Số 8 (226)-2014<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
37<br />
<br />
DẤU ẤN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ<br />
BIỂU HIỆN QUA NHÓM TỪ ĐÁNH GIÁ SỰ VẬT<br />
(Qua khảo sát thơ ca dân gian Nam Bộ)<br />
SOUTHERNERS’ CULTURAL MARKS INDICATED IN THE LEXICAL GROUP<br />
OF SUBJECT EVALUATION (Via the investigation on the Southern folk poetry)<br />
TRẦN ĐỨC HÙNG<br />
(Ths; Đại học Đồng Tháp)<br />
Abstract: Of the Southern folk poetry (SFP), there are quite a number of lexical items of subject<br />
evaluation with various denotations. In this paper, we investigate the lexical group of subject evaluation by the<br />
Southerners in SFP and divide it into 4 subgroups: the first of weak evaluation, decreasing in size; the second<br />
of strong evaluation, increasing in size; the third of positive evaluation, with empathy; and the final one of<br />
negative evaluation with antipathy. These lexical items are related to the Southerners’ culture, cognition and<br />
sophisticated evaluation of subjects with specific emotional expressions in which the human subjectivity of<br />
authentic recognition is clearly addressed.<br />
Key words: cultural; the lexical group of subject evaluation; folk poetry; Southern.<br />
Bộ (qua khảo sát thơ ca dân gian Nam Bộ<br />
1. Đánh giá sự vật, hiện tượng là một phần không (TCDGNB)) theo định hướng chỉ đề cập tới 4 tiểu<br />
thể thiếu của con người trong quá trình nhận thức về nhóm từ, bao gồm: Nhóm từ đánh giá theo mức độ<br />
thế giới hiện thực. Trong quá trình đó, mỗi người khi nhẹ, mang ý nghĩa giảm về kích thước; Nhóm từ<br />
đánh giá về một sự vật lại có sự khám phá ra các đặc đánh giá theo mức độ cao, mang ý nghĩa tăng về<br />
trưng khác nhau và do đó sử dụng từ ngữ để đánh kích thước; Nhóm từ đánh giá mang ý nghĩa đánh<br />
giá có sự khác nhau nhất định. Sự khác nhau này thể giá tích cực, có thiện cảm; Nhóm từ đánh giá mang<br />
hiện ở chỗ cùng một sự vật nhưng chúng ta có rất ý nghĩa đánh giá tiêu cực, không có thiện cảm. Đây<br />
nhiều từ cùng nằm trong một phạm trù rộng bao là các tiểu nhóm từ gắn bó với đời sống văn hóa,<br />
gồm nhiều phương diện, nhiều mức độ thể hiện sự cách thức tri nhận và cách đánh giá sự vật hết sức<br />
đánh giá để lựa chọn và việc lựa chọn như thế nào tinh tế với những sắc thái biểu cảm rất riêng của<br />
còn phụ thuộc vào cách nhận thức của mỗi cá nhân. người Nam Bộ mà trong đó yếu tố chủ quan của con<br />
Đúng như nhận xét của V.F. Humboldt: “Từ không người về cảm nhận hiện thực được thể hiện rõ nét.<br />
phải là đại diện cho bản thân sự vật… mà là sự biểu<br />
2. Từ ngữ chỉ đánh giá sự vật trong thơ ca dân<br />
hiện quan điểm riêng của chúng ta về sự vật. Đây là gian Nam Bộ<br />
nguồn gốc chính của sự đa dạng về những cách biểu<br />
2.1. Nhóm từ đánh giá theo mức độ nhẹ, mang<br />
hiện cho cùng một sự vật…” [10; 101]. Cho nên, ý nghĩa giảm<br />
nghiên cứu nhóm từ ngữ chỉ đánh giá sự vật của con<br />
Đánh giá theo mức độ nhẹ là cách đánh giá giảm<br />
người đã trở thành một yêu cầu cần thiết trong quá nhẹ mức độ của sự vật xuống thấp hơn mức trung<br />
trình nghiên cứu một ngôn ngữ cụ thể.<br />
bình. Trong tiếng Việt, chúng ta thường hay gặp từ<br />
Cùng chung một ngôn ngữ nhưng tùy theo từng láy như: trăng trắng, đo đỏ, ngăn ngắn, tim tím...<br />
tình huống, từng sự vật cụ thể mà mỗi vùng phương Những từ này được láy lại từ tính từ gốc: trắng, đỏ,<br />
ngữ lại đánh giá bằng cách lựa chọn các phương tiện ngắn, tím. Nghĩa của các từ láy này biểu thị tính chất<br />
từ vựng và phương thức khác nhau. Phương ngữ thấp hơn với mức độ trung bình của các tính từ gốc.<br />
Nam Bộ cũng vậy. Bên cạnh vốn từ quen thuộc của Trong TCDGNB, nhóm từ được đánh giá theo mức<br />
ngôn ngữ toàn dân, những đơn vị từ ngữ mà người độ nhẹ, giảm về kích thước có số lượng gồm 31 từ<br />
dân nơi đây sử dụng lại có những nét riêng xét trên với những biểu hiện về sắc thái nghĩa khá phong phú<br />
từng hiện tượng cụ thể. Bài viết của chúng tôi đi vào như: chín hườm, êm rìu, hân hấn, ốm ốm, lăng<br />
tìm hiểu nhóm từ chỉ đánh giá sự vật của người Nam quằng, lăng líu, lẫn đẫn, le the, lịu địu, lỉnh bỉnh, lít<br />
<br />
38<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
chít… Nhóm từ này bao gồm cả từ ghép và từ láy,<br />
nhưng chủ yếu tồn tại dưới dạng các từ láy. Do đó,<br />
sắc thái nghĩa được giảm nhẹ hơn mức độ bình<br />
thường. Khi đọc các từ này, ta có cảm giác êm ái,<br />
dễ nghe. Xét về mặt cấu tạo, các từ láy trong nhóm<br />
này chủ yếu gồm 2 yếu tố, trong đó hầu hết cả hai<br />
yếu tố đều không xác định được đâu là tiếng gốc<br />
có nghĩa. Lớp từ này khác với cấu trúc từ láy trong<br />
ngôn ngữ toàn dân. Trong ngôn ngữ toàn dân, từ<br />
láy được chia thành 2 loại: loại thứ nhất, xác định<br />
được tiếng gốc có nghĩa (xanh xanh, trắng trắng,<br />
xanh xao, nhè nhẹ, mằn mặn, nhàn nhạt…); loại<br />
thứ hai, không xác định được tiếng gốc có nghĩa<br />
(lẩn thẩn, lẩm cẩm, hổn hển, lác đác, hì hục, đủng<br />
đỉnh...). Trong TCDGNB, từ láy đánh giá theo<br />
mức độ nhẹ, giảm về kích thước chủ yếu xuất hiện<br />
ở loại thứ hai này (hân hấn, lăng líu, le the, lẫn<br />
đẫn...). Ví dụ: Anh thương em lẩn đẩn, lờ đờ/Giả<br />
như Tôn Các ngồi chờ Bạch Viên [4; 170]<br />
Xét về quan hệ với từ toàn dân, có một số từ là<br />
từ biến âm của ngôn ngữ toàn dân: Gập gình (gập<br />
gềnh), le the (lưa thưa), hẩng hờ (hững hờ), minh<br />
mông (mênh mông), thinh thinh (thênh thênh)... Ví<br />
dụ:<br />
Bụi cỏ le the, bụi tre lút chút/ Nghe em có<br />
chồng, anh giúp đôi bông [5; 350]<br />
Trời cao lồng lộng/ Đất rộng thinh thinh/Tôi<br />
không có dạ phụ mình/Bởi anh ở bạc phụ tình<br />
nghĩa xưa [11; 234]<br />
Trong nhóm từ này, có một số từ có ý nghĩa<br />
tương đồng với từ toàn dân, nhưng có sự phân biệt<br />
về sắc thái nghĩa hoặc sắc thái biểu cảm nhất định<br />
nào đó. Ví dụ:<br />
Ngó ra Vàm Cậu lù mù/ Đông Hồ, Thị Vạn, Tô<br />
Châu, Rạch Dừa [4; 233]<br />
Từ lù mù trong ngôn ngữ toàn dân thường dùng<br />
để chỉ ánh sáng của ngọn đèn, có nghĩa là “có ánh<br />
sáng yếu ớt đến mức dở sáng dở tối” [7; 588].<br />
Trong cách đánh giá của người Nam Bộ, từ lù mù<br />
lại có nghĩa khác. Nó được dùng để chỉ nhìn một<br />
vật không rõ do hiện tượng tự nhiên nào đó tạo ra,<br />
có nghĩa là “mờ, không rõ, chỉ có hình dạng nhưng<br />
không rõ đường nét, do vật ở quá xa, hoặc bị che<br />
phủ bởi sương, khói” [9; 765].<br />
Từ lẫn đẫn cũng là trường hợp tương tự. Trong<br />
phương ngữ Nam Bộ, lẫn đẫn có nghĩa tương ứng<br />
với từ đờ đẫn, có nghĩa là: “Ở trạng thái như mất hết<br />
<br />
Số 8 (226)-2014<br />
<br />
khả năng phản ứng với các kích thích bên ngoài” [7;<br />
347]. Nghĩa này thường được dùng để chỉ sự mệt<br />
mỏi của mắt. Tuy nhiên, trong TCDGNB, từ lẫn đẫn<br />
còn mang sắc thái nghĩa khác, chỉ về cơ thể của một<br />
người nào đó “không còn được khỏe mạnh, linh<br />
hoạt” [9; 699]. Ví dụ:<br />
Anh thương em lẫn đẫn, lờ đờ/ Xuống sông hỏi<br />
cá, lên bờ hỏi chim [5; 332]<br />
Một số từ chỉ sử dụng ở địa phương Nam Bộ<br />
mang đặc trưng riêng mà những người ở các địa<br />
phương khác khi nghe không hiểu được ý nghĩa của<br />
chúng. Chẳng hạn:<br />
Thấy em hân hấn má đào/ Thanh tân mày liễu<br />
dạ nào chẳng thương [4; 381]<br />
Theo Từ điển từ ngữ Nam Bộ, hân hấn có hai<br />
nghĩa là: “1. Trạng thái hân hoan, hớn hở, vui sướng,<br />
được thể hiện rõ qua nét mặt; 2. Có biểu hiện quyến<br />
rũ, lôi cuốn, cuốn hút” [9; 582]. Ở bài ca dao trên, từ<br />
hân hấn mang nghĩa thứ hai. Trong văn hóa ứng xử<br />
của người Nam Bộ, hân hấn còn mang sắc thái<br />
nghĩa chỉ sự tươi tắn, dễ thương. Tương tự, từ lăng<br />
líu cũng mang sắc thái riêng biệt:<br />
Chẳng thương thì nói buổi đầu/ Để chi lăng líu<br />
nửa chầu lại thôi [4; 214]<br />
Người Nam Bộ có hai cách phát âm: lăng líu và<br />
lăn líu. Lăng líu hay lăn líu có hai nghĩa: “1. Líu lo,<br />
có nhiều âm thanh cao và trong quyện vào nhau<br />
nghe vui tai; 2. Dan díu, lăng nhăng, quan hệ tình<br />
cảm yêu thương không trong sáng, lành mạnh” [9;<br />
693]. Như vậy, lăng líu trong phương ngữ Nam Bộ<br />
tương ứng với từ dan díu trong ngôn ngữ toàn dân.<br />
Tuy nhiên, sắc thái nghĩa của hai từ này khác nhau.<br />
Nếu dan díu trong ngôn ngữ toàn dân thường dùng<br />
để phê phán những người đã có gia đình mà còn có<br />
hệ yêu đương bên ngoài không chính đáng, thì lăng<br />
líu trong cách đánh giá của người Việt vùng Nam Bộ<br />
lại có sắc thái nghĩa nhẹ nhàng hơn, dùng để chỉ<br />
quan hệ tình cảm yêu thương không tốt của nam nữ<br />
hoặc chỉ sự quanh quẩn bên cạnh một người nào đó.<br />
Từ những ví dụ trên, có thể thấy được một nét<br />
đẹp trong tính cách cũng như văn hóa ứng xử của<br />
người Việt ở vùng đất Nam Bộ đó là trọng tình cảm.<br />
Do đó, khi đánh giá cụ thể về sự vật, đối tượng thì<br />
người dân nơi đây đánh giá ở mức độ thấp và nhẹ<br />
nhàng. Cho nên, có thể có những sự đánh giá không<br />
tốt về đối tượng thì đối tượng được đánh giá đó cũng<br />
không có cảm giác nặng nề, khó chịu.<br />
<br />
Số 8 (226)-2014<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
2.2. Nhóm từ đánh giá theo mức độ cao, mang<br />
ý nghĩa tăng<br />
Trong công trình “Từ địa phương Nghệ Tĩnh, về<br />
một khía cạnh ngôn ngữ - văn hóa”, tác giả Hoàng<br />
Trọng Canh khi nghiên cứu về các tính từ chỉ mức<br />
độ cao đặc tính của sự vật, đã cho rằng: “Các tính từ<br />
như trắng, xanh trong tiếng Việt có thể kết hợp với<br />
nhiều yếu tố theo những phương thức khác nhau, có<br />
mặt trong các tổ hợp, dạng phổ biến như: 1. Rất<br />
trắng, trắng quá, hơi xanh, xanh lắm..; 2. Trắng như<br />
bông, trắng như tuyết, xanh như tàu lá...; 3. Trăng<br />
trắng, xanh xanh...; 4. Trắng dã, xanh ngắt...<br />
Các tổ hợp ở 1,2,3,4 đều diễn tả các sắc thái, các<br />
mức độ nghĩa khác nhau của cùng một đặc tính do<br />
tính từ biểu thị. Đóng vai trò quan trọng trong việc<br />
tạo nên sắc thái nghĩa khác nhau đó là do các<br />
phương thức và yếu tố tham gia kết hợp với tính từ.<br />
Ở 1 - là phó từ chỉ mức độ, ở 2 - là yếu tố so sánh và<br />
phương thức so sánh, ở 3 - là phương thức láy và ở 4<br />
- là yếu tố chỉ mức độ cao đi sau tính từ trong<br />
phương thức ghép.” [3; 46]. Tác giả cũng đã khẳng<br />
định, các tính từ chỉ mức độ cao trong phương ngữ<br />
Nghệ Tĩnh tồn tại theo dạng 4. Khảo sát các từ đánh<br />
giá theo mức độ cao, mang ý nghĩa tăng về kích<br />
thước trong TCDGNB, chúng tôi thấy những từ này<br />
cũng tồn tại chủ yếu theo dạng 4 như trên.<br />
Nhóm từ được đánh giá theo mức độ cao, mang<br />
ý nghĩa tăng về kích thước gồm có 44 từ với những<br />
sắc thái biểu hiện riêng biệt, như: chua lét, héo<br />
don, ướt mem, mỏng dánh, mốc thích, non èo, ốm<br />
o, rã bèn, rặc ròng, rũ liệt, tèm hem, tối hụ, tùm<br />
lum… Xét về mặt cấu tạo, nhóm từ này bao gồm<br />
cả từ ghép và từ láy. Qua đối chiếu từ ngữ Nam<br />
Bộ với các từ ngữ chỉ mức độ cao trong ngôn<br />
ngữ toàn dân và phương ngữ Nghệ Tĩnh, chúng<br />
tôi thấy các từ ngữ trong ngôn ngữ toàn dân và<br />
phương ngữ Nghệ Tĩnh chủ yếu là các từ ghép.<br />
Đối với các từ ghép, đặc điểm của các từ này<br />
là nhờ có chứa yếu tố làm tăng mức độ nên tự bản<br />
thân chúng đã hàm chứa ý nghĩa tuyệt đối về đặc<br />
trưng tính chất. Nghĩa là tự bản thân chúng đã hàm<br />
chứa mức độ cao. Cho nên, chúng không có khả<br />
năng kết hợp với các phụ từ chỉ mức độ, không được<br />
đánh giá theo thang độ, như: cao nghệu, chua lét,<br />
héo don, héo xàu, ướt mem, mỏng dánh, mốc thích,<br />
non èo, rã bèn, rộng thình...<br />
<br />
39<br />
<br />
Xét về cấu tạo, các từ ghép trong TCDGNB là<br />
một tổ hợp gồm có hai yếu tố. Để tiện miêu tả,<br />
chúng tôi gọi tổ hợp này là AX, trong đó A là các<br />
động từ hoặc tính từ làm thành tố chính (có thể là<br />
yếu tố toàn dân hoặc yếu tố phương ngữ) và X làm<br />
thành tố phụ, là yếu tố làm tăng mức độ của A kèm<br />
theo sắc thái biểu cảm nhất định (Chúng tôi theo<br />
cách gọi của các tác giả như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn<br />
Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp, Hồ<br />
Lê, Hoàng Trọng Canh...). Ở đây, chúng tôi nhận<br />
thấy yếu tố X có vai trò rất quan trọng trong việc tạo<br />
nên giá trị riêng biệt của các từ. Bởi lẽ, trong hoạt<br />
động giao tiếp bằng ngôn ngữ, yếu tố X biểu thị<br />
thuộc tính của đối tượng ở mức độ cực đại theo<br />
chiều nào đó để cường điệu hóa theo sự đánh giá chủ<br />
quan của người nói. Điều này có thể giúp chúng ta<br />
hiểu thêm phần nào những giá trị riêng biệt trong tư<br />
duy, cũng như trong cách sử dụng ngôn ngữ và văn<br />
hóa ứng xử của người dân Nam Bộ.<br />
Trong nhóm từ này, yếu tố X trong kết cấu AX<br />
có thể có nguồn gốc từ ngôn ngữ toàn dân. Ví dụ:<br />
Gió lao xao tàu cau ngã liệt/ Nghe em lấy chồng,<br />
anh rũ liệt chân tay [5; 403].<br />
Liệt vốn là từ toàn dân, có nghĩa là: “Ở trạng thái<br />
bị mất hẳn hoặc giảm khả năng hoạt động của một<br />
cơ quan hay một bộ phận nào đó của cơ thể” [7;<br />
569]. Ở bài ca dao trên, rũ liệt tạo ra cách hiểu rũ đến<br />
mức liệt, nghĩa là chân tay rã rời đến mức không cử<br />
động được nữa.<br />
Ngược lại, yếu tố X cũng có thể có nguồn gốc từ<br />
phương ngữ Nam Bộ. Chẳng hạn:<br />
Cách xa nhau ruột gan héo xàu/Anh phân tay<br />
em lụy nhỏ tài nào không thương [11; 135]<br />
Xàu có nguồn gốc từ Nam Bộ, cũng có nghĩa là:<br />
“Héo, có hiện tượng teo tóp lại, vì thiếu nước” [9;<br />
1336]. Do đó, yếu tố xàu kết hợp với yếu tố héo để<br />
tạo ra một tổ hợp nhằm tăng mức độ của héo. Trong<br />
bài ca dao trên, tác giả dân gian đã dùng từ héo xàu<br />
với ý nghĩa vừa cụ thể hóa vừa tuyệt đối hóa, gợi ra<br />
hình ảnh về một sự vật vừa héo, vừa teo tóp lại đến<br />
mức không còn nhựa sống.<br />
Trong nhóm từ ghép này, chúng tôi ấn tượng<br />
mạnh với những từ có sử dụng yếu tố X chỉ mức độ<br />
cao đặc điểm tính chất sự vật mang thanh điệu vừa<br />
thuộc nhóm thanh trắc, vừa nằm ở âm vực cao được<br />
phân bố ở hình vị phụ nghĩa. Đọc những từ loại này<br />
<br />
40<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
ta có cảm giác như chính thanh điệu là yếu tố làm<br />
tăng thêm mức độ cao của đặc điểm, tính chất:<br />
Canh chua lét sao rằng canh ngọt?/ Cá không<br />
chân sao gọi cá leo? [4; 203]<br />
Ngỡi nhân mỏng dánh tợ cánh chuồn chuồn/<br />
Khi vui nó đậu khi buồn nó bay [4; 349]<br />
Bản thân những từ này bên cạnh ý nghĩa chung là<br />
chỉ mức độ cao của sự vật thì chúng còn hàm chứa<br />
sắc thái riêng. Chẳng hạn, chua lét hiểu theo nghĩa<br />
thông thường là rất chua, sắc thái nghĩa riêng ở đây<br />
là chỉ sự tuyệt đối hóa đối tượng, diễn tả cảm giác<br />
chua đến mức không chịu được. Còn mỏng dánh<br />
hiểu nghĩa thông thường là rất mỏng, sắc thái nghĩa<br />
riêng ở đây là bên cạnh nhấn mạnh độ mỏng hết<br />
mức của sự vật thì nó còn cho chúng ta thấy mức độ<br />
mong manh của tình cảm. Ngoài ra, chúng ta còn<br />
thấy các từ khác như: héo don (héo đến độ không<br />
còn nước), ướt mem (Ướt mèm, ướt đẫm), mốc thích<br />
(mốc đến mức bạc trắng)...<br />
Bên cạnh các từ ghép thể hiện mức độ cao,<br />
chúng ta còn thấy trong TCDGNB còn có một số từ<br />
láy mà khi đọc lên ý nghĩa của chúng cũng được xác<br />
định ở mức độ cao: ốm o, tèm hem, chơm bơm, rặc<br />
ròng, rũ rượi, tùm lum... Xét về cấu tạo, có những từ<br />
có thể xác định được nghĩa của thành tố A, có những<br />
từ không thể xác định được nghĩa của thành tố A.<br />
Những từ mà thành tố A có nghĩa có thể làm nổi rõ<br />
đặc điểm, mức độ của sự vật ở mức cao nhất. Nó<br />
được nhấn mạnh nhằm gây hiệu quả tác động đến<br />
người nghe. Chẳng hạn:<br />
Chim chuyền nhành ớt líu lo/ Lòng thương quân<br />
tử ốm o gầy mòn [4; 221]<br />
Từ ốm o trong phương ngữ Nam Bộ có thể xác<br />
định được nghĩa của thành tố A. Thành tố này đồng<br />
nghĩa với từ gầy trong ngôn ngữ toàn dân. Tuy<br />
nhiên, từ ốm o trong cách đánh giá của người dân<br />
nơi đây không chỉ có nghĩa là gầy mà còn cho chúng<br />
ta thấy hình ảnh về một người nào đó có mức độ<br />
“gầy đến mức chỉ còn da bọc xương” [9; 973].<br />
Đối với trường hợp thành tố A không có nghĩa<br />
thì nhờ sự lặp lại về hình thức ngữ âm (nhóm từ này<br />
chủ yếu lặp lại ở phần vần) mà sự vật cũng được<br />
đánh giá ở mức độ cao. Sự đánh giá ở nhóm này chủ<br />
yếu thiên về tinh thần, tình cảm. Chẳng hạn, cũng<br />
biểu thị về thể trạng không tốt của con người như từ<br />
ốm o, nhưng từ tèm hem lại gợi lên hình ảnh của một<br />
<br />
Số 8 (226)-2014<br />
<br />
người nào đó ốm yếu đến mức tiều tụy, trông có vẻ<br />
thảm hại. Ví dụ:<br />
Đói cơm lạt mắm tèm hem/No cơm ấm áo lại<br />
thèm nọ kia [4; 488]<br />
Khi muốn diễn tả hình ảnh một người nào đó có<br />
đầu tóc dài và rối, không gọn gàng thì người Nam<br />
Bộ dùng từ chơm bơm.Ví dụ:<br />
Tía tôi lịch sự quá chừng/ Cái lưng mốc thích,<br />
cái đầu chơm bơm. [4; 461]<br />
Ở đây, từ chơm bơm còn thể hiện sự đánh giá<br />
không tốt về đối tượng, tức là nó mang hàm ý chê<br />
bai, mỉa mai một người nào đó có mái tóc vừa rối<br />
tung lên, vừa dơ bẩn do lâu ngày không gội. Điều<br />
này cho thấy người dân Nam Bộ thích sử dụng các<br />
từ ngữ vừa có sức gợi hình, vừa mang tính biểu cảm,<br />
thể hiện cách đánh giá chủ quan của mình về đối<br />
tượng.<br />
Như vậy, lớp từ đánh giá mức độ cao đặc tính sự<br />
vật đã thể hiện cách dùng từ có chọn lọc với những<br />
sắc thái riêng của người dân Nam Bộ trong<br />
TCDGNB. Đặc biệt, lớp từ láy đã thể hiện cách đánh<br />
giá cũng như đặc trưng văn hóa hết sức riêng nhưng<br />
đầy lí thú về lời ăn tiếng nói của người dân nơi đây.<br />
2.3. Nhóm từ mang ý nghĩa đánh giá tích cực,<br />
có thiện cảm<br />
Bản chất của một sự vật, sự việc nào đó bao giờ<br />
cũng có cả mặt tích cực và tiêu cực. Trong các tình<br />
huống giao tiếp cụ thể bằng ngôn ngữ, sự nổi trội của<br />
mặt tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào nhiều yếu<br />
tố, trong đó chủ yếu phụ thuộc vào sự cảm nhận chủ<br />
quan hoặc thái độ, tình cảm của cá nhân người đánh<br />
giá đối với từng sự vật cụ thể. Sự đánh giá này được<br />
thể hiện trực tiếp bằng các từ ngữ mang sắc thái<br />
nghĩa, sắc thái tình cảm nhất định.<br />
Đánh giá tích cực là sự thể hiện cách nhìn nhận<br />
về sự vật, sự việc, vấn đề... mà ở đó chúng ta luôn<br />
thấy cái hay, cái đẹp, cái tốt. Trong cách đánh giá<br />
này, xét về bản chất, có những đối tượng được đánh<br />
giá có thể không đẹp, không tốt nhưng trong con mắt<br />
chủ quan của người đánh giá cụ thể thì họ lại nhìn<br />
thấy ẩn sâu bên trong đối tượng là những giá trị tốt<br />
đẹp nên họ nhìn nhận, đánh giá bằng thái độ tích<br />
cực, có thiện cảm. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Chí<br />
Phèo” của nhà văn Nam Cao, Thị Nở trong con mắt<br />
của những người dân làng Vũ Đại là một người xấu<br />
đến mức “ma chê quỷ hờn”, nhưng trong mắt Chí<br />
<br />
Số 8 (226)-2014<br />
<br />
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG<br />
<br />
Phèo thì Thị Nở lại là người đẹp nhất, bởi Chí Phèo<br />
đã nhìn thấy nét đẹp trong tâm hồn của Thị Nở.<br />
Trong TCDGNB, những từ mang ý nghĩa đánh<br />
giá tích cực có số lượng không nhiều, chúng tôi tìm<br />
thấy 21 từ như: Bảnh, êm rìu, hân hấn, mạnh giỏi,<br />
thiệt thà, ốm ốm, xuê… Xét về cấu tạo, nhóm từ<br />
này bao gồm cả từ đơn, từ ghép và từ láy. Xét về ý<br />
nghĩa, chúng được chia thành hai loại: loại thứ nhất<br />
mang ý nghĩa mức độ nhẹ, giảm kích thước sự vật;<br />
loại thứ hai mang ý nghĩa tự thân. Với loại thứ nhất,<br />
như chúng tôi đã phân tích ở mục 2.1, khi mức độ<br />
đánh giá của những sự vật được giảm nhẹ thì kèm<br />
theo đó có thể mang ý nghĩa tích cực hoặc tiêu cực,<br />
nhưng chúng thường mang ý nghĩa tích cực, có<br />
thiện cảm. Chẳng hạn:<br />
Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu/Anh<br />
thấy em nhỏ xíu anh thương [4; 346]<br />
Trong những trường hợp giao tiếp cụ thể,<br />
sắc thái tình cảm tích cực của từ được thể hiện<br />
nhờ sự liên tưởng tới hình ảnh mà chúng gợi<br />
lên trong tâm trí của người tiếp nhận. Chẳng<br />
hạn, trong phương ngữ Nam Bộ, ốm có nghĩa<br />
là “gầy, ở trạng thái kém phát triển, không có<br />
thể trạng đầy đặn như bình thường” [9; 972].<br />
Một người nào đó bị đánh giá ốm thì kèm theo<br />
đó là hàm ý chê, không tốt. Tuy nhiên, từ ốm<br />
ốm trong bài ca dao sau lại có giá trị khác:<br />
Khăn rằn nhỏ sọc, khăn rằn tây/ Thấy em<br />
ốm ốm mình đây anh ưng lòng [4; 301]<br />
Nếu trong ngôn ngữ toàn dân, chúng ta hiểu<br />
“hơi gầy” là cụm từ được sử dụng để đánh giá về<br />
hình dáng của một người nào đó có đặc điểm gầy<br />
hơn mức bình thường, thì ốm ốm cũng có nghĩa<br />
tương tự. Tuy nhiên, trong văn hóa ứng xử<br />
cũng như trong cách đánh giá của người Nam<br />
Bộ, từ ốm ốm lại mang ý nghĩa gợi ra hình ảnh<br />
về một người nào đó vừa có hình dáng hơi gầy, lại<br />
có nét dễ thương, đáng yêu. Điều này cho thấy, tác<br />
giả dân gian muốn thể hiện sự quan tâm, gần gũi<br />
hay yêu thương đối với đối tượng được nói tới.<br />
Đối với loại thứ hai, tự bản thân các từ<br />
trong nhóm này tạo ra giá trị tích cực, có thiện<br />
cảm. Chẳng hạn, khi muốn khen một người nào đó<br />
“đẹp, duyên dáng, xinh xắn, có nhân dạng đẹp gây<br />
cảm giác ưa nhìn” [9; 122] thì ta dùng từ bảnh. Ví<br />
dụ:<br />
<br />
41<br />
<br />
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh/Gái nào bảnh<br />
bằng gái Sóc Trăng/ Bước lên xe đầu đội khăn rằn/<br />
Nói cười yểu điệu nhiều chàng phải mê [5; 318]<br />
Tuy nhiên, trong cách đánh giá và văn hóa ứng<br />
xử của người Nam Bộ thì không phải người nào đẹp<br />
cũng được gọi là bảnh mà phải là người vừa có hình<br />
dáng đẹp, ăn mặc đẹp và lịch sự.<br />
Từ lang trong bài ca dao sau đánh giá về quan hệ<br />
của con người: Đêm nằm ôm gối thở than/Gối ơi gối<br />
hỡi bạn lang xa rồi [4; 260]<br />
Trong ngôn ngữ toàn dân, từ lang thường mang ý<br />
nghĩa đánh giá không tốt về đối tượng. Ví dụ như:<br />
lòng lang dạ sói; ngủ lang... Trong phương ngữ<br />
Nam Bộ, từ lang mang sắc thái nghĩa ngược lại.<br />
Theo Từ điển từ ngữ Nam Bộ, lang có nghĩa là: “Có<br />
tính chất gần gũi, thân thương, yêu mến” [9; 680].<br />
Trong văn hóa giao tiếp của người Nam Bộ, từ lang<br />
được dùng để chỉ những người có quan hệ gần gũi<br />
và thân thiết với nhau.<br />
Từ những ví dụ trên, chúng ta có thể thấy trong<br />
quá trình đánh giá, người dân Nam Bộ rất linh hoạt<br />
trong việc lựa chọn những từ ngữ tích cực nhằm thể<br />
hiện thái độ, tình cảm của mình. Những từ được lựa<br />
chọn ở đây vừa gợi hình, gợi cảm, lại vừa bình dị,<br />
gần gũi, thân thương.<br />
2.4. Nhóm từ mang ý nghĩa đánh giá tiêu cực,<br />
không có thiện cảm<br />
Đánh giá tiêu cực là hành động bày tỏ sự đánh<br />
giá chủ quan của người nói về một đối tượng nào đó<br />
hoặc vấn đề nào đó không tốt, không đúng, không<br />
phù hợp với đối tượng hay vấn đề đánh giá đó bị hạ<br />
thấp, ít có thiện cảm. Trong ngôn ngữ toàn dân, khi<br />
đánh giá sự vật, chúng ta có thể có cách đánh giá<br />
khác nhau như: khi chỉ chiều cao của người hoặc sự<br />
vật, chúng ta có từ cao và thấp hoặc dài và ngắn. Về<br />
mặt ý nghĩa, chúng mang sắc thái biểu cảm khác<br />
nhau. Nếu cặp từ cao và thấp chỉ mang ý nghĩa định<br />
danh, thì cặp từ dài và ngắn trong dài lưng hay ngắn<br />
người lại mang ý nghĩa biểu cảm vì trong đó có thêm<br />
ý nghĩa đánh giá tiêu cực, chê bai.<br />
Trong TCDGNB, bên cạnh những từ ngữ đánh<br />
giá của ngôn ngữ toàn dân thì còn có những từ tiêu<br />
cực mang đặc điểm hết sức riêng trong cách đánh<br />
giá của người dân nơi đây. Qua khảo sát, chúng tôi<br />
thu được 60 từ như: bạc lê, bất nhơn, bóng sắc, chim<br />
chạ, chơm bơm, chua lét, chút bẻo, cù lần, điếm<br />
đàng, héo don, lạt nhách, mỏng dánh, non èo, rã bè,<br />
<br />