« Home « Kết quả tìm kiếm

Nền kinh tế tài nguyên và ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông vùng cao phía Bắc Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- NỀN KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ ẢNH HƯỞNG TỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA DÂN TỘC MÔNG.
- VÙNG CAO PHÍA BẮC VIỆT NAM.
- Miền núi vùng cao phía Bắc là nơi sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Mông.
- Họ cư trú chủ yếu trên vùng rẻo cao và nền kinh tế tài nguyên giữ vai trò chủ đạo.
- Các yếu tố tự nhiên vùng cao là địa bàn và đối tượng của sự phát triển kinh tế - xã hội, còn phát triển kinh tế và tổ chức sinh hoạt trong đời sống hàng ngày là nguyên nhân tạo nên những biến đổi của các yếu tố tự nhiên.
- Kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên chiếm tỷ trọng cao đã chi phối không chỉ tới chất lượng cuộc sống của đồng bào và còn ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên (gồm cả mặt tích cực và hạn chế).
- Do vậy, cần có những giải pháp hợp lý nhằm khai thác và phát huy thế mạnh của vùng để phát triển, hướng tới sản xuất hàng hoá, phát triển bền vững miền núi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước..
- Từ khóa: Kinh tế tài nguyên, Môi trường tự nhiên, nông nghiệp bền vững, canh tác, tộc người..
- Trong cộng đồng các dân tộc vùng cao phía Bắc Việt Nam, dân tộc Mông nổi bật với nhiều nét văn hóa đặc thù, trước hết là văn hóa sản xuất nông nghiệp.
- Nền văn hóa này đã đem lại cho đồng bào một nguồn sống vật chất cũng như các giá trị tinh thần phong phú.
- Tuy nhiên, cùng với thời gian, do số dân tăng lên, tài nguyên cạn kiệt, chất lượng môi trường suy giảm, đời sống ngày càng khó khăn.
- Vấn đề đặt ra là, ngoài hỗ trợ trực tiếp xóa đói giảm nghèo tại các vùng dân tộc đặc biệt khó khăn, theo chúng tôi, cần nghiên cứu sâu để làm rõ các cơ sở khoa học kinh tế tài nguyên và ảnh hưởng của nó đến môi trường tự nhiên trong sản xuất nông nghiệp của đồng bào.
- Trên quan điểm địa lí tộc người, đây là vấn đề nhạy cảm và phức tạp, do vậy, chúng tôi giới hạn nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa kinh tế tài nguyên và môi trường thiên nhiên trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông vùng cao phía Bắc theo một trình tự sau đây : (1) Hoạt động khai thác tài nguyên và sự thích ứng tích cực với môi trường trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông vùng cao.
- (2) Ảnh hưởng tiêu cực biểu hiện trong sự cạn kiệt tài nguyên và và suy thoái môi trường .
- (3) Định hướng phát huy các thế mạnh kinh tế tài nguyên và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển nông nghiệp bền vững..
- HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN VÀ SỰ THÍCH ỨNG TÍCH CỰC VỚI MÔI TRƯỜNG TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA DÂN TỘC MÔNG VÙNG CAO.
- Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 http://www.lrc-tnu.edu.vn Sinh kế chủ yếu của người Mông trong nền.
- kinh tế tài nguyên là nông nghiệp với phương thức canh tác nương rẫy trên các sườn dốc của địa hình.
- Khi di cư đến đây, người Mông bằng những kinh nghiệm sẵn có đã phát rừng, đốt rừng tạo nên truyền thống canh tác riêng của dân tộc mình..
- Lao động của đồng bào là sức người và dựa trên những công cụ làm việc thô sơ, tự tạo..
- Đồng bào Mông biết tận dụng mọi dạng địa hình cùng với khả năng thích nghi cao độ..
- Nhưng dù là loại nương rẫy nào, bà con cũng có một phương thức canh tác là phát đốt, làm đất, gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch.
- Trên nương, đồng bào phát hết các cây cỏ và dọn sạch sẽ.
- Công cụ làm đất sắc bén đã làm cho đất được tơi xốp hơn, cây trồng có thể nhanh chóng thích nghi và phát triển.
- Cư trú lâu đời ở vùng miền núi cao phía Bắc, đồng bào Mông đã ứng xử hợp lý với môi trường tự nhiên thông qua việc tạo lập một số mô hình canh tác nông nghiệp phù hợp với khí hậu khắc nghiệt của vùng cao.
- Đó là mô hình trồng ngô trên hốc đá và mô hình canh tác nương rẫy trên đất đốc..
- Phương thức thổ canh hốc đá như một minh chứng tuyệt vời cho khả năng thích ứng của đồng bào Mông trong hoàn cảnh môi trường không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
- Mô hình canh tác nương rẫy trên nương dốc là loại nương phổ biến nhất của người Mông, là các nương được bà con phát đốt trên sườn dốc của núi đá vôi, đất đai chủ yếu là loại đất được phong hóa từ đá vôi, tiềm năng nước không nhiều.
- Mạch cũng như ngô là một loại cây lương thực quan trọng được làm thành mèn mén - thức ăn chính của đồng bào Mông..
- Từng mô hình canh tác phù hợp với từng điều kiện của tự nhiên, cùng các phương pháp và kĩ thuật canh tác truyền thống, trình độ thâm canh cao.
- cho thấy đồng bào Mông là những cư dân nông nghiệp chuyên nghiệp trên đất dốc, trình độ thích ứng đặc biệt với điều kiện tự nhiên.
- Đó chính là một biểu hiện của sự thích ứng trong quá trình phát triển, minh chứng cho sức sống của đồng bào Mông, dù trong hoàn cảnh nào thì con người cũng tìm ra được các phương thức ứng xử phù hợp với tự nhiên, với môi trường mà họ sinh sống..
- Người Mông còn áp dụng kĩ thuật xen canh gối vụ : Trồng ngô vào tháng 2, giữa các hốc ngô trồng xen vào ba khóm đậu.
- Hết vụ ngô vào tháng 7, đồng bào lại tra hạt đậu Hà Lan và đậu răng ngựa.
- Đồng bào còn dùng kĩ thuật xen canh cây trồng ngay cùng một thời gian gieo trồng.
- Người Mông còn áp dụng việc dùng phân hữu cơ chăm bón cây trồng.
- Trong điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực, dân tộc Mông đã áp dụng nhiều biện pháp kĩ thuật tổng hợp để kéo dài tuổi thọ của nương rẫy.
- Nhờ vậy, nương của người Mông được khai thác triệt để và có thời gian canh tác kéo dài cho 2, 3 thế hệ..
- Nhờ hệ thống công cụ làm đất độc đáo và thích hợp với địa hình vùng cao nên đảm bảo giữ được độ phì cho đất, làm ải đất, có điều kiện thâm canh cao.
- Trong kĩ thuật canh tác nương rẫy người Mông lựa chọn một tập đoàn cây lương thực thích hợp với từng loại đất, hoặc từng thời gian trên cùng một mảnh nương: "Đất mới khai phá trồng ngô khoảng 3 vụ - Vụ thứ tư trồng lúa nương - Vụ thứ năm trồng sèo hoặc ý dĩ - Đất bạc mầu trồng đậu tương"..
- ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC BIỂU HIỆN TRONG SỰ CẠN KIỆT TÀI NGUYÊN VÀ VÀ SUY THOÁI MÔI TRƯỜNG.
- Phương thức sản xuất lạc hậu, phổ biến vẫn là phát, đốt rừng làm nương rẫy.
- Dù hình thái du canh du cư hoàn toàn hay định cư du canh thì địa bàn sản xuất và hoạt động kinh tế của đồng bào đều gắn bó chặt chẽ với rừng hoặc đất quy hoạch lâm nghiệp..
- Phương thức canh tác truyền thống của người Mông ở một góc độ nào đó đã làm cho tài nguyên đất, nước bị giảm sút chất lượng.
- Mặt khác, các chất mùn của tầng mặt bị cuốn theo nước chảy tràn làm cho phần canh tác ngày càng mỏng và bị cạn kiệt..
- Phương thức canh tác này chỉ thích hợp khi rừng còn bạt ngàn như cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX..
- Tập quán canh tác của đồng bào chủ yếu là làm nương rẫy quảng canh.
- sau một thời gian định cư, rừng bị phá, nguồn nước cạn kiệt, thiếu nước sinh hoạt, môi trường trở nên khắc nghiệt, lại thường xuyên bị thiên tai đe doạ làm cho sản xuất bấp bênh, năng suất cây trồng thấp.
- Sự di cư của người Mông đã làm cho nạn phá rừng đốt rẫy làm nương gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái rừng và môi trường.
- Hình thức du canh của các dân tộc thiểu số đã biến hàng triệu ha rừng trước đây thành đất trống đồi núi trọc.
- Nền nông nghiệp du canh truyền thống ở miền núi không giữ nguyên bản chất mà đã bị phá vỡ trong điều kiện dân số ngày một tăng..
- Nền nông nghiệp du canh truyền thống được coi là bền vững với điều kiện mật độ dân cư thấp chỉ 10 - 20 người/km 2 .
- Với chế độ hưu canh 10 - 15 năm hoặc lâu hơn nữa, trong điều kiện môi trường rừng có đủ điều kiện cho đất phục hồi độ phì nhiêu.
- Nhưng với sự gia tăng dân số nhanh như hiện nay thời gian bỏ hóa của đất quá ngắn, giảm độ phì nhiêu, năng suất nông nghiệp thấp.
- Bởi vậy, chế độ canh tác nương rẫy với tập quán du canh du cư trong điều kiện dân số cao như hiện nay đã là nguy cơ tấn công vào rừng, làm giảm vốn rừng, đồng thời hủy hoại tài nguyên đất đai và các nguồn tài nguyên khác trên phạm vi ngày càng rộng..
- Cùng với phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên ở miền núi đang đứng trước sự suy thoái nghiêm trọng.
- Địa hình miền núi với nền canh tác trên đất dốc rất khó khăn trong việc giải quyết vấn đề thủy lợi, phân bón, giữ được độ phì của đất.
- Những yếu tố này hạn chế khả năng thâm canh tăng năng suất cây trồng và rất khó giải quyết mối quan hệ giữa sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp với vấn đề bảo vệ môi trường.
- Các yếu tố của môi trường không chỉ tác động vào quá trình xây dựng công trình với khối lượng lớn, giá thành cao mà còn tác động trong cả quá trình quản lý, bồi dưỡng, khai thác công trình với những chi phí cao hơn..
- Nhiều sự cố do môi trường tạo ra làm hư hỏng và cũng hủy hoại các công trình.
- Đầu tư vào các công trình hạ tầng ở miền núi dưới tác động của điều kiện môi trường, nếu chỉ xét về kinh tế thuần túy thì hiệu quả rất kém, mà phải lấy mục tiêu đầu tư để đạt hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đoàn kết các dân tộc.
- Dưới tác động của môi trường, đồng bào các dân tộc chỉ có thể sinh sống ở những nơi có đất canh tác và có điều kiện sản xuất, có nước sinh hoạt, ít khó.
- khăn về giao thông, do đó dân cư sống ở các vùng dân tộc miền núi phân tán là một trở lực lớn cho việc tăng cường cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống..
- Để đảm bảo cái ăn, ngoài việc phá rừng để làm nương rẫy, người dân di cư tự do còn khai thác một cách bừa bãi các tài nguyên động, thực vật vốn rất phong phú trong đó có nhiều loài quí hiếm đã được ghi trong Sách Đỏ hoặc cần được bảo vệ nghiêm ngặt.
- ước tính thu nhập từ khai thác tài nguyên thiên nhiên chiếm 20% tổng thu nhập của người di dân tự do (Hoàng Hữu Bình - 1997).
- Việc làm này không những hủy hoại môi trường tự nhiên mà ảnh hưởng nặng nề đến môi trường xã hội.
- Đồng bào Mông cùng với một số dân tộc khác ở vùng núi cao phía Bắc canh tác theo kiểu phát đốt, chọc tỉa trên đất dốc làm cho đất bị rửa trôi mạnh và nhanh chóng trở nên cằn cỗi.
- Trong thực tiễn, ảnh hưởng của môi trường đối với sự phát triển kinh tế - xã hội miền núi là hết sức phức tạp.
- Có những tác động mà chúng ta có thể nhận thấy được, có thể đo đếm được, song có những tác động không thấy và cũng rất khó định lượng, có những tác động ảnh hưởng ngay, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống kinh tế - xã hội của vùng, song cũng có những tác động gián tiếp, tác động âm ỷ và lâu dài về sau.
- Từ thế mạnh kinh tế, các yếu tố môi trường đất, nước, thời tiết, khí hậu của miền núi những năm gần đây thực sự là trở thành thế yếu, ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của các dân tộc vùng cao nói chung, trong đó có dân tộc Mông..
- ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY CÁC THẾ MẠNH KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG.
- Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Quan điểm chung là phát triển kinh tế tài.
- nguyên miền núi không phải chỉ vì miền núi và cho miền núi mà vì cả nước trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và môi trường.
- Đó chính là địa bàn phòng hộ trọng yếu có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của cả nước.
- Nhân dân miền núi nói chung và đồng bào Mông nói riêng đã hàng ngàn năm sống phụ thuộc vào thiên nhiên.
- Trước những tác động mạnh mẽ của phát triển kinh tế tới môi trường tự nhiên cần phải có những giải pháp mang tính chất tổng thể cả về mặt kinh tế, xã hội, văn hóa..
- Cần coi trọng các biện pháp thâm canh truyền thống của người Mông kết hợp với kĩ thuật thâm canh hiện đại nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên đất, bảo vệ được tài nguyên rừng, mở rộng các mô hình canh tác ruộng bậc thang ở những nơi có nguồn nước, đảm bảo ổn định cuộc sống..
- Ở những vùng quĩ đất trống, đồi núi trọc còn nhiều cần có sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhân dân, từ phá rừng để sản xuất ngô, lúa sang trồng rừng.
- Ở những vùng có điều kiện phát triển cây thế mạnh nên có chính sách khuyến khích người dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sản xuất lương thực là chủ yếu sang trồng cây ăn quả là chính, trồng lương thực là phụ.
- Ở những nơi có điều kiện sản xuất lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày cần phải ra sức xây dựng ruộng bậc thang, đi vào thâm canh tăng vụ, đảm bảo sản xuất và năng suất ổn định còn đối với những nơi khả năng sản xuất bị hạn chế thì phải phát triển cây công nghiệp lâu năm, trồng cây ăn quả, cây làm thuốc, chăn nuôi, làm nghề rừng..
- Đi đôi với việc xác định phương hướng sản xuất là các biện pháp kĩ thuật canh tác cho từng vùng căn cứ vào đặc điểm nổi bật của vùng núi là đất dốc, tính chất tiểu khí hậu của vùng là khắc nghiệt, do đó kĩ thuật trồng trọt cũng phải sát với từng vùng khí hậu, từng loại đất.
- Bên cạnh đó, cần tổng kết và phát huy những kinh nghiệm kiến thức tốt sẵn có của đồng bào vừa tích cực phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến..
- Hỗ trợ đồng bào trong các dự án điều chỉnh cơ cấu sản xuất phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu theo hướng sản xuất các sản phẩm có giá trị hàng hóa.
- xây dựng các mô hình trình diễn sản xuất.
- Có chính sách hỗ trợ kinh phí thỏa đáng cho cán bộ cấp cơ sở, khuyến khích họ hướng dẫn đồng bào cách tổ chức sản xuất, cách tổ chức cuộc sống mới, thu thập, phản ánh các nguyện vọng, các đề nghị của dân và giải quyết tốt các chính sách Nhà nước đã ban hành.
- Có kế hoạch hướng dẫn và trợ giúp đồng bào từng bước chuyển hướng sản xuất sang làm cây công nghiệp xuất khẩu, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi gia súc, phát triển nghề rừng, sản xuất nông - lâm kết hợp với chế biến tạo nguồn sản phẩm hàng hoá để trao đổi lấy lương thực ở thị trường chung, vì sau khi thực hiện cơ chế mới thực tế cho thấy nguồn lương thực hàng hoá không thiếu.
- Việc tổ chức hướng dẫn sản xuất phải kết hợp với việc tạo ra thị trường, khơi luồng tiêu thụ sản phẩm.
- Từ đó từng bước giải quyết cơ bản vấn đề lương thực, không những để khỏi thiếu đói mà có cơ sở vững chắc để phát triển các cây, con, ngành nghề theo hướng kinh tế hàng hoá, làm giàu cho nhân dân miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số..
- Tình trạng không có giá hoặc giá quá thấp của nhiều loại sản phẩm nông lâm nghiệp ở các bản Mông là nguyên nhân chính cản trở hoạt động sản xuất hàng hóa, cản trở các mối liên kết cộng đồng và hoạt động cho quản lí tài nguyên.
- Trong tình trạng hiện tại, nó định hướng hoạt động sản xuất của họ vào phát triển nương rẫy và cũng là yếu tố quyết định vấn đề du canh, du cư mỗi khi đất đai bị.
- Cần có một giải pháp tổng thể thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng, chuyển đổi từ sản xuất canh tác nông nghiệp là chính sang lâm nghiệp và chăn nuôi, thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và hình thành các liên kết cộng đồng cho quản lý rừng và đất ở địa phương.
- Nhằm mục đích lồng ghép tốt mục tiêu phát triển sản xuất hàng hóa với bảo tồn và phát triển tài nguyên, để không đi chệch mục tiêu, cần có sự hỗ trợ của những giải pháp kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ khác..
- Thay vì kết luận những vấn đề trình bày ở trên, chúng tôi cho rằng từ việc nghiên cứu hoạt động sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông vùng cao phía Bắc đất nước, chúng ta nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của việc tìm hiểu các nội dung và cách tiếp cận nền kinh tế tài nguyên và ảnh hưởng của nó đến môi trường tự nhiên trong sản xuất nông nghiệp không chỉ giới hạn trong khuôn khổ các vấn đề kinh tế, mà quan trọng hơn đó còn là vấn đề địa lí tộc người Mông vùng cao.
- hơn các khái niệm cơ bản của kinh tế học tài nguyên vì mục đích phát triển bền vững cho đồng bào Mông cũng như các dân tộc vùng cao phía Bắc đất nước..
- Đề án chiến lược công tác dân tộc giai đoạn .
- google.com.vn/ Đề án chiến lược dân tộc giai đoạn .
- “Miền núi và con người” trong “Lê Bá Thảo Những công trình khoa học địa lí tiêu biểu”.
- Dương Quỳnh Phương, (2010), Cộng đồng các dân tộc với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 200 tr..
- Đặng Văn Phan và nnk (2008), Phát triển nông nghiệp bền vững : diễn giải, nội hàm và cách tiếp cận thực tiễn.
- Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường - ĐHQGHN (1998), Những xu hướng phát triển ở vùng núi phía Bắc Việt Nam (tập 1, 2), Nxb

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt