« Home « Kết quả tìm kiếm

ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT BÉO LÊN SINH TRƯỞNG VÀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA CÁ KÈO (PSEUDAPOCRYPTES ELONGATUS, CUVIER 1816)


Tóm tắt Xem thử

- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức thức ăn có hàm lượng chất béo tăng dần 1,5%.
- Qua 8 tuần thí nghiệm, kết quả cho thấy hàm lượng chất béo trong thức ăn không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.
- Hiệu quả sử dụng chất béo (LER) và chỉ số tích lũy chất béo (LR) giảm dần khi hàm lượng chất béo trong thức ăn tăng dần từ 1,5 -13,5%.
- Thí nghiệm xác định tỷ lệ dầu cá và dầu đậu nành thích hợp trong công thức thức ăn của cá kèo giống được thực hiện trên cá kèo có khối lượng trung bình 6,58 g/con.
- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức thức ăn với tỷ lệ dầu cá và dầu đậu nành và 100-0%) có cùng hàm lượng đạm 35%, chất béo 7,5% và năng lượng 17,2 KJ/g.
- Qua 8 tuần thí nghiệm, kết quả cho thấy thức ăn có tỷ lệ dầu cá và dầu đậu nành khác nhau không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.
- Ảnh hưởng của tỉ lệ dầu trong thức ăn lên thành phần hóa học của cá cũng đã được đánh giá..
- Trần Thị Bé, 2013)… Theo kết quả khảo sát của Trương Hoàng Minh và Nguyễn Thanh Phương, (2011) thì chi phí thức ăn trong nuôi cá kèo thâm canh với mật độ cao (95 – 100 con/ m 2 ) chiếm 58%.
- Khi bổ sung chất béo vào thức ăn sẽ.
- ảnh hưởng đến tăng trưởng cũng như hiệu quả sử dụng đạm của đối tượng nuôi, do chất béo có khả năng chia sẻ năng lượng với chất đạm có trong thức ăn (Lê Thanh Hùng, 2008, Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
- Dầu thực vật thường được sử dụng kết hợp với dầu động vật có nguồn gốc biển nhằm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn cũng như giảm chi phí thức ăn (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000).
- 2012), hay thay thế dầu cá bằng dầu đậu nành trong thức ăn của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) (Nguyễn Hoàng Đức Trung, 2011)… Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu về nhu cầu chất béo và tỷ lệ các nguồn dầu bổ sung trong thức ăn của cá kèo được công bố.
- Nghiên cứu nhằm xác định hàm lượng và nguồn chất béo thích hợp trong khẩu phần thức ăn, góp phần xây dựng công thức thức ăn tối ưu cho cá kèo, đồng thời cung cấp dẫn liệu khoa học cho giảng dạy và nghiên cứu tiếp theo..
- 2.1 Thí nghiệm 1: Xác định hàm lượng chất béo thích hợp trong công thức thức ăn cá kèo Bảng 1: Thành phần nguyên liệu và thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 1.
- Chất béo .
- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức thức ăn có các mức chất béo tăng dần 1,5%.
- 2.2 Thí nghiệm 2: Xác định tỷ lệ dầu cá và dầu đậu nành thích hợp trong công thức thức ăn của cá kèo.
- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức thức ăn có cùng hàm lượng đạm 35%, béo 7,86% (dựa trên kết quả nhu cầu chất béo của cá kèo được xác định ở thí nghiệm 1) và mức.
- Bảng 2: Tỷ lệ dầu cá/dầu đậu nành trong thức ăn thí nghiệm.
- Bảng 3: Thành phần nguyên liệu và thành phần hóa học thức ăn thí nghiệm 2.
- Thành phần hóa học của thức ăn.
- 2.3 Thức ăn thí nghiệm 2.3.1 Chuẩn bị nguyên liệu.
- Chất béo trong nguyên liệu bột cá được loại bỏ bằng dung dịch petroleum ether trước khi chế biến thức ăn.
- Sau quá trình li trích, tiến hành phân tích hàm lượng lipid trong bột cá, nếu lipid nhỏ hơn 1% thì tiếp tục phân tích các thành phần còn lại (đạm, xơ, tro), ngược lại ta thực hiện lại các bước như trên để loại bỏ lipid trước khi phối chế thức ăn thí nghiệm..
- 2.3.2 Phối trộn thức ăn.
- Thức ăn thí nghiệm được phối trộn từ các loại nguyên liệu chính: bột cá Kiên Giang (đã li trích béo), bột đậu nành (đã li trích béo), bột mì tinh, dầu cá, dầu đậu nành, hỗn hợp khoáng-vitamin và CMC..
- Quy trình phối trộn thức ăn chế biến (thức ăn dạng viên): Cân nguyên liệu  Trộn nguyên liệu khô  Trộn ướt  Ép viên  Phơi khô hoặc sấy.
- Thức ăn được ép viên với kích thước mắt lưới là 2 mm, được sấy khô ở nhiệt độ 60 o C trong 12 giờ và sau đó bảo quản ở nhiệt độ -20 o C trong suốt thời gian thí nghiệm..
- Lượng thức ăn mà cá tiêu thụ và thừa trong mỗi bể được ghi nhận hằng ngày (lượng thức ăn thừa được siphon ra ngoài, sấy khô và cân lại khối lượng).
- Phương pháp phân tích thành phần hóa học của cá và thức ăn dựa theo tiêu chuẩn AOAC (2000)..
- chất béo.
- Hệ số chuyển hóa thức ăn FCR (Feed Conversion Ratio).
- FCR = Lượng thức ăn ăn vào (khối lượng khô (g.
- Hiệu quả sử dụng chất béo (Lipid Efficiency Ratio - LER).
- L t : chất béo cá sau thí nghiệm.
- Nhu cầu chất béo được xác định theo phương pháp đường cong bậc 2 (Zeitoun et al., 1976), phân tích sự tương quan giữa DWG và hàm lượng chất béo trong khẩu phần thức ăn của cá kèo..
- 3.1 Xác định hàm lượng chất béo thích hợp trong công thức thức ăn cá kèo.
- 3.1.1 Tỷ lệ sống của cá thí nghiệm.
- Vì vậy, thức ăn thí nghiệm với các hàm lượng lipid khác nhau không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá kèo..
- Kết quả thí nghiệm tương tự như một số nghiên cứu của các tác giả trước đây như Trần Lê Cẩm Tú và Trần Thị Thanh Hiền (2006) nghiên cứu trên cá rô đồng (Anabas testusdineus) (2 - 2,5g/ con) với thức ăn chứa hàm lượng lipid khác nhau (6, 9, 12.
- kết quả nghiên cứu cho thấy thức ăn thí nghiệm không ảnh hưởng lên tỷ lệ sống của cá.
- Hình 2: Tỷ lệ sống của cá kèo với các loại thức ăn thí nghiệm có hàm lượng lipid khác nhau 3.1.2 Tăng trưởng của cá kèo thí nghiệm.
- Kết quả về tốc độ tăng trưởng của cá kèo sau 8 tuần thí nghiệm có khuynh hướng tăng cùng với sự gia tăng hàm lượng chất béo trong thức ăn từ 1,5 đến 10,5% chất béo và bắt đầu giảm khi mức chất béo ở mức cao hơn (13,5.
- Tăng trưởng của cá ở nghiệm thức thức ăn chứa 1,5 % chất béo thấp nhất cả về tuyệt đối lẫn tương đối và khác biệt có ý.
- nghĩa thống kê so với các nghiệm thức thức ăn còn lại.
- Bảng 4: Tăng trưởng của cá kèo với các loại thức ăn thí nghiệm có hàm lượng lipid khác nhau Nghiệm thức.
- Hình 3: Mối tương quan giữa DWG và hàm lượng chất béo trong thức ăn Khi phân tích tương quan hồi quy giữa tốc độ.
- Với hệ số tương quan R 2 = 0,88 cho thấy sự tương quan chặt chẽ giữa hàm lượng chất béo trong thức ăn và DWG của cá.
- Qua Hình 3 cho thấy hàm lượng chất béo tối ưu trong thức ăn khi cá đạt tăng trưởng tốt nhất là 9,05%..
- Tăng trưởng của cá kèo có khuynh hướng tương tự như nghiên cứu của Lin and Shiau (2003) thực hiện trên cá mú (Epinephelus malabaricus), cá tăng trưởng theo sự gia tăng hàm lượng lipid trong thức ăn từ 0 đến 8% và bắt đầu giảm khi thức ăn chứa lipid ở mức cao hơn và hàm lượng lipid tối ưu cho tăng trưởng của cá là 8,71% lipid trong thức ăn.
- thì hàm lượng lipid thích hợp trong công thức thức ăn là 8,21%.
- tăng khi hàm lượng lipid trong thức ăn tăng từ 2 – 8% và giảm nhẹ từ 8 đến 12%.
- Nhu cầu chất béo trong thức ăn của cá basa (Pangasius bocourti) là 7,7%, với hàm lượng chất béo cao hơn thì tăng trưởng của cá cũng không được cải thiện (Nguyễn Thanh Phương, 1998).
- Tương tự, khi cá tuyết giống (Atractoscion nobilis) sử dụng thức ăn cao hơn 18% chất béo thì tăng trưởng của khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với cá được cho ăn với thức ăn chứa 15,5% chất béo (Lus et al.
- Kết quả thí nghiệm cho thấy tốc độ tăng trưởng của cá giảm khi thức ăn có hàm lượng chất béo cao, điều này có thể được giải thích là khi chất béo cung cấp trong thức ăn dư thừa sẽ hạn chế sự tiêu hóa và hấp thu chất béo, cá giảm lượng thức ăn ăn vào do sự tích lũy chất béo dư thừa trong gan hoặc các cơ.
- Hàm lượng chất béo trong thức ăn.
- quan nội tạng khác hoặc do sự mất cân đối giữa các thành phần trong thức ăn (Lus et al., 2006)..
- 3.1.3 Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR), hiệu quả sử dụng đạm (PER), hiệu quả sử dụng chất béo (LER) và chỉ số tích lũy chất béo (LR).
- Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) cao nhất ở nghiệm thức thức ăn chứa 1,5% chất béo (2,25) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<.
- 0,05) so với các nghiệm thức thức ăn còn lại.
- FCR của cá kèo thí nghiệm ở các nghiệm thức thức ăn chứa hàm lượng lipid từ 4,5% đến 13,5% dao động từ 1,34 đến 1,49% và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức thức ăn này.
- chất béo trong thức ăn và bắt đầu giảm ở nghiệm thức chứa 13,5% chất béo.
- Tuy nhiên, PER giữa các nghiệm thức thức ăn chứa hàm lượng lipid từ 4,5 đến 13,5% khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), PER thấp nhất vẫn ở nghiệm thức thức ăn chứa 1,5% lipid (Bảng 5).
- lũy chất béo (LR) của cá giảm dần khi hàm lượng chất béo trong thức ăn tăng dần.
- LER và LR của cá giảm từ nghiệm thức thức ăn chứa 4,5 đến 13,5% chất béo trong thức ăn (Bảng 5).
- Điều này có thể do hàm lượng chất béo trong thức ăn tăng lên quá cao làm giảm khả năng tiêu hóa chất béo dẫn đến hiệu quả sử dụng chất béo giảm (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
- (2005) trên cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella), Nguyễn Hoàng Đức Trung (2011) nghiên cứu trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) cũng cho kết quả tương tự về chỉ số tích lũy chất béo (LR) của cá càng giảm khi hàm lượng chất béo bổ sung trong thức ăn tăng.
- 3.1.4 Thành phần hóa học của cá.
- Độ ẩm của cá có khuynh hướng giảm dần theo mức tăng hàm lượng chất béo trong thức ăn.
- Ngược lại với ẩm độ, hàm lượng chất béo của cá sau thí nghiệm tăng dần theo mức tăng hàm lượng chất béo trong thức ăn.
- Chất béo.
- thức ăn tăng lên, sẽ dẫn đến thay đổi tỉ lệ các thành phần hóa học của cơ thể cá, tỉ lệ chất béo trong cơ thể cá tăng lên, tỉ lệ nước giảm xuống và tỉ lệ đạm gần như không thay đổi (Lê Thanh Hùng, 2008)..
- 3.2 Xác định tỷ lệ dầu cá và dầu đậu nành thích hợp trong công thức thức ăn của cá kèo.
- Hình 4: Tỷ lệ sống của cá kèo với thức ăn chứa tỷ lệ dầu cá và dầu đậu nành khác nhau Kết quả thí nghiệm này tương tự với kết quả.
- nhận định thức ăn có các nguồn cung cấp chất béo khác nhau không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá hồi (Salmo trutta) có khối lượng trung bình là (58,4.
- Tuy nhiên, tăng trưởng của cá có xu hướng giảm khi mức thay thế này cao hơn (75–100%) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm thức ăn với tỷ lệ thay thế còn lại.
- Tăng trưởng của cá ở nghiệm thức thay thế khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với cá ở nghiệm thức thức ăn chứa 100% dầu cá.
- Việc thay thế 50% dầu cá bằng các nguồn dầu khác trong công thức thức ăn được xem như là một phương pháp tốt trong việc giảm chi phí của thức ăn (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000).
- Hay ở cá vền đỏ (Pagrus major) giống (3,61g/con) được cho ăn thức ăn chứa 46% protein và 15%.
- lipid sau 84 ngày thí nghiệm thì tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và hiệu quả sử dụng protein của cá đều khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05 ) khi thay thế dầu cá bằng dầu canola ở.
- các mức và 100% trong công thức thức ăn (Huang et al.
- 3.2.3 Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR), hiệu quả sử dụng đạm (PER), hiệu quả sử dụng chất béo (LER) và chỉ số tích lũy chất béo (LR).
- Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) của cá kèo tương đối cao, dao động từ 1,23-1,80.
- Tuy nhiên, FCR của cá thí nghiệm ở hai nhóm thức ăn này khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Như vậy, trong thành phần thức ăn của cá kèo nếu tăng tỷ lệ thay thế dầu cá bằng dầu đậu nành sẽ làm gia tăng hệ số chuyển hóa thức ăn của cá..
- Cụ thể, PER của cá ở nghiệm thức thức ăn 75% DĐN và 100% DĐN thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại (p<0,05) (Bảng 8).
- Tuy nhiên, ở một số loài cá lợ mặn như cá vền đỏ (Pagrus major) thì việc thay thế dầu cá bằng dầu canola không ảnh hưởng đến hệ số chuyển hóa thức ăn của cá (Huang et al..
- 2007) hay ở cá bơn (Psetta maxima) hệ số chuyển hóa thức ăn và hiệu quả sử dụng đạm khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các mức thức ăn thay thế dầu cá bằng dầu đậu nành hoặc dầu hạt lanh (Regost et al.
- chất béo tích lũy (LR) của cá kèo cũng giảm cùng với sự gia tăng dầu đậu nành trong công thức thức ăn cho dầu cá.
- Hàm lượng chất béo và nguồn chất béo bổ sung vào trong thức ăn đều không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá kèo thí nghiệm.
- Nhu cầu chất béo trong công thức thức ăn của cá kèo (cỡ 6-7g/ con) là 9,05%.
- đồng thời cá tăng trưởng tốt khi sử dụng hoàn toàn dầu cá trong thức ăn hoặc kết hợp dầu cá.
- Hiệu quả sử dụng đạm, hiệu quả sử dụng chất béo và chỉ số chất béo tích lũy của cá giảm khi hàm lượng chất béo trong thức ăn tăng hay sự thay thế dầu cá bằng dầu đậu nành ở mức cao.
- Thành phần hóa học của cá chịu ảnh hưởng bởi thành phần hóa học của thức ăn, cá ăn thức ăn chứa hàm lượng chất béo càng cao thì tỷ lệ chất béo trong cơ thể càng nhiều và hàm lượng nước trong cơ thể giảm..
- Tuy nhiên, hàm lượng đạm và tro tương đối ổn định với sự thay đổi chất béo trong thức ăn cả về phần trăm và tỷ lệ thay thế..
- Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản.
- Ảnh hưởng của chất béo trong thức ăn lên sinh trưởng và thành phần hóa học của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus.
- Nghiên cứu tổng hợp thức ăn viên cho cá kèo (P.
- Đánh giá khả năng chia sẻ năng lượng của lipid cho protein trong thức ăn của cá rô đồng (Anabas testudineus) ở giai đoạn giống.
- Đánh giá khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên liệu làm thức ăn cho cá kèo (Pseudapocryptes elongatus)..
- Giáo trình Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản