Số 7 (225)-2014<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
53<br />
<br />
CHIẾN LƯỢC GIAO TIẾP XƯNG HÔ CỦA THÀNH VIÊN<br />
BAN GIÁM KHẢO TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN<br />
HÌNH THỰC TẾ BẰNG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH<br />
STRATEGIES OF ADDRESSING BY MEMBERS OF JUDGE PANEL ON REALITY<br />
TELEVISION IN VIETNAMESE AND ENGLISH<br />
TRẦN THỊ THANH HƯƠNG<br />
(ThS; Đại học Thăng Long)<br />
Abstract: Addressing by members of judging panels in English and Vietnamese reality<br />
television programs reflects dynamic interpersonal strategies. This study focuses on<br />
investigating address forms, imprecise correspondence in addressing, changes in addressing<br />
and absence of address forms by Vietnamese and American members of judging panels.<br />
Vietnamese and American speakers’ ways of addressing in the same communication<br />
contexts show similar and different interactional strategies that are marked with sociocultural characteristics and signal some cross-cultural influences.<br />
Key words: address forms; reality television; interpersonal strategies.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
1.1. Xưng hô là cơ chế ngôn ngữ học quan<br />
trọng chỉ báo mối quan hệ xã hội giữa người<br />
nói và người nghe. Mặc dù chúng không tham<br />
gia trực tiếp vào nội dung của diễn ngôn,<br />
nhưng chúng giúp góp phần xác định nhận<br />
dạng của người nói, thể hiện tính lịch sự, giữ<br />
thể diện trong giao tiếp, từ đó bộc lộ đặc điểm<br />
văn hóa xã hội. Chính vì vậy các nhà ngôn<br />
ngữ học đã quan tâm nghiên cứu chúng theo<br />
nhiều bình diện, nhất là trong mối quan hệ với<br />
văn hóa.<br />
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên<br />
cứu về xưng hô tiếng Việt và đã có một số<br />
công trình nghiên cứu đối chiếu xưng hô của<br />
tiếng Việt với các ngôn ngữ khác trong đó có<br />
tiếng Anh. Tuy nhiên, nghiên cứu về xưng hô<br />
ở lĩnh vực ngôn ngữ lời nói trên truyền hình<br />
thì còn rất hạn chế. Khi phân tích về cách thức<br />
xưng hô của người nói trên truyền hình,<br />
Nguyễn Thế Kỷ (2011, tr. 115-129) phân biệt<br />
bốn cách xưng hô chính: trịnh trọng, thân mật,<br />
lễ phép và kém lịch sự/thô lỗ, trong đó sắc thái<br />
kém lịch sự/thô lỗ không được phép xuất hiện.<br />
Theo tác giả, các từ xưng hô, các kiểu cách<br />
xưng hô trên truyền hình nhìn chung được vận<br />
<br />
hành theo những khuôn mẫu nhất định.Chẳng<br />
hạn: xưng với khán giả là “chúng tôi”, “chúng<br />
ta”; gọi khán giả là “quý vị” và “các bạn”. Khi<br />
tác nghiệp, tùy theo từng đối tượng, bối cảnh,<br />
đề tài cụ thể, người nói trên truyền hình lựa<br />
chọn cách hô gọi phù hợp, chú trọng tới các<br />
nhân tố tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo,<br />
nghề nghiệp, địa vị xã hội, mức độ thân<br />
quen,... Cũng theo tác giả, về biểu cảm, xưng<br />
hô truyền hình dùng ba kiểu chủ yếu là trang<br />
trọng, trung hòa (vừa phải) và thân mật. Tuy<br />
nhiên, tác giả mới chỉ nghiên cứu cách xưng<br />
hô của người của đài (speaker of television)<br />
như phóng viên, người dẫn chương trình,<br />
MC,…Họ là những người được đào tạo để nói<br />
năng trên truyền hình. Tác giả chưa đề cập tới<br />
thành viên ban giám khảo, huấn luyện viên,...<br />
những người nói chính trong các chương trình<br />
trò chơi của truyền hình thực tế nhưng lại<br />
không phải là những người nói chuyên nghiệp<br />
ở thể loại này.<br />
Vì thế, bài viết này khảo sát nghiên cứu<br />
các chiến lược giao tiếp xưng hô của thành<br />
viên ban giám khảo trong truyền hình thực tế<br />
qua một số chương trình trò chơi ở Việt Nam<br />
và ở Mĩ trên cùng phiên bản.<br />
<br />
54<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
1.2. Sự phát triển ngày một mạnh mẽ của<br />
truyền hình thực tế (reality television) phiên<br />
bản quốc tế (có bản quyền và được triển khai ở<br />
nhiều nước khác nhau) đem tới một cơ hội để<br />
đối chiếu ngôn ngữ hành chức thực thụ như<br />
thế nào trong các bối cảnh tương đồng. Truyền<br />
hình thực tế là một loại hình báo chí bao gồm<br />
những chương trình truyền hình về người có<br />
thực [1] (không phải diễn viên hay nhân viên<br />
truyền hình chuyên nghiệp), họ tương tác với<br />
nhau mà dường như theo phản ứng tự nhiên<br />
hơn là kịch bản cho sẵn [2]. Đây là một thể<br />
loại pha trộn giữa thông tin, giải trí, tài liệu và<br />
sân khấu [1]. Đặc biệt trong các trò chơi<br />
truyền hình sử dụng ban giám khảo (hoặc một<br />
hình thức đội ngũ đánh giá, nhận xét người<br />
chơi/thí sinh) không phải là nhân viên của đài<br />
truyền hình (chúng tôi gọi chung là ban giám<br />
khảo), một thời lượng lớn được dành cho các<br />
tương tác giữa ban giám khảo và thí<br />
sinh/người chơi (chúng tôi tạm gọi chung là<br />
thí sinh) nhằm từ đó chọn ra thí sinh đi tiếp<br />
vào các vòng thi đấu khác. Chúng tôi thực<br />
hiện nghiên cứu về giao tiếp xưng hô ở 15 tập<br />
trong các tập đầu tiên của hai trò chơi truyền<br />
hình được thực hiện với cùng định dạng<br />
(format) tại Việt Nam và Mĩ trong năm 2013,<br />
trong đó các thành viên ban giám khảo tương<br />
tác với trên 90 lượt thí sinh (ở Việt Nam) và<br />
hơn 80 lượt thí sinh (ở Mĩ).<br />
2. Các chiến lược giao tiếp xưng hô của<br />
TVBGK trên truyền hình thực tế<br />
Chúng tôi thực hiện khảo sát trên 15 tập<br />
trong số các tập đầu của hai trò chơi truyền<br />
hình “Masterchef” (Vua Đầu Bếp), “The<br />
Voice” (Giọng Hát) ở Việt Nam và Mĩ năm<br />
2013; “Masterchef Junior” (Vua Đầu Bếp<br />
Nhí) ở Mĩ và “The Voice Kids” (Giọng Hát<br />
Việt Nhí) ở Việt Nam. Do phiên bản “The<br />
Voice Kids” (Giọng Hát Nhí) chưa được triển<br />
khai ở Mĩ nên chúng tôi khảo sát trên phiên<br />
bản “Masterchef Junior” (Vua Đầu Bếp Nhí)<br />
ở Mĩ để có được dữ liệu về nhóm tuổi trẻ em.<br />
Cách làm là như sau: thống kê tất cả các hình<br />
thức xưng hô của thành viên ban giám khảo<br />
<br />
Số 7 (225)-2014<br />
<br />
(TVBGK) trong giao tiếp trực diện với thí sinh<br />
(TS) và các thành viên khác trong BGK.<br />
TVBGK chương trình Masterchef là những<br />
đầu bếp hoặc những chuyên gia về ẩm thực<br />
nổi tiếng, TVBGK chương trình The Voice là<br />
những ca sĩ hoặc nhạc sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng.<br />
Chúng tôi thống kê được 1216 lượt tự xưng<br />
và 1906 lượt hô/gọi của TVBGK người Việt<br />
trong giao tiếp với TS và với nhau. Tỉ suất<br />
xưng trên hô của TVBGK người Việt là<br />
64/100, gần tương đương với tỉ suất xưng trên<br />
hô của TVBGK người Mĩ (62/100) trong cùng<br />
phiên bản chương trình Masterchef và The<br />
Voice. Số lượt hô/gọi cao hơn số lượt tự xưng<br />
cho thấy TVBGK thường định hướng tới và<br />
tập trung vào phản ánh về người nghe (TS, các<br />
thành viên khác) nhiều hơn. Đây là cách thể<br />
hiện sự khách quan trong đánh giá và nhận<br />
xét.<br />
2.1. Các hình thức tự xưng của TVBGK<br />
người Việt và người Mĩ<br />
Nhìn chung, trong khảo sát của chúng tôi,<br />
TVBGK người Việt và người Mĩ đã sử dụng<br />
các hình thức tự xưng sau đây:<br />
B ng 1. Các hình thức tự xưng của TVBGK<br />
TVBGK người Việt<br />
a. Từ thân tộc (Từ thân<br />
tộc: 66.3%, từ thân tộc<br />
+ tên: 5.5%)<br />
b. Đại từ xưng hô "tôi"<br />
(13.9%)<br />
c. Từ xưng hô số<br />
nhiều (10%)<br />
d. Xưng bằng Họ, đệm<br />
+ tên, hoặc tên (3%)<br />
e. Từ tự xưng bằng<br />
tiếng Anh (0.9%)<br />
f. Từ tự xưng khác<br />
(0.4%)<br />
<br />
TVBGK người Mĩ<br />
a. Đại từ xưng hô “I”<br />
(90.3%)<br />
b. Đại từ xưng hô<br />
“we” (8.2%)<br />
c. Xưng bằng danh từ<br />
chung (1.4%)<br />
d. Xưng bằng tiếng<br />
khác ngoài tiếng Anh<br />
(chúng tôi không<br />
thống kê)<br />
<br />
Từ danh sách trên, có thể thấy rõ các hình<br />
thức tự xưng của TVBGK người Việt phong<br />
phú, phức tạp hơn. Một khuynh hướng rõ rệt<br />
là TVBGK người Việt sử dụng chủ yếu là các<br />
từ thân tộc khi giao tiếp (anh, chị, cô, chú,<br />
em,…), và danh từ thân tộc đi với tên,<br />
đệm+tên hoặc họ tên (chị Mỹ Linh, anh Trung,<br />
<br />
Số 7 (225)-2014<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
anh Đàm Vĩnh Hưng,…). Chiến lược tự xưng<br />
này một mặt cho thấy sự phân biệt chủ yếu là<br />
tuổi và giới tính giữa TVBGK và TS hoặc<br />
giữa họ với nhau, mặt khác lại thể hiện sự thân<br />
mật và gần gũi mà họ muốn tạo ra ở trò chơi.<br />
Hình thức tự xưng “tôi” tỏ ra trung tính<br />
hơn, tương đương với cách xưng là “I” ở tiếng<br />
Anh, đẩy khoảng cách giữa người nói và<br />
người nghe ra xa hơn so với cách dùng từ thân<br />
tộc nêu trên. Hình thức này được sử dụng với<br />
các TS ở độ tuổi khác nhau, tuy nhiên với các<br />
TS người Việt rất nhỏ tuổi (từ 9 đến 12 tuổi),<br />
không TVBGK nào xưng là “tôi”.<br />
Điều rất khác với các xưng hô của người<br />
Mĩ là, người Việt còn tự xưng bằng tên, đệm<br />
và tên (3%). Cách này từng được giải thích là<br />
người nói muốn tự tôn mình lên [Phạm Thị<br />
Hà, 2013] nhưng ngoài ra, theo chúng tôi đây<br />
là cách lựa chọn khi người nói không muốn<br />
phải phân vân về vai vế, khoảng cách giao<br />
tiếp. Cách tự xưng bằng họ + tên và đệm + tên<br />
thường thấy ở các nghệ sĩ, ca sĩ khi họ trở<br />
thành nghệ danh. TVBGK người Việt sử dụng<br />
nhiều hình thức tự xưng ở dạng số nhiều hơn<br />
so với TVBGK người Mĩ.<br />
Ngoài ra, trong khi ở chương trình bằng<br />
tiếng Anh, chỉ có các hình thức biểu đạt số<br />
nhiều là “we” (8.2%) và tên/tính từ sở<br />
hữu+danh từ chung (chẳng han, Shakira’s<br />
team, my team; 1.4%) thì ở chương trình tiếng<br />
Việt, chúng tôi thấy có các hình thức như:<br />
(a) Danh từ chung kèm theo hoặc không<br />
kèm theo tên/từ thân tộc (1.5%). Ví dụ: ban<br />
giám khảo, đội Mỹ Linh, bên chú, tụi chị, đội<br />
của cô chú, đội ngũ của chú, đội của chú với<br />
chị.<br />
(b) Từ thân tộc số nhiều (1.2%). Ví dụ: các<br />
cô và các chú, cô và chú Hồ Hoài Anh, chị em<br />
m nh,<br />
(c) chúng tôi (0.8%); chúng ta/ ta (2.5%);<br />
chúng mình/mình (4%).<br />
Sự phong phú về cách biểu đạt về bản thân<br />
qua các từ xưng hô số nhiều và tỉ lệ cao hơn về<br />
cách dùng này trong những thể loại chương<br />
<br />
55<br />
<br />
trình có định dạng bản quyền như nhau cho<br />
thấy người Việt có khuynh hướng nói theo<br />
tính chất đại diện, tập thể (collective) nhiều<br />
hơn người Mĩ. Ví dụ:<br />
(vd.1) Hồng Nhung nói với TS nam: “Cho<br />
nên là ta phải t p trung vào đúng cái điểm<br />
mạnh nhất mà ta có và ta xây dựng, ta vun đắp<br />
để thế nào ta lên được tốt nhất ở cái khả năng<br />
của ta có thể, sau đó ta mới tính chuyện đi,<br />
các chuyện khác, đúng không nhể (nhỉ)?”<br />
(GHV, tập 2);<br />
(vd. 2) Đàm Vĩnh Hưng nói với TS nam:<br />
“Quân, mình đã gặp nhau chưa ” (GHV, tập<br />
2)<br />
Ngoài ra, còn có hiện tượng trộn mã, khi<br />
TVBGK sử dụng từ “we”, “us” khi xưng hô<br />
với TS người Việt.<br />
(vd. 3) Thanh Bùi nói với TS nam bằng<br />
cách hát để thuyết phục TS về đội của mình:<br />
“we will, we will rock you” (GHV Nhí, tập 3);<br />
(vd. 4) Mỹ Linh nói với TS nữ: “Let’s start<br />
to be a hero!” (GHV, tập 2);<br />
TVBGK người Việt còn sử dụng đại từ<br />
tiếng Anh “I” ở tỉ lệ 0.9%, ví dụ:<br />
(vd. 5) Hoàng Khải nói với TS nữ: “I say<br />
‘yes’” (VĐBV, tập 3)<br />
Hiện tượng trộn mã có ở tất các các chương<br />
trình trò chơi truyền hình phiên bản Việt mà<br />
chúng tôi tiến hành khảo sát. Sự sử dụng một<br />
mã giao tiếp khác trong một chương trình<br />
dành cho người Việt cho thấy ảnh hưởng của<br />
tiếng Anh, văn hóa Anh-Mĩ qua truyền hình<br />
thực tế phiên bản quốc tế.<br />
Nếu như ở chương trình tiếng Anh, hầu<br />
như không có sự khác nhau nào về tỉ lệ sử<br />
dụng từ tự xưng giữa các chương trình trò chơi<br />
truyền hình thì ở chương trình tiếng Việt sự<br />
khác biệt rõ rệt nhất thể hiện ở tần suất sử<br />
dụng từ thân tộc, từ xưng hô “tôi” và từ thân<br />
tộc + tên. Ở chương trình Vua Đầu Bếp VN,<br />
TVBGK sử dụng tỉ lệ từ thân tộc thấp hơn ở<br />
hai chương trình còn lại, nhưng sử dụng từ<br />
“tôi” nhiều nhất trong số ba chương trình. Một<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
56<br />
<br />
lí do là TVBGK Vua Đầu Bếp VN lớn tuổi<br />
hơn (khoảng tuổi trung niên), TS bao gồm cả<br />
người tuổi trung niên và thanh niên, từ “tôi”<br />
giúp họ không phải biểu đạt sự khác biệt về<br />
tuổi tác. Ngoài ra còn vì người tự xưng muốn<br />
tạo khoảng cách để thể hiện tính khách quan<br />
trong đánh giá, nhận xét và sự nghiêm túc,<br />
trang trọng trong thi đấu để loại trực tiếp các<br />
TS không đạt yêu cầu. Trong khi đó, các<br />
chương trình Giọng hát (The Voice) lại yêu<br />
cầu TVBGK phải chiếm được cảm tình của<br />
TS để họ chọn mình làm huấn luyện viên<br />
trong trường hợp nhiều hơn một TVBGK<br />
chọn TS đó vào vòng thi đấu tiếp theo, do vậy<br />
các từ tự xưng thể hiện tình cảm, sự thân mật,<br />
gần gũi thường được họ sử dụng hơn. Đúng<br />
như nhận định của Nguyễn Văn Khang (2012,<br />
tr. 367-368): khi tự xưng bằng từ thân tộc (cụ,<br />
ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, chú, cô, bác,<br />
con) chủ thể thể hiện sự gần gũi; và từ xưng<br />
hô “tôi” thể hiện sự bằng vai, trung tính, tạo<br />
khoảng cách hoặc tự khẳng định vị thế của bản<br />
thân.<br />
<br />
Biểu đ 1. Các hình thức tự xưng của<br />
TVBGK người Việt qua các chương tr nh<br />
2.2. Các hình thức hô/gọi của TVBGK<br />
người Việt và người Mĩ<br />
B ng 2. Các hình thức hô/gọi của TVBGK<br />
Các hình thức<br />
hô/gọi – chủ thể<br />
người Việt<br />
<br />
Các hình thức hô/gọi –<br />
chủ thể người Mĩ<br />
<br />
a. Từ thân tộc<br />
(85.2%)<br />
b. Từ than tộc + họ,<br />
đệm, tên (4.4%)<br />
c. Họ, đệm, tên (4%)<br />
d. Từ hô/gọi "bạn",<br />
"bạn" + tên (2.5%)<br />
e. Từ hô/gọi số nhiều<br />
(2.1%)<br />
f. Từ hô/gọi khác<br />
(1.3%)<br />
g. Từ hô/gọi tiếng<br />
Anh (0.5%)<br />
<br />
Số 7 (225)-2014<br />
a. Từ hô/gọi “you”<br />
(77.7%)<br />
b. Họ, tên (12.8%)<br />
c. Danh từ chung<br />
(7.0%)<br />
d. Danh từ chỉ sự thân<br />
mật (1.5%)<br />
e. Từ hô/gọi khác<br />
(1.0%)<br />
<br />
Bảng trên cho thấy rõ sự khác biệt và đặc<br />
điểm nổi bật của các cách hô/gọi của TVBGK<br />
người Việt và người Mĩ. TVBGK người Việt<br />
sử dụng đa số là từ thân tộc để gọi TS và thành<br />
viên khác. Họ sử dụng một số rất ít các từ thân<br />
tộc đi kèm họ, đệm, tên trong giao tiếp. Người<br />
Mĩ hô/gọi theo cách trung tính với từ “you”,<br />
nhưng họ sử dụng tên riêng của TS và<br />
TVBGK để hô/gọi nhiều hơn người Việt. Do<br />
các khuynh hướng hô gọi gần gũi, ít trang<br />
trọng trên nên không khí của trò chơi truyền<br />
hình ở Mĩ khá thân tình, vui vẻ.<br />
Việc hô/gọi bằng họ tên chiếm tỉ lệ rất thấp,<br />
nên chúng tôi gộp vào mục “họ, (đệm), tên”.<br />
Các danh từ chung trong từ hô gọi tiếng Anh<br />
bao gồm: (my) friend, man/men, guy(s),<br />
girl(s), you guy(s).... Người Mĩ còn dùng một<br />
số danh từ chỉ sự thân mật như: buddy (bạn<br />
thân), sweetheart, sweetie, darling (người yêu<br />
dấu), brother, bro (anh/em). Điều đáng lưu ý<br />
là, các từ hô/gọi này thường không tham gia<br />
làm thành phần nòng cốt của phát ngôn, chỉ là<br />
thành phần chêm vào (free). Do có lúc TS<br />
tham gia theo cặp, nhóm và TVBGK gọi các<br />
thành viên còn lại nên chúng tôi đã ghi nhận<br />
một số hình thức hô/gọi số nhiều (các bạn, hai<br />
anh,…).<br />
Ngoài ra, các từ hô/gọi khác trong phiên<br />
bản Việt cũng được sử dụng như danh từ chỉ<br />
nghề nghiệp (Chef Hải, cô giáo,…), danh từ<br />
/từ thân tộc + miêu tả (bạn nhỏ, em trai mặc<br />
áo da, con gái nhỏ, em gái xinh đẹp,…).<br />
<br />
Số 7 (225)-2014<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
Trong phiên bản trò chơi truyền hình Mĩ cũng<br />
sử dụng các từ hô/gọi khác bao gồm danh từ +<br />
miêu tả (young man, young girl, …) và danh<br />
từ chỉ sự trang trọng. Tuy nhiên, các danh từ<br />
chỉ sự trang trọng như “gentlemen” , “young<br />
lady” chỉ xuất hiện một lần trong chương trình<br />
Masterchef Junior US để gọi các TS nhỏ tuổi<br />
theo cách trân quý, thân mật.<br />
<br />
Biểu đ 2. Các hình thức hô/gọi của<br />
TVBGK người Việt qua các chương tr nh<br />
Biểu đồ 2 cho thấy khoảng cách tuổi tác<br />
giữa những người Việt tham gia giao tiếp càng<br />
lớn thì khuynh hướng người nói sử dụng từ<br />
thân tộc trong hô/gọi càng cao. Ở chương trình<br />
Giọng hát Việt Nhí, các TS là trẻ em nên họ<br />
thường được gọi TS chủ yếu bằng bằng<br />
con/cháu . Ở chương trình Vua Đầu Bếp Việt,<br />
tỉ lệ hô/gọi bằng từ thân tộc có thấp hơn và tỉ<br />
lệ hô/gọi bằng bạn, bạn + tên cao hơn do TS<br />
tham gia khá lớn tuổi và TVBGK cũng ở tuổi<br />
trung niên, do vậy không khí chung ở trò chơi<br />
này ít thân tình hơn. Ví dụ:<br />
(vd. 6) Hiền Thục hỏi TS nam: “Chào con<br />
trai! con tên gì?” (GHV Nhí, tập 1)<br />
(vd. 7) Quốc Trung nói với TS nữ: “Em bắt<br />
đầu bài hát nó hơi bị thấp hơn so với tông của<br />
bài hát" (GHV, tập 5)<br />
(vd. 8) Mỹ Linh nói với TS nam (người<br />
duy nhất đứng trên sân khấu): “Em trai mặc<br />
áo da, Em tên là gì? (GHV, tập 2)<br />
(vd. 9) Phan Tôn Tịnh Hải hỏi TS nam: “Ai<br />
là cái người hướng dẫn bạn nấu ăn Hay là<br />
bạn đọc sách thôi?” (VĐBV, tập 1)<br />
<br />
57<br />
<br />
Trong khi đó, ở các chương trình trò chơi<br />
truyền hình ở Mĩ, ngoài khuynh hướng gọi<br />
bằng “you” rất phổ biến, TVBGK còn thường<br />
gọi khách thể bằng tên, với tỉ lệ cao hơn (lần<br />
lượt là 16.6%, 10%, 15.8%) so với ở trò chơi<br />
tương tự tại Việt Nam (lần lượt là 0.9%, 4%,<br />
5.8%).<br />
<br />
Biểu đ 3. Các hình thức hô/gọi của<br />
TVBGK người Mĩ qua các chương tr nh<br />
Xét theo chương trình, ở trò chơi<br />
Masterchef của Mĩ, các giám khảo thường lần<br />
lượt gọi tên nhau để biết ý kiến của nhau về<br />
TS và họ cũng thường phải chỉ định TS theo<br />
tên riêng nên tỉ lệ sử dụng tên riêng để hô/gọi<br />
cao hơn so với trò chơi The Voice ở Mĩ<br />
(16.6% và 15.8% so với 10%). Chương trình<br />
The Voice ở Mĩ sử dụng nhiều danh từ chung<br />
hơn cả (10.5%) và chủ yếu dùng để gọi TS<br />
nam. Các TS nữ hầu như rất ít được gọi bằng<br />
các từ chêm vào, và thường là các từ chỉ sự<br />
yêu mến, thân mật. Điều này có thể do<br />
TVBGK chủ yếu là nam giới. Ví dụ:<br />
(vd. 10) Gordon Ramsey hỏi TS nam: "The<br />
love of food, Bime, comes from where?” (Tình<br />
yêu với thức ăn, Bime, là đến từ đâu vậy?;<br />
MCUS, tập 1)<br />
(vd. 11) Usher Raymond hỏi TS nữ:<br />
“What’s your name, sweetheart?” (Em tên gì,<br />
em yêu?; VCUS, tập 3)<br />
(vd. 12) Gordon Ramsey nói với TS nam:<br />
“Johny B, good to see you, bud What’re you<br />
cooking?” (Johny B, rất hân hạnh gặp bạn.<br />
Bạn làm món gì?<br />
(vd. 13) Usher Raymond hỏi cặp TS nam:<br />
“Hơ many years have you guys been playing<br />
together?”<br />
<br />