« Home « Kết quả tìm kiếm

Ảnh hưởng của NAA và BA phun qua lá đến sinh trưởng và chất lượng hoa hồng Tường vi (Rosa sp.) trồng chậu


Tóm tắt Xem thử

- ẢNH HƯỞNG CỦA NAA VÀ BA PHUN QUA LÁ ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG HOA HỒNG TƯỜNG VI (Rosa sp.) TRỒNG CHẬU.
- The experiment was laid out in completely randomized design (CRD) included five treatments: control (sprayed water), NAA and BA at two different concentrations at 25 and 50 ppm in six replications with one potted rose for each replication.
- The experimental results revealed that four pre-harvest foliar sprays of NAA and BA at 25 and 50 ppm concentrations showed maximum chlorophyll values (SPAD) (>50), length of flower branches (>27 cm), flower bud parameters and the flowering duration as compared to the control treatment.
- Nghiên cứu thực hiện nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của các nồng độ của naphthalene acetic acid (NAA) và benzyladenine (BA) phun qua lá đến sinh trưởng và chất lượng của hoa hồng Tường vi (Rosa sp.) trồng chậu.
- nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức gồm đối chứng (phun nước), phun NAA và BA ở nồng độ 25 và 50 ppm, cách 15 ngày 1 lần.
- Thí nghiệm có 6 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại là một chậu hoa hồng Tường vi.
- Kết quả thí nghiệm cho thấy xử lý NAA và BA ở các nồng độ 25 và 50 ppm đã giúp gia tăng chỉ số diệp lục tố (SPAD) (>50), chiều cao cành mang hoa (>27 cm), tăng kích thước nụ hoa và kéo dài thời gian hoa nở so với đối chứng.
- Xử lý NAA và BA ở nồng độ 25 ppm giúp chỉ số diệp lục tố SPAD của lá đạt cao nhất ở thời điểm 30 ngày sau khi cắt cành (tương ứng với 53,8 và 54) trong khi giá trị thấp nhất ghi nhận được ở nghiệm thức đối chứng (<50)..
- Các nghiệm thức này cũng giúp gia tăng kích thước nụ hoa, đường kính hoa và kéo dài thời gian nở của hoa hồng Tường vi tốt hơn so với không xử lý..
- Ảnh hưởng của NAA và BA phun qua lá đến sinh trưởng và chất lượng hoa hồng Tường vi (Rosa sp.) trồng chậu.
- Hoa hồng (Rosa sp.) xuất hiện trên thế giới từ rất lâu và có hơn 20 ngàn giống hoa hồng thương phẩm được lai tạo từ các loài hoang dại và đây là một trong những loại hoa cắt cành mang lại doanh thu cao nhất thế giới (David, 2006).
- Hoa hồng thích nghi với nhiều điều kiện khí hậu, được sử dụng phổ biến ở dạng hoa cắt cành và hoa trồng chậu do có nhiều chủng loại với hình dáng, màu sắc và mùi thơm đa dạng (Nguyễn Xuân Linh và Nguyễn Thị Kim Lý, 2005.
- Ngoài ra, cánh hoa hồng còn được dùng để chưng chất nước hoa và tinh dầu, đồng thời cũng được sử dụng để điều chế mỹ phẩm và thuốc.
- (Younis et al., 2006.
- Bên cạnh yếu tố về giống, kỹ thuật canh tác, các nghiên cứu về dinh dưỡng và bổ sung hóa chất nhằm cải thiện năng suất và chất lượng một số giống hoa hồng đã được nghiên cứu và công bố nhưng chủ yếu tập trung trên một số giống hoa hồng cắt cành và hoa hồng tiểu muội còn các nghiên cứu trên hoa trồng trồng chậu vẫn khá ít (Roberts et al., 1999.
- Saffari et al., 2004.
- Zmani et al., 2011.
- Younis et al., 2013)..
- Trong số các giống hoa hồng được trồng phổ biến ở miền Nam Việt Nam, hoa hồng Tường vi được ưa chuộng và canh tác nhiều do thích nghi với điều kiện khí hậu nóng ẩm, hoa có thể được trồng ở dạng hồng bụi hoặc hồng leo, hoa có màu sắc đẹp và mùi thơm nồng, có thể được sử dụng để ly trích tinh dầu và làm nước hoa hồng.
- Nhiều nghiên cứu cho thấy sự suy giảm chất lượng cánh hoa có liên quan đến chất lượng giống, sự suy giảm của các hợp chất điều hòa sinh trưởng, đặc biệt là cytokinins và gia tăng tổng hợp ethylenes (Taverner et al., 1999.
- Nguyễn Quang Thạch et al., 2000;.
- Hoeberichts et al., 2007.
- Việc bổ sung một liều lượng rất nhỏ các chất điều hòa sinh trưởng như auxin, gibberellins và cytokinins… đã giúp điều hòa các quá trình sinh lý thực vật, gia tăng quá trình phân chia và dãn dài tế bào, kích thích hình thành mầm hoa, phá vỡ miên trạng của chồi hoa, làm giảm sự héo, rụng của nhiều loại hoa kiểng (Ramachandrudu and Thangam, 2007.
- Neha et al., 2012).
- Theo Saffari et al.
- (2004), để gia tăng số lượng hoa hồng trên cây có thể bổ sung NAA ở liều lượng 200 ppm, hoặc để hạn chế sự héo cánh hoa của một số giống hoa như cẩm chướng, hoa hồng, hoa petunia thì có thể bổ sung các dạng và liều lượng hợp chất thuộc nhóm cytokinins (Lukaszewska et al., 1994.
- Taverner et al., 1999.
- Chang et al., 2003).
- nghiên cứu tại Việt Nam được công bố về vai trò của một số chất điều hòa sinh trưởng đến chất lượng hoa hồng trồng chậu, đặc biệt là hoa hồng Tường vi, chính vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm ra dạng và nồng độ hóa chất thích hợp cho sự sinh trưởng và duy trì chất lượng hoa khi nở của hoa hồng Tường vi trồng chậu..
- 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu Thí nghiệm được thực hiện trên hoa hồng Tường vi trồng chậu tại vườn hồng thực nghiệm, đường Nguyễn Đệ, Phường An Hòa, Quận Ninh Kiều, TP..
- Đối tượng thí nghiệm: giống hoa hồng Tường vi sau khi chiết cành 1 năm, có 3-4 cành chính (Hình 1B).
- Tại thời điểm bố trí thí nghiệm, hoa hồng được cắt cành và còn chừa khoảng 3 mắt lá tính từ gốc cành.
- Chậu được bổ sung phân hữu cơ khoáng Japon 3.5.3 (Nhật Bản), liều lượng 1 g/chậu, 15 ngày/lần từ thời điểm sau khi cắt cành và phun thuốc trừ sâu Emamectin Benzoate (MIKMIRE 7.9EC - hiệu Trái Cà) ở thời điểm ra lá non (1 lần/vụ).
- (A) (B) Hình 1: Các chậu hoa hồng bố trí thí nghiệm (A) và cây hoa hồng Tường vi trước khi cắt cành (B) Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với năm nghiệm thức gồm: đối chứng (phun nước), NAA và BA ở hai mức nồng độ 25 và 50 ppm.
- Thí nghiệm có sáu lần lập lại, mỗi lần lặp lại là một chậu hoa hồng có khoảng 3-4 cành trên cây và được cắt tỉa gần đồng nhất với nhau.
- Thời gian bắt đầu thí nghiệm được tính từ thời điểm cắt tỉa cành hoa hồng.
- Hóa chất được phun 3 lần/vụ, bắt đầu vào thời điểm 15 ngày sau khi cắt cành, cách 15 ngày bổ sung 1 lần, pha đúng liều lượng và mỗi chậu được phun 100 mL/lần.
- Nghiệm thức đối chứng được phun nước với thể tích tương tự như các nghiệm thức sử dụng hóa chất.
- Khảo sát đặc tính lá: đo chỉ số diệp lục tố lá trưởng thành (máy đo chỉ số diệp lục tố SPAD, Nhật Bản) tại thời điểm 5, 10 và 15 ngày sau khi phun (SKP) chất điều hòa sinh trưởng (tương ứng với 20, 40 và 60 ngày sau khi cắt cành).
- 2.3 Xử lý số liệu.
- 3.1 Khảo sát chỉ số diệp lục tố của lá (chỉ số SPAD).
- Kết quả khảo sát chỉ số diệp lục tố lá trưởng thành của hoa hồng Tường vi cho thấy vào thời điểm 5 ngày SKP lần thứ nhất, chỉ số SPAD của lá trưởng.
- thành ở các nghiệm thức chưa có sự khác biệt qua phân tích thống kê (Bảng 1).
- Tại thời điểm 10 ngày SKP lần thứ hai, do nụ hoa đã hình thành và phát triển sớm hơn nên chỉ số SPAD lá trưởng thành của nghiệm thức đối chứng có xu hướng cao hơn so với các nghiệm thức có bổ sung chất điều hòa sinh trưởng NAA và BA.
- Đến thời điểm 15 ngày SKP lần thứ ba, chỉ số SPAD của lá trưởng thành của nghiệm thức phun NAA và BA ở nồng độ 25 ppm vẫn duy trì ở mức khá cao so với nghiệm thức đối chứng và hai nghiệm thức bổ sung NAA và BA ở nồng độ 50 ppm.
- Theo Markwell et al.
- (1995), chỉ số SPAD có thể phản ánh hàm lượng diệp lục tố hiện diện trong lá cây và khái quát được trạng thái sinh lý của cây và tỷ lệ thuận với hàm lượng diệp lục tố trong lá..
- Vai trò của các chất điều hòa sinh trưởng, đặc biệt là auxin và cytokinins trong việc gia tăng sinh tổng hợp diệp lục tố, bảo vệ màng lục lạp trong sinh trưởng cây trồng đã được công bố (Taverner et al., 1999.
- Trong đó, sử dụng BA đã giúp duy trì và gia tăng màu sắc diệp lục tố trong lá của hoa hồng lai so với bổ sung GA 3 và không xử lý (Mondal and Sarkar, 2018).
- Trên cây hoàng bá (Phellodendron chinense), phun BA hoặc NAA đã giúp gia tăng hàm lượng diệp lục tố của lá cây do các loại hóa chất này kích thích việc gia tăng một số chất biến dưỡng thứ cấp, đường hòa tan và các enzymes có liên quan đến con đường sinh tổng hợp diệp lục tố (He et al., 2018).
- Nhiều tác giả đã chứng minh, các chất điều hòa sinh trưởng khi bổ sung ở liều lượng thích hợp đã ức chế sự hình thành các enzymes phân hủy diệp lục tố như chlorophyllase hoặc magnesium dechelatese (Saffari et al., 2004;.
- He et al., 2018)..
- Bảng 1: Ảnh hưởng của NAA và BA đến chỉ số diệp lục tố (chỉ số SPAD) của lá hoa hồng Tường vi theo thời gian sinh trưởng (sau khi phun).
- Nghiệm thức Chỉ số diệp lục tố (SPAD).
- NAA 25 ppm 47,1 51,2 b 53,8 a.
- NAA 50 ppm 47,0 51,3 b 51,3 b.
- BA 25 ppm 46,7 51,4 b 54,0 a.
- BA 50 ppm 46,8 50,9 b 51,9 b.
- hoa ở các nghiệm thức không chênh lệch qua phân tích thống kê, dao động ở 4,50 đến 5 cành/chậu.
- Các nghiệm thức có bổ sung NAA và BA đều giúp gia tăng chiều dài cành mang hoa so với đối chứng (26,2.
- Chiều cao cành mang hoa thể hiện cao nhất (hơn 30 cm) ở hai nghiệm thức phun NAA nồng độ 25 và 50 ppm nhưng không khác biệt so với nồng độ BA 25 ppm.
- phân tích thống kê giữa các nghiệm thức về sự sắp xếp lá kép trên cành màng hoa, dao động từ 6,7-7 lá/cành..
- Bảng 2: Ảnh hưởng của NAA và BA đến các đặc tính sinh trưởng của cành mang hoa.
- Nghiệm thức Đặc tính cành mang hoa.
- NAA 25 ppm 5,00 30,0 a 6,83.
- NAA 50 ppm 4,67 30,8 a 6,83.
- BA 25 ppm 4,50 29,5 a 6,90.
- BA 50 ppm 4,50 27,5 b 7,00.
- Kết quả nghiên cứu phù hợp với nhận định về vai trò của auxins và cytokinins trong việc gia tăng chiều dài cành mang hoa do ảnh hưởng đến sự phân chia tế bào, dãn dài tế bào và kích thích sự phát triển của các mô phân sinh (Saffari et al., 2004.
- Bổ sung BA ở nồng độ 50 ppm tuy không giúp kéo dài cành mang hoa so với bổ sung NAA nhưng có xu hướng gia tăng số lá hình thành trên cành.
- Theo Sardoei (2014), xử lý BA với nồng độ cao đã trì hoãn ảnh hưởng ưu thế ngọn bởi sự tác động của auxin, giúp phá vỡ sự miên trạng chồi bên làm gia tăng hình thành chồi bên, chồi lá của một số cây trồng.
- Riêng các chất điều hòa sinh trưởng thuộc nhóm auxin đóng vai trò quan trọng trong việc kích.
- thích sự sinh trưởng chồi ngọn, gia tăng khả năng hình thành hoa của nhiều loại cây trồng, đặc biệt là trên các giống hoa kiểng (Saffari et al., 2004.
- Jiang et al., 2010)..
- 3.3 Khảo sát đặc tính của nụ và hoa sau khi nở Theo kết quả Bảng 3, các nồng độ bổ sung NAA và BA đều cải thiện các chỉ tiêu về kích thước của nụ hoa hồng Tường vi và kéo dài thời gian hoa nở so với trên cành so với đối chứng.
- Trong đó, xử lý BA ở nồng độ 25 ppm và NAA ở hai nồng độ 25 và 50 ppm giúp gia tăng chiều cao nụ, đường kính nụ và đường kính hoa hồng Tường vi lớn nhất..
- Bảng 3: Ảnh hưởng của NAA và BA đến các chỉ tiêu phẩm chất của hoa hồng Tường vi.
- Nghiệm thức Các chỉ tiêu phẩm chất hoa.
- NAA 25 ppm 1,85 a 1,23 a 5,85 a 13,0 a 6,17 a.
- NAA 50 ppm 1,80 a 1,18 ab 5,79 a 11,3 b 4,83 b.
- BA 25 ppm 1,83 a 1,15 ab 5,52 a 12,8 a 6,17 a.
- BA 50 ppm 1,65 b 1,10 b 4,99 b 10,8 bc 5,33 ab.
- Nhiều nghiên cứu cho thấy việc bổ sung các hợp chất thuộc nhóm auxins và cytokinins đã giúp giảm sự héo của cánh hoa cẩm chướng, hoa hồng, hoa petunia.
- (Lukaszewska et al., 1994.
- Chang et al., 2003.
- Saffari et al., 2004)..
- Trên hoa vạn thọ, xử lý BA nồng độ 75 ppm trên hoa vạn thọ giúp gia tăng chiều cao cây, số hoa và đường kính trung bình hoa (Bairwa and Mishra,.
- Trước khi thu hoạch hoa Ly ly từ 2 đến 3 tuần, xử lý NAA (nồng độ 10 ppm và 20 ppm) và BA (nồng độ 50 ppm và 100 ppm) cũng giúp gia tăng đường kính nụ, chiều dài nụ và đường kính hoa lớn hơn so với đối chứng không xử lý (Kumari et al., 2017).
- Còn trên hoa hồng lai cao sản, bổ sung NAA ở liều lượng 200 ppm giúp gia tăng số lượng hoa trên cây (Saffari et al., 2004)..
- Kết quả thí nghiệm cho thấy hiệu quả của việc bổ sung NAA và BA ở cùng nồng độ 25 ppm đến sự ra hoa của hoa hồng Tường vi trồng chậu, thời gian phát triển nụ kéo dài (dao động 12,8 - 13 ngày) nên đã làm gia tăng các chỉ tiêu về kích thước nụ, gia tăng kích thước hoa và giúp trì hoãn sự lão hóa do kéo dài thời gian hoa nở đến khi hoa tàn hơn 6 ngày, trong khi nghiệm thức đối chứng không xử lý có thời gian hoa tàn rất nhanh (nhỏ hơn 4 ngày).
- Sự lão hóa và rụng cánh hoa gia tăng sự hình thành ethylene nội sinh cũng như những biến đổi sinh lý và sinh hóa của thành phần vách tế bào dẫn đến sự rò rỉ tế bào chất (Leverenz et al., 2002.
- Wagstaff et al., 2003;.
- Ma et al., 2005), suy giảm protein do sự gia tăng hoạt tính của enzyme protease (Van Doorn, 2002;.
- Lerslerwong et al., 2009) và đặc biệt là do biến đổi của các đặc tính di truyền của cánh hoa (Hoeberichts et al., 2007.
- Đồng thời, sự héo của cánh hoa còn liên quan nhiều đến gene mã hóa sự tổng hợp các enzymes cytokinin oxidase/dehydrogenase làm gia tăng sự lão hóa dẫn đến mất màu của cánh hoa nên việc bổ sung các hợp chất điều hòa sinh trưởng ngoại sinh đã phần nào hạn chế sự lão hóa và héo (Saffari et al., 2004;.
- Chính vì vậy, việc duy trì sự hiện diện của các chất điều hòa sinh trưởng nội sinh thuộc nhóm auxin, cytokinin và gibberellins cao trong quá trình hình thành và phát triển hoa sẽ giúp duy trì chất lượng của nhiều giống hoa kiểng (Parma et al., 2004;.
- Jiang et al., 2010;.
- Sau khi tỉa cắt cành hoa, xử lý NAA và BA ở các nồng độ 25 và 50 ppm ở thời điểm 15, 30 và 45 ngày sau khi cắt tỉa đã giúp gia tăng chỉ số diệp lục tố (SPAD) (>50), tăng chiều cao cành mang hoa (>27 cm), tăng kích thước nụ hoa và kéo dài thời gian hoa nở so với đối chứng..
- Xử lý NAA và BA ở nồng độ 25 ppm giúp chỉ số diệp lục tố SPAD của lá đạt cao nhất ở thời điểm 30 ngày sau khi cắt cành (53,8 và 54), gia tăng kích thước nụ hoa và đường kính hoa, đồng thời còn giúp kéo dài thời gian nở của hoa hồng Tường vi đến hơn 6 ngày so với không xử lý có giá trị SPAD thấp (<50) và thời gian hoa nở ngắn (khoảng gần 4 ngày)..
- Xử lý NAA và BA ở nồng độ 25 ppm cho hoa hồng Tường vi trồng chậu..
- Tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng tương tác giữa kỹ thuật canh tác, phân bón và các chất điều hòa sinh trưởng đến chất lượng của hoa hồng Tường vi trồng chậu.