếu tố đầu vào để thực hành tiết kiệm và đạt hiệu quả về kỹ thuật.
- Bên cạnh đó, số hộ đạt hiệu quả kỹ thuật tối ưu (TE = 1,000) chiếm 22,57% trên tổng số hộ..
- Bảng 4: Lượng đầu vào bị mất đi do lãng phí của nông hộ trồng xoài.
- Hiệu quả phân phối nguồn lực (AE) Theo kết quả từ bảng 3 cho thấy, hiệu quả trung bình (AE = 0,59).
- Hiệu quả phân phối nguồn lực của nông hộ tập trung phần lớn phân phối nguồn lực của nông hộ trồng xoài đạt ở mức hiệu quả phân phối nguồn lực cao rất ít, thậm chí không có hộ nào đạt hiệu quả phân phối tối ưu và có 7,6% nông hộ đạt hiệu quả phân phối <.
- Hiệu quả kỹ thuật của nông hộ trồng xoài ở huyện Vĩnh Cửu tương đối cao, tuy nhiên các hộ kết hợp các yếu tố đầu vào chưa hợp lý nên hiệu quả phân phối chưa tốt..
- Hiệu quả sử dụng chi phí (CE) Hiệu quả sử dụng chi phí hay còn gọi là hiệu quả kinh tế tổng hợp của hộ trồng xoài được tính toán trên cơ sở tổng hợp hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân phối nguồn lực trong trồng.
- Kết quả cho thấy hiệu quả sử dụng chi phí của nông hộ trồng xoài thấp và mức độ phân tán lớn.
- Hiệu quả sử dụng chi phí của nông hộ dưới mức trung bình (CE=0,473), với giá trị cao nhất là 0,952 và thấp nhất là 0,111.
- Có đến 29,65% số hộ đạt mức hiệu quả chi phí.
- Không có hộ nào đạt hiệu quả chi phí tối ưu (CE=1).
- Kết quả này chỉ ra rằng, tổng chi phí trồng xoài của nông hộ có thể giảm xuống 52,7% nếu chỉ cần đạt mức năng suất xoài như hiện tại..
- Hơn nữa, kết quả phân tích DEA còn nói lên rằng, hộ trồng xoài có hiệu quả sử dụng chi phí ở mức trung bình trong mẫu quan sát có thể đạt hiệu quả như hộ có mức cao nhất thì hộ trung bình đó sẽ.
- Số hộ đạt Tương tự ta có thể dễ dàng ước lượng, hộ sản xuất có mức hiệu quả thấp nhất trong mẫu quan sát sẽ tiết kiệm được số chi phí tương đương 0,89 đơn vị tiền .
- Mặt khác, hiệu quả chi phí của hộ trồng xoài thấp là do bị ảnh hưởng bởi hiệu quả phân phối nguồn lực chưa hợp lý..
- Hiệu quả quy mô của nông hộ trồng xoài ở huyện Vĩnh Cửu.
- Kết quả phân tích từ bảng 5 cho thấy rằng, hiệu quả quy mô của hộ trồng xoài ở huyện Vĩnh Cửu trung bình là 0,931 với độ rộng không quá lớn .
- Điều này nói lên rằng, hộ trồng xoài có thể nâng cao năng suất bằng cách thay đổi quy mô sản xuất phù hợp.
- Bên cạnh đó, kết quả DEA cũng chỉ ra mức năng suất hộ trồng xoài có thể mất đi nếu trồng ở quy mô hiện tại..
- Mức năng suất trung bình hộ trồng xoài có thể đạt được nếu thay đổi quy mô là 1.928 kg xoài/1000m 2 , cao nhất có thể đạt đến 2.828 kg xoài/1000m 2 .
- Như vậy, với quy mô trồng hiện tại, hộ trồng.
- Bảng 5: Hiệu quả trồng do quy mô thay đổi của hộ trồng xoài.
- bảng 6, chúng ta có thể thấy rằng, đa số hộ trồng xoài hoặc đang ở trong khu vực có thể tăng hiệu quả theo quy mô (inceasing returns to scale - IRS) với tỷ lệ 54,87% hoặc là đang ở khu vực tối.
- ưu về quy mô hay nói khác hơn là không thay đổi hiệu quả theo quy mô (constant returns to scale - CRS) với tỷ lệ 24,34%.
- Số hộ trồng xoài cần giảm quy mô trồng để đạt hiệu quả tối ưu chiếm 20,8%..
- Bảng 6: Quy mô trồng của hộ trồng xoài.
- So sánh hiệu quả trồng xoài.
- giữa hộ nghèo và hộ không nghèo Sự chênh lệch về nguồn lực sản xuất là nguyên nhân quan trọng tạo nên sự khác biệt trong quá trình canh tác và.
- mức độ đầu tư trồng xoài giữa nông hộ nghèo và không nghèo ở huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
- Kết quả phân tích hiệu quả sản xuất từ DEA đã cho thấy thực tế này rõ rệt..
- Bảng 7: So sánh hiệu quả trồng xoài giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
- Ghi chú: (HQTƯs): số hộ đạt hiệu quả tối ưu.
- Dựa vào kết quả ở bảng 7 cho thấy, có sự khác biệt về hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả chi phí trồng xoài giữa hộ nghèo và hộ không nghèo..
- Trong khi đa số hộ không nghèo đạt hiệu quả kỹ thuật từ 0,8 trở lên (57,03%) thì đa số hộ nghèo (59,19%) đạt hiệu quả kỹ thuật từ 0,7 trở xuống..
- Hơn nữa, số hộ không nghèo đạt hiệu quả kỹ thuật cũng nhiều hơn hộ nghèo..
- Mặt khác, sự khác biệt về hiệu quả chi phí giữa hai nhóm hộ này cũng có ý nghĩa thống kê ở mức 5% cho thấy rằng hộ không nghèo sử dụng chi phí hiệu quả hơn hộ nghèo mặc dù ở cả hai nhóm hộ đều không đạt hiệu quả chi phí tối ưu.
- Tất cả những nguyên nhân thực tế trên đã làm cho việc phân bổ các yếu tố đầu vào kém hợp lý dẫn đến hiệu quả sản xuất của hộ nghèo thấp.
- sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả phân phối giữa hộ nghèo và hộ không nghèo..
- Đa số các nhập lượng đầu vào của hộ nghèo có sự kê về hiệu quả phân phối giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
- Về mặt lý thuyết, hiệu quả phân phối phản ánh sự lựa chọn một lượng đầu vào tối ưu mà ở đó giá trị sản phẩm biên của đơn vị đầu vào cuối cùng bằng với giá của đầu vào đó.
- Song thực tế tại địa bàn nghiên cứu, hầu hết hộ trồng xoài đều có cùng những nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào (giống, phân bón, lao động,…)..
- Chính vì vậy hiệu quả phân phối nguồn lực hay khả năng lựa chọn đầu vào tối ưu giữa hai nhóm hộ hầu như không có.
- Như vậy, có thể nói rằng, sự khác biệt về hiệu quả kỹ thuật và chi phí là do các yếu tố chủ quan (trình độ, nguồn lực sản xuất.
- trong khi hiệu quả phân phối trong chừng mực nào đó có thể một phần bắt nguồn từ yếu tố.
- cho thấy có sự chênh lệch về hiệu quả quy mô giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
- Số hộ nghèo đang trong khu vực tăng quy mô sản xuất có tỷ lệ cao hơn hộ không nghèo.
- nghèo đạt hiệu quả tối ưu nhiều hơn hộ nghèo (25,2.
- thậm chí do đầu tư quá nhiều nên tỷ lệ hộ không nghèo cần giảm quy mô sản xuất cũng cao hơn hộ nghèo (25,98.
- Hơn nữa, kết quả này còn ngụ ý rằng, nếu có điều kiện để đầu tư các yếu tố nhập lượng hơn thì hộ nghèo có thể tăng quy mô sản xuất để đạt năng suất xoài tối đa (63,27%)..
- Bảng 9: Hiệu quả quy mô của hộ nghèo và hộ không nghèo.
- Dựa trên phương pháp phân tích màng bao dữ liệu (DEA), nghiên cứu tập trung ước lượng hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân phối nguồn lực, hiệu quả chi phí và hiệu quả quy mô của nông hộ.
- trồng xoài ở huyện Vĩnh Cửu.
- Kết quả cho thấy, nông hộ trồng xoài đạt hiệu quả kỹ thuật khá cao (TE=0,799).
- Tuy nhiên hiệu quả phân phối nguồn lực (AE=0,598) và hiệu quả sử dụng chi phí (CE=0,473) của nông hộ chỉ ở mức.
- Nguyên nhân chủ yếu là do sự chênh lệch về trình độ canh tác, giá các yếu tố đầu vào giữa các hộ không đồng nhất do ưu thế tài chính của mỗi hộ, biến động thị trường,… Tuy nhiên, hiệu quả quy mô của hộ trồng xoài ở Vĩnh Cửu khá cao (SE=0,93), đa số hộ có quy mô trồng hợp lý với khả năng đầu tư hiện tại của hộ.
- vào hợp lý để đạt hiệu quả kỹ thuật tối ưu và năng suất tối đa..
- cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả chi phí giữa hộ nghèo và hộ không nghèo..
- Hơn nữa, lượng lãng phí các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất của hộ nghèo cũng nhiều hơn..
- Các kết quả nghiên cứu đã cung cấp những thông tin quan trọng về hiệu quả trồng xoài của nông hộ trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
- Đây sẽ là những cơ sở khoa học quan trọng để các cơ quan ban ngành hữu quan đề xuất những kế hoạch, chiến lược hỗ trợ nhằm giúp nông hộ trồng xoài, đặc biệt là hộ nghèo, cải thiện hiệu quả sản xuất, nâng cao năng suất và thu nhập..
- Quan Minh Nhựt, Nguyễn Quốc Nghi và Hà Văn Dũng (2013), “Phân tích hiệu quả chi phí và hiệu quả theo quy mô trồng hành tím huyện Vĩnh Châu- tỉnh Sóc Trăng ứng dụng phương pháp tiếp cận phi tham số”, Tạp chí Khoa học - Đại học Cần Thơ, số 28d-2013, tr

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt