« Home « Kết quả tìm kiếm

Cảm nghĩ đoạn trích Nỗi oan hại chồng trong vở chèo Quan Âm Thị Kính


Tóm tắt Xem thử

- ĐỀ BÀI: PHÁT BIỂU CẢM NGHĨ VỀ ĐOẠN TRÍCH NỖI OAN HẠI CHỒNG TRONG VỞ CHÈO QUAN ÂM THỊ KÍNH.
- “Quan Âm Thị Kính” là vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu dân gian Việt Nam, kể về cuộc đời đầy oan trái của người phụ nữ tên là Thị Kính: Lúc làm vợ để chồng ngờ thất tiết, lúc giả trai cho gái đổ oan tình.
- Trải qua nhiều đau khổ, cuối cùng sau khi chết Thị Kính đã được giải oan và hóa thành Phật Bà Quan Âm..
- “Nỗi oan hại chồng” là tình tiết cốt lõi của phần đầu vở chèo, là bi kịch thứ nhất trong cuộc đời Thị Kính..
- Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền, nết na nhưng bị mẹ chồng buộc tội giết chồng..
- Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính:.
- Khi nghe con trai hô hoán, không cần tìm hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà sấn tới dúi đầu Thị Kính (con dâu) xuống đánh rồi bắt ngửa mặt lên nghe chửi, không cho phân bua gì cả..
- Mọi lời nói, hành động nhục mạ, xỉ vả, vu khống con dâu của Sùng bà đều chứng tỏ mụ ta là kẻ cậy giàu, cậy sang, bất nhân, bất nghĩa..
- Thị Kính một mực kêu oan nhưng càng kêu nàng càng bị mẹ chồng đánh chửi thậm tệ hơn..
- Dù có đủ tài, sắc, đức hạnh nhưng Thị Kính vẫn không được gia đình chồng chấp nhận và coi trọng vì nàng xuất thân con nhà nghèo khó..
- Mâu thuẫn giữa vợ chồng Thị Kính:.
- Cử chỉ của Thị Kính âu yếu, dịu dàng (quạt cho chồng ngủ.
- Khi bị chồng hiểu lầm, gán cho tội tày trời, Thị Kính chỉ biết khóc lóc, bày tỏ sự đau khổ vì bị hàm oan, mong chồng và cha mẹ chồng hiểu rõ sự tình..
- Gã dửng dưng đến lạnh lùng khi Thị Kính bị Sùng Bà đuổi ra khỏi cửa.
- Điều đó chứng tỏ sức sống lâu bền của vở chèo “Quan Âm Thị Kính”..
- Đề bài: Anh (chị) hãy phát biểu cảm nghĩ đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” trong vở chèo.
- “Quan Âm Thị Kính”..
- Trải qua nhiều đau khổ, cuối cùng sau khi chết Thị Kính đã được giải oan và hóa thành Phật Bà Quan Âm.
- Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi.
- Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, Sùng Bà giận dữ đố riệt cho con dâu có ý giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ..
- Phần 2 là Án hoang thai: Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm.
- Phần 3 là Oan tình được giải, Thị Kính lên tòa sen: Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu.
- “Nỗi oan hại chồng” và cái án hoang thai là hai cái nút chính của vở chèo.
- Hai sự kiện tuy thuộc hai mảnh đời khác nhau của Thị Kính nhưng liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo, là bi kịch thứ nhất trong cuộc đời Thị Kính.
- Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch và làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp.
- Thiện Sĩ và Sùng Ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh, ác của Sùng Bà.
- Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn giữa Sùng Bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu).
- Sùng Bà thuộc loại nhân vật độc ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hợm của, tự phụ về dòng giống cao sang, cả vú lấp miệng em, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét, đánh giá người khác theo nhận thức hồ đồ của mình.
- Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo.
- Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng bị Sùng Bà nanh ác buộc tội giết.
- Gia đình nhà chồng đã gây ra cho Thị Kính những nỗi oan chồng chất.
- Mâu thuẫn giữa Sùng Bà và Thị Kính về hình thức là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng về bản chất lại là mâu thuẫn sâu sắc giữa kẻ thống trị và người bị trị.
- Những cử chỉ của Thị Kính đối với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng.
- Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: “Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta.
- Việc làm đầy thiện ý của Thị Kính chưa kịp thực hiện thì Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên: “Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng! Đêm hôm.
- Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng Bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giêt chồng: “Cái con mặt sứa gan lim mày! Mày định giết con bà à?”.
- Thái độ của Sùng Bà rất thô bạo và tàn nhẫn.
- Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng Bà dúi đầu “Thị Kính ngã xuống” rồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho phân bua, thanh minh gì cả..
- Sùng Bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ.
- Dường như mỗi lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội.
- Mụ trút cho Thị Kính đủ tội mà không cần biết sự tình.
- Mụ xỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính giết chồng mà Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa.
- Mâu thuẫn giữa mụ và Thị Kính đã vượt khỏi mâu thuẫn mẹ chồng - nàng dâu.
- Nhân vật Sùng Bà chỉ xuất hiện trong một lớp diễn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tính cách của vai mụ ác trong chèo cổ.
- Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được gia đình chồng chấp nhận bởi vì.
- Khi bị mẹ chồng khép vào tội giết chồng, Thị Kính đã có những lời nói, cử chỉ thật nhẫn nhục, đáng thương.
- Lần thứ nhất, nàng kêu oan với mẹ chồng: “Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ ơi.
- Lần thứ hai, vẫn với mẹ chồng: “Oan cho con lắm mẹ ơi.
- Lần thứ ba, kêu oan với chồng: “Oan thiếp lắm chàng ơi.
- Thị Kính kêu oan với chồng nhưng vô ích bởi Thiện Sĩ là gã đàn ông đớn hèn, nhu nhược..
- Lời van xin của Thị Kính giống như lửa đổ thêm dầu, càng làm bùng lên những lời đay nghiến lăng nhục của Sùng Bà.
- Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan lại càng dày: Giữa gia đình nhà chồng, người phụ nữ đức hạnh ấy hoàn toàn cô độc.
- Chỉ đến lần cuối cùng, Thị Kính kêu oan với cha đẻ là Mãng Ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực.
- Kết cục của nỗi oan là tình vợ chồng giữa Thị Kính và Thiện Sĩ tan vỡ.
- Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng Bà và Sùng Ông còn nhẫn tâm dựng lên một vở kịch tàn ác: lừa Mãng Ông sang ăn cữ cháu, kì thực là bắt Mãng Ông nhận con gái về.
- Thị Kính chạy vội lại đỡ cha..
- Sự việc Sùng Bà cho gọi Mãng Ông đến để trả Thị Kính đã thể hiện tính cách bất nhân bất nghĩa của mụ, đồng thời bộc lộ nỗi bất hạnh lớn nhất của Thị Kính.
- Thị Kính như bị đẩy.
- Cuối lớp diễn, trên sân khấu chỉ còn lại hai cha con Thị Kính lẻ loi đơn độc giữa sự vô tình đến lạnh lùng, tàn nhẫn.
- Cảnh Sùng Bà quy kết, đổ vạ cho Thị Kính diễn ra chóng vánh, dồn dập.
- Còn cảnh hai cha con Thị Kính ôm nhau than khóc thì kéo dài trên sân khấu.
- Thái độ của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà chồng được đặc tả: “Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay”..
- Sự đảo lộn đột ngột đó đã làm cho trái tim đa cảm của Thị Kính đau đớn, bàng hoàng.
- Thị Kính đột ngột bị đẩy vào tình thế éo le: Biết đi đâu? Về đâu bây giờ? Đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến tránh sao khỏi cảnh: “Lênh đênh chiếc bách giữa dòng”?!.
- Trong nỗi đau tình vợ chồng chia cắt, nỗi nhục khi phẩm giá bị chà đạp, sự ê chề khi không bảo vệ được người cha già bị gia đình chồng sỉ nhục, Thị Kính vẫn giữ bản chất thật, hiền lành, giữ gìn phép tắc luân lí của đạo dâu con.
- Người đọc càng xót thương Thị Kính bao nhiêu thì càng căm ghét sự bất nhân bất nghĩa của gia đình Sùng bà bấy nhiêu..
- Kết thúc đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” là cảnh Thị Kính cúi lạy cha rồi nói lên nguyện vọng của mình là sẽ giả trai để bước vào cửa Phật tu hành.
- Con đường giải thoát của Thị Kính có hai mặt tích cực và tiêu cực.
- Mặt tích cực là Thị Kính xác định “phải sống ở đời, mới mong tỏ rõ là người đoan chính”.
- Thái độ của Thị Kính thiếu cái khỏe khoắn, lạc quan, dũng cảm của những người vợ nghèo trong ca dao.
- Phản ứng của Thị Kính mới chỉ dừng lại ở lời trách móc sốphận và ước muốn lòng dạ ngay thẳng của mình được “nhật nguyệt sáng soi”..
- Vở chèo “Quan Âm Thị Kính” nói chung và đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống, thể hiện chân thực cuộc sống bi thảm, bế tắc của nhiều sốphận, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến xưa kia.