JSTPM Tập 3, Số 2, 2014<br />
<br />
69<br />
<br />
LỊCH SỬ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI:<br />
CHÍNH SÁCH KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI (STI)<br />
TRONG GIAI ĐOẠN BẮT KỊP CÔNG NGHỆ1<br />
TS. Sungjoo Hong2<br />
Viện Chính sách KH&CN (STEPI)<br />
<br />
1. Giới thiệu<br />
Hàn Quốc đã nâng cao vị thế toàn cầu của mình dựa vào công cuộc công<br />
nghiệp hóa trong những năm 1960 và 1970. Tuy nhiên, Hàn Quốc vẫn phải<br />
chịu những gánh nặng lớn về kinh tế và xã hội phát sinh do tăng trưởng.<br />
Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1979 làm cho giá dầu tăng cao và đã<br />
đặt ngành công nghiệp hóa chất cơ bản trong nước rơi vào tình trạng khó<br />
khăn. Về phương diện kinh tế, Chính phủ Hàn Quốc thừa nhận rằng cơ cấu<br />
ngành công nghiệp theo hướng xuất khẩu phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên<br />
liệu thô đã không còn bền vững. Hơn thế nữa, từ khía cạnh xã hội, Hàn<br />
Quốc cũng gặp khó khăn trong việc duy trì cơ cấu công nghiệp dựa vào lực<br />
lượng lao động có mức lương thấp do sự phát triển của phong trào bảo vệ<br />
quyền lợi lao động và phong trào đòi dân chủ ngày càng mạnh mẽ.<br />
Những năm 1980, Chính phủ Hàn Quốc đã tìm ra “các giải pháp công<br />
nghệ” để giải quyết những vấn đề do công nghiệp hóa theo hướng xuất<br />
khẩu gây ra. Chiến lược “định hướng công nghệ” của Chính phủ đã thiết lập<br />
mục tiêu chung thay thế cho “định hướng xuất khẩu” lúc đó và đã đạt được<br />
thành công ở cả khu vực công lập cũng như tư nhân trong việc “bắt kịp<br />
công nghệ” với các nước phát triển. Sau đó, Hàn Quốc đã nhanh chóng trở<br />
thành một nước công nghiệp công nghệ cao. Trong quá trình bắt kịp công<br />
nghệ từ trong các ngành công nghiệp nhẹ (như dệt may) vốn đang đóng góp<br />
lớn cho xuất khẩu cũng đã bắt đầu giảm dần; và các ngành công nghiệp<br />
công nghệ cao (như điện tử, máy tính và truyền thông) đã trở thành những<br />
ngành công nghiệp chủ chốt.<br />
Tại thập niên 90, ý tưởng bắt kịp công nghệ đã được duy trì để thúc đẩy<br />
ngành công nghiệp công nghệ cao. Trong thời gian này, hiện tượng toàn<br />
cầu hóa nhanh đã củng cố nền tảng cho chiến lược phát triển công nghệ;<br />
<br />
1<br />
<br />
Nguồn: Tạp chí STI policy review, Tập 2, Số 4, Mùa đông năm 2011<br />
<br />
2<br />
<br />
Nghiên cứu viên, Viện Chính sách KH&CN (STEPI), sungjoo@stepi.re.kr<br />
<br />
70<br />
<br />
Lịch sử khoa học, công nghệ và đổi mới: Chính sách khoa học...<br />
<br />
ngoài ra, các ngành công nghiệp công nghệ cao của các tập đoàn đã đạt<br />
được sự tăng trưởng nhanh chóng. Cuối những năm 1990, các công ty Hàn<br />
Quốc (bao gồm Samsung) đã có thể cạnh tranh với các công ty có thương<br />
hiệu toàn cầu nổi tiếng trong thị trường quốc tế. Với sự tự tin như vậy,<br />
Chính phủ Hàn Quốc đã tập trung vào chiến lược bắt kịp giai đoạn sau. Tuy<br />
nhiên, sau khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, nền tảng của sự biến<br />
chuyển dường như đã suy giảm ít nhiều.<br />
Bài báo này cho thấy chính sách KH&CN của Hàn Quốc những năm 1980<br />
và 1990 đóng vai trò là nguồn động lực cho giai đoạn bắt kịp. Những nỗ lực<br />
bắt kịp này đã được hệ thống KH&CN quốc gia khai thác và tập trung vào<br />
các tổ chức nghiên cứu do Chính phủ tài trợ (GRIs) đã xây dựng trước giai<br />
đoạn này. Hệ thống này đã được mở rộng thành Hệ thống Đổi mới Sáng tạo<br />
Quốc gia (NIS) bao gồm các tổ chức quan trọng khác như khối trường đại<br />
học và khối tư nhân.<br />
2. Bối cảnh<br />
Những năm 1980 và 1990, Chính phủ Hàn Quốc, ngành công nghiệp và<br />
cộng đồng khoa học đều nhận thức được rằng, ngành công nghiệp của Hàn<br />
Quốc đang phải đối mặt với khủng hoảng đan xen là đang bị mắc kẹt giữa<br />
các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong bối cảnh đó, Chính<br />
phủ Hàn Quốc đôi khi đã phóng đại cái gọi là “khủng hoảng kinh tế” này<br />
thông qua các phương tiện truyền thông. Điều này tạo ra sự hỗ trợ rộng<br />
khắp của xã hội về việc “cứu lấy nền kinh tế” và chuyển trọng tâm của<br />
Chính phủ vào các vấn đề kinh tế. Từ những năm 1960, khẩu hiệu “hiện đại<br />
hóa” đã trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của Chính phủ Hàn Quốc để thu hút<br />
sự tham gia và hỗ trợ của công chúng rộng hơn. Tuy nhiên, từ năm 1980,<br />
các dự án của Chính phủ đã được tiến hành theo khẩu hiệu “cứu lấy nền<br />
kinh tế”.<br />
Nhờ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong hơn 20 năm qua, Hàn Quốc đã<br />
gia nhập nhóm các nước cận kề với các nước phát triển; tuy nhiên, Hàn<br />
Quốc vẫn không hài lòng với thành tựu này và cố gắng bắt kịp các nước<br />
phát triển bằng cách tự xác định rằng mình là một nước bị kẹp ở giữa, cần<br />
phải thoát ra khỏi tình trạng mắc kẹt này. Chúng ta có thể hiểu tình trạng<br />
lúc đó từ những thay đổi về cơ hội trong và ngoài nước xảy ra suốt thời<br />
gian này.<br />
Cơ hội đầu tiên là cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1970. Ngành công<br />
nghiệp hóa chất cơ bản phụ thuộc vào nhập khẩu dầu đã bị ảnh hưởng nặng<br />
nhất; sau đó, năm 1980, kinh tế Hàn Quốc lại cho thấy sự tăng trưởng âm (2,7%). Xã hội Hàn Quốc đã bị một cú sốc kinh tế lớn do tại thời điểm đó,<br />
họ kỳ vọng tăng trưởng kinh tế hàng năm là 10%. Điều này đã ảnh hưởng<br />
<br />
JSTPM Tập 3, Số 2, 2014<br />
<br />
71<br />
<br />
tới nỗ lực của Chính phủ Chun Doo Hwan nhằm cải cách cơ cấu công<br />
nghiệp và tái cấu trúc các doanh nghiệp đang gặp khó khăn nhờ vào chiến<br />
lược hợp lý hóa công nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, chính sách “định<br />
hướng công nghiệp” đã được chứng minh là công cụ chủ yếu để giảm sự<br />
phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu (KOSEF, 1986; STEPI, 1997).<br />
Trong khi các ý kiến cho rằng Hàn Quốc vẫn đang còn ở trong tình trạng<br />
khủng hoảng kinh tế còn đang tiếp diễn, cơ hội thứ hai khuyến khích cải<br />
tiến cơ cấu ngành công nghiệp là sự xuất hiện của phong trào nghiệp đoàn<br />
lao động tại Hàn Quốc. Trong suốt những năm 1980 đã diễn ra nhiều cuộc<br />
đình công và biểu tình chống lại mức lương lao động thấp và tình trạng lao<br />
động nghèo nàn. Nền kinh tế Hàn Quốc sẽ rất khó khăn khi tiếp tục duy trì<br />
cơ cấu công nghiệp dựa trên khai thác lao động. Chiến lược để giải quyết<br />
vấn đề này là Chính phủ Hàn Quốc đã thúc đẩy phát triển các ngành công<br />
nghiệp công nghệ cao, sử dụng nhiều công nghệ đặc biệt mới và thực hiện<br />
chính sách phát triển công nghiệp theo hướng giảm các ngành công nghiệp<br />
sử dụng nhiều lao động.<br />
Cơ hội thứ ba là thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh do sự thống nhất nước Đức<br />
tạo ra năm 1989 và sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết cũ năm 1991. Trong<br />
suốt thời gian này, hiện tượng toàn cầu hóa đã xuất hiện nhanh chóng ở<br />
Hàn Quốc. Các chuyến công du và hợp tác nước ngoài được mở rộng trong<br />
thị trường toàn cầu đã tạo ra nhận thức rộng rãi trong xã hội làm cho Hàn<br />
Quốc không còn là một đất nước biệt lập, nhỏ bé về mặt địa lý mà đã trở<br />
thành quốc gia có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Mặt khác, lại<br />
xuất hiện cảm giác “thấp kém” đó là các sản phẩm của Hàn Quốc không<br />
đáp ứng được tiêu chuẩn toàn cầu đã đặt ra thách thức phải vượt qua được<br />
những khó khăn này. Đồng thời, cụm từ “tiêu chuẩn toàn cầu” và “năng lực<br />
cạnh tranh quốc tế” đã được xây dựng trên cơ sở các chính sách toàn cầu<br />
nhằm bắt kịp với các nước tiên tiến.<br />
Phong cách quản lý hoạt động kinh tế quốc gia của Chính phủ Hàn Quốc đã<br />
tập trung vào việc sắp xếp các nguồn lực quốc gia cho tăng trưởng kinh tế<br />
và sự thượng tôn của tư tưởng tăng trưởng kinh tế (được thúc đẩy liên tục<br />
từ năm 1960) đã đóng vai trò nền tảng cho chiến lược bắt kịp. Với điều kiện<br />
và môi trường trong và ngoài nước như vậy, sự đồng thuận đã được tạo ra<br />
trong xã hội Hàn Quốc là coi sự tăng trưởng kinh tế là giá trị quốc gia cao<br />
nhất. Chính phủ Hàn Quốc thực hiện chiến lược tập trung vào tăng trưởng<br />
trong suốt thập niên 1980 và 1990.<br />
3. Chính sách<br />
3.1. Kế hoạch khoa học và công nghệ theo “định hướng công nghệ”<br />
<br />
72<br />
<br />
Lịch sử khoa học, công nghệ và đổi mới: Chính sách khoa học...<br />
<br />
Trong suốt những năm 1980 và 1990, “định hướng công nghệ” là một<br />
nguyên tắc quan trọng thúc đẩy chính sách KH&CN. “Định hướng công<br />
nghệ” là một ý tưởng về vòng tròn quan hệ tích cực trong phát triển của<br />
công nghệ, công nghiệp và quốc gia thông qua việc nhanh chóng cải tiến<br />
công nghệ trong nước để đạt trình độ của các quốc gia tiên tiến. Chính phủ<br />
Hàn Quốc thúc đẩy chính sách này và tìm cách phát triển những ngành<br />
công nghiệp chế tác công nghệ cao cũng như nâng cao uy tín quốc để trở<br />
thành nước có thứ hạng như các nước tiên tiến. Trong suốt những năm 1980<br />
(dựa vào quyền lực quản lý mạnh mẽ của Chính phủ Chun Doo Hwan và<br />
Chính phủ Roh Tae Woo), chiến lược định hướng công nghệ đã được thực<br />
hiện thông qua các chính sách theo hướng top - down từ trên xuống, từ<br />
quốc gia tới người dân. Tuy nhiên, trong thập niên 90, vai trò và chức năng<br />
của khối tư nhân lại lớn hơn khối công lập, do đó Chính phủ dân chủ Kim<br />
Young Sam và Kim Dae Jung đã tìm ra chiến lược phát triển mới do khối tư<br />
nhân dẫn dắt thay vì chiến lược tăng trưởng do Chính phủ dẫn dắt. Vì vậy,<br />
mặc dù có rất nhiều sự khác biệt về phương pháp nhưng vẫn luôn được<br />
khẳng định là chiến lược định hướng công nghệ là một phần quan trọng<br />
trong phần lớn các chính sách quản lý Nhà nước vào những năm 1980 1990 (MOST, 1981; Hàn Quốc, 1993).<br />
Chiến lược “định hướng công nghệ” thay thế chiến lược “định hướng xuất<br />
khẩu” đã cho thấy cam kết chặt chẽ của chính quyền Chun Doo Hwan để<br />
thúc đẩy các ngành công nghiệp công nghệ cao, thông qua các hoạt động<br />
mạnh mẽ trong quản lý Nhà nước và sự can thiệp vào khu vực kinh tế khối<br />
tư nhân. Chiến lược này đã được vạch ra trong “Kế hoạch 5 năm lần thứ 5<br />
về Phát triển kinh tế và xã hội: Kế hoạch hành động trong lĩnh vực<br />
KH&CN, 1982-1986” (Kế hoạch KH&CN 5 năm lần thứ 5) đã được lên kế<br />
hoạch trong thời kỳ Chính phủ Chun Doo Hwan. Kế hoạch này đã thiết lập<br />
khẩu hiệu “Trở thành quốc gia mạnh về công nghệ đạt đẳng cấp thế giới”.<br />
Mục tiêu quan trọng là sự tiên tiến trong công nghệ công nghiệp và tăng<br />
cường năng lực cạnh tranh quốc tế thông qua phát triển KH&CN. Kế hoạch<br />
này khởi động chiến lược phát triển công nghệ của Chính phủ từ những<br />
năm 1980 đã dẫn đến những cải cách và mở rộng hệ thống khuyến khích<br />
KH&CN, mở rộng năng lực tự chủ công nghệ của các doanh nghiệp tư<br />
nhân, củng cố chức năng của các trường đại học và sự phát triển kỹ thuật<br />
công nghệ công nghiệp tiên tiến đã trở thành nhiệm vụ chiến lược.<br />
Chính sách KH&CN những năm 1980 đã tăng trọng số của chính sách phát<br />
triển công nghệ thông tin và truyền thông, do ảnh hưởng của chủ đề “xã hội<br />
thông tin” đã dẫn tới những thảo luận sau này về vấn đề xây dựng vị thế của<br />
nước tiên tiến. Đã có nhiều dự án R&D quốc gia tập trung nguồn lực cho<br />
R&D về công nghệ thông tin và truyền thông. Trong những năm 1990, xu<br />
hướng tập trung các nguồn lực vào lĩnh vực IT tiếp tục diễn ra. Khi Chính<br />
<br />
JSTPM Tập 3, Số 2, 2014<br />
<br />
73<br />
<br />
phủ Kim Young Sam đưa ra “Kế hoạch 5 năm về kinh tế mới” (1993-1997),<br />
chìa khóa của chính sách KH&CN là “tạo điều kiện cho phát triển công<br />
nghệ và thông tin hóa”. Ngoài ra, đa số trong số 7 lĩnh vực được lựa chọn là<br />
các dự án phát triển công nghệ thế hệ tương lai đã được lên kế hoạch trong<br />
“Kế hoạch 5 năm về Đổi mới KH&CN” (Kế hoạch 5 năm Khoa học, Công<br />
nghệ và Đổi mới) năm 1997 đều liên quan tới công nghệ thông tin và truyền<br />
thông. Thêm vào đó, lần đầu tiên thuật ngữ “đổi mới sáng tạo” đã xuất hiện<br />
trong kế hoạch KH&CN của Chính phủ.<br />
Sự khác biệt trong chính sách KH&CN năm 1990 là khối tư nhân đã có vai<br />
trò lãnh đạo ngày càng tăng trong các hoạt động KH&CN. Chính phủ Kim<br />
Young Sam đã thực hiện chính sách phát triển công nghệ định hướng theo<br />
yêu cầu của khối tư nhân trong lĩnh vực KH&CN. Để đạt mục tiêu này,<br />
nhiều dự án quốc gia đã được điều chỉnh. Ở những năm 1980, các tổ chức<br />
công nghệ là tổ chức nghiên cứu do Chính phủ tài trợ đã dẫn dắt những hoạt<br />
động phát triển công nghệ của khối tư nhân. Giờ đây, trong những năm<br />
1990, khối tư nhân đã và đang đi đầu trong việc thực hiện các hoạt động<br />
phát triển công nghệ còn Chính phủ và các tổ chức nghiên cứu do Chính<br />
phủ đóng vai trò hỗ trợ thực hiện.<br />
Từ thập niên 80 tới giữa thập niên 90, xu hướng chính sách KH&CN đã<br />
nhấn mạnh vào việc tiếp tục đề cao tầm quan trọng của “định hướng công<br />
nghệ”. Tuy nhiên, ngành công nghiệp KH&CN của Hàn Quốc đã phải đối<br />
mặt với nhiều khó khăn sau Khủng hoảng Kinh tế Châu Á năm 1997. Nhiều<br />
công nhân trong lĩnh vực KH&CN đã bị mất việc do khối tư nhân cắt giảm<br />
các hoạt động R&D. Ngoài ra, còn phát sinh câu chuyện về “khủng hoảng<br />
khoa học tự nhiên và kỹ thuật” do các sinh viên đã không lựa chọn các<br />
ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật khi thi vào trường đại học. Niềm tin<br />
trước nay cho rằng các ngành công nghiệp và nền kinh tế cũng tự động phát<br />
triển nếu KH&CN được phát triển đã dần trở nên không đáng tin cậy.<br />
KH&CN dù được xem là động lực phát triển lại là lĩnh vực đầu tiên được<br />
loại bỏ khi xảy ra khủng hoảng trong nền kinh tế quốc gia. Chiến lược<br />
“định hướng công nghệ” dường như đã đánh mất quyền năng của mình<br />
trong cuộc Khủng hoảng Kinh tế Châu Á năm 1997.<br />
Chính phủ Kim Dae Jung đã nhanh chóng vượt qua cú sốc của cuộc Khủng<br />
hoảng Kinh tế này thông qua việc thúc đẩy “tăng cường khoa học, công<br />
nghệ và đổi mới sáng tạo”. Đây là một tư tưởng chính sách còn mạnh mẽ<br />
hơn cả “định hướng công nghệ” đã được đề cập để ứng phó với thị trường<br />
toàn cầu chỉ bằng cách làm đơn giản đó là bắt kịp công nghệ và phát triển<br />
các công nghệ mới. “Định hướng đổi mới sáng tạo” (sau này đã trở thành<br />
hệ tư tưởng trong chính sách KH&CN của Hàn Quốc) bao gồm việc phát<br />
triển công nghệ mới và xem xét một cách toàn diện sự chuẩn bị cho tương<br />
<br />