« Home « Kết quả tìm kiếm

Ảnh hưởng của số lần cho ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain)


Tóm tắt Xem thử

- ẢNH HƯỞNG CỦA SỐ LẦN CHO ĂN LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG CUA BIỂN (Scylla paramamosain).
- paramamosain, số lần cho ăn Keywords:.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của số lần cho ăn khác nhau trong ương ấu trùng cua biển nhằm xác định số lần cho ăn thích hợp cho sự tăng trưởng và tỷ lệ sống trong ương nuôi ấu trùng cua biển.
- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức: (i) cho ăn 4 lần/ngày.
- (ii) 6 lần/ngày và (iii) 8 lần/ngày.
- với mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần.
- Bể thí nghiệm có thể tích 120 L (chứa 100 L nước), mật độ ấu trùng 450 con/L và nước có độ mặn 30‰.
- Tỷ lệ sống đạt từ .
- Sau 26 ngày ương, tỷ lệ chuyển cua 1 ở các nghiệm thức là 100% và chỉ số biến thái của ấu trùng ở các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Bên cạnh đó, tỷ lệ sống từ giai đoạn zoae 1 đến cua 1 đạt từ và giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Ảnh hưởng của số lần cho ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain).
- Trong những năm gần đây, nghề nuôi cua biển (Scylla paramamosain) đã và đang phát triển ở.
- cạnh đó, việc sản xuất giống cua biển cũng được phát triển nhanh và tập trung ở 3 tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long (Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang), với 526 trại sản xuất giống cua biển vào năm 2014 và năm 2016 là 614 trại, sản lượng đạt 1.593 triệu con giống (Trần Ngọc Hải và ctv., 2018).
- Việc sản xuất giống cua biển thành công, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: môi trường nước, nguồn cua bố mẹ, chất lượng ấu trùng và chất lượng thức ăn (Truong Trong Nghia et al., 2007).
- (2010) cho rằng ương ấu trùng cua biển với hai giai đoạn (ương từ zoae 1 – zoae 5 và zoae 5 đến cua 1 ) với các mật độ và khẩu phần thức ăn khác nhau thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống.
- Hiện nay, có nhiều nghiên cứu về ương ấu trùng cua biển đã được thực hiện nhằm để nâng cao tỷ lệ sống cho ấu trùng cua biển như đánh giá khả năng thay thế Artemia Vĩnh Châu bằng Artemia Thái Lan (Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải, 2016) và ương ấu trùng cua biển san thưa ở các giai đoạn khác nhau (Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt, 2017a).
- Theo Vutthichai and Norhasmariza (2016), ấu trùng ghẹ xanh được cho ăn với số lần khác nhau (2, 4 và 6 lần/ngày) thì không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống từ giai đoạn zoae 1 - ghẹ 1 .
- Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất giống cua biển ở Đồng bằng sông Cửu Long, ấu trùng cua được cho ăn mỗi ngày dao động từ 4-8 lần và tỷ lệ sống dao động tương đối lớn (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009.
- Xuất phát từ các vấn đề trên, nghiên cứu ảnh hưởng của số lần cho ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển được thực hiện nhằm xác định số lần cho ăn phù hợp, góp phần hoàn thiện qui trình kỹ thuật sản xuất giống cua biển..
- Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức với số lần cho ăn khác nhau: (i) cho ăn 4 lần/ngày (6 h, 12 h, 18 h và 24 h), (ii) cho ăn 6 lần/ngày (2 h, 6 h, 10h.
- Các nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, với mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
- Ấu trùng có nguồn gốc từ cua mẹ được nuôi vỗ và cho đẻ trong bể tại Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần thơ.
- Ấu trùng được ương theo 2 giai đoạn:.
- Giai đoạn 1 (ương từ zoae 1 đến zoae 4.
- Khi ấu trùng chuyển sang giai đoạn zoae 4 hoàn toàn thì tiến hành xác định tỷ lệ sống và chuyển sang ương giai đoạn 2..
- Giai đoạn 2 (ương từ zoae 4 đến cua 1.
- Tổng thời gian ương của cả 2 giai đoạn là 26 ngày..
- Tổng lượng thức ăn được sử dụng cho ấu trùng ăn/ngày ở các nghiệm đều như nhau, nhưng số lần cho ăn khác nhau theo từng nghiệm thức được bố trí, cụ thể lượng thức ăn theo các giai đoạn như sau:.
- Giai đoạn zoae 1 -zoae 4: ấu trùng được cho ăn Artemia bung dù với lượng 8-28 g/m 3 /ngày.
- Khi ấu trùng đến giai đoạn zoae 3 thì bổ sung thức ăn Lansy PL 1 lần/ngày (Lansy PL có hàm lượng protein ≥ 48.
- Giai đoạn zoae 4 đến megalop: ấu trùng được cho ăn Artemia nở với lượng 24 – 32 g/m 3 /ngày và bổ sung thức ăn Lansy PL với liều lượng 2-4 g/m 3 /ngày.
- Giai đoạn megalopa đến cua 1 chỉ cho ăn Lansy PL với lượng 8-12 g/m 3 /ngày..
- Khi ấu trùng chuyển hoàn toàn sang megalop, giá thể lưới được bố trí vào bể ương (cỡ mắt lưới là 4 mm), với lượng giá thể là 1 m 2 /bể..
- Định kỳ 3 ngày/lần thu 10 ấu trùng/bể để đo chiều dài và xác định giai đoạn để tính chỉ số biến thái (LSI), LSI được xác định theo công thức:.
- N i là giai đoạn ấu trùng n 1 , n 2.
- n i là số ấu trùng ở giai đoạn tương ứng Tỷ lệ sống (TLS) được xác định ở giai đoạn zoae 4 (khi chuyển sang ương giai đoạn 2) và cua 1 .
- Số lương ấu trùng zoae 4 và cua 1 được xác định bằng cách định lượng..
- (ấu trùng zoae 4 / lượng ấu trùng zoae 1 bố trí.
- (Số cua 1 thu được/ lượng ấu trùng zoae 4 bố trí.
- (Số cua 1 thu được/ lượng ấu trùng zoae 1 bố trí.
- Nhìn chung, nhiệt độ buổi sáng và chiều không có sự chênh lệch đáng kể giữa các nghiệm thức..
- ương ấu trùng cua từ 28-30 o C.
- Tuy nhiên, theo Shelley and Lovatelli (2011) và Baylon (2013), nhiệt độ thích hợp trong ương ấu trùng cua biển dao động từ 25-32 o C.
- Với kết quả trên cho thấy nhiệt độ bể ương ở các nghiệm thức đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng cua..
- Trung bình pH ở các nghiệm thức thí nghiệm dao động từ 7,88-8,80.
- Nhìn chung, pH trong các nghiệm thức đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng cua biển.
- (2007) cho rằng, pH trung bình khoảng 8,5 thuận lợi cho ương ấu trùng cua biển.
- Tương tự, pH thích hợp cho ấu trùng ghẹ (Portunus pelagicus) nằm trong khoảng 8,1±0,2 (Ravi and Manisseri, 2013)..
- Bảng 1: Nhiệt độ và pH ở các nghiệm thức trong quá trình thí nghiệm Nghiệm thức.
- Kết quả Hình 1 cho thấy, hàm lượng TAN của các nghiệm thức tăng dần theo thời gian thí nghiệm và dao động từ 0,4-2,5 mg/L, cao nhất là ngày thứ 18 (2,5 mg/L) và thấp nhất là ngày thứ 3 (0,4 mg/L)..
- Tuy nhiên, hàm lượng TAN ở các nghiệm thức có số lần cho ăn khác nhau, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Việt (2017a), trong ương ấu trùng cua biển đôi khi hàm lượng TAN trong môi trường nước lên đến 5,17 mg/L, nhưng chưa ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu trùng.
- Khi ương ấu trùng cua biển thay thế Artemia bằng thức ăn nhân tạo, hàm lượng TAN trong các nghiệm thức cao nhất vào ngày thứ 15 (5 mg/L), tuy nhiên ấu trùng vẫn phát triển tốt và đạt tỷ lệ sống cao (Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt, 2017b)..
- ngày ương giữa các nghiệm thức dao động từ 0,3- 4,5 mg/L và cũng không khác biệt có ý nghĩa thống.
- kê giữa các nghiệm thức số lần cho ăn khác nhau (Hình 2).
- Sau 18 ngày ương, hàm lượng nitrite ở các nghiệm thức còn ở mức thấp, dao động từ 0,50 – 0.
- Tuy nhiên đến 24 ngày ương, hàm lượng nitrite ở các nghiệm thức đều tăng cao mg/L).
- Theo Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt (2017a), trong ương ấu trùng cua biển, hàm lượng nitrite tăng cao vào cuối giai đoạn ương (4,77 mg/L.
- vào ngày thứ 21), tuy nhiên tỷ lệ sống của ấu trùng từ giai đoạn zoae 1 đến cua 1 đạt 9,8%.
- Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, hàm lượng nitrite của các nghiệm thức tăng cao vào lúc gần thu hoạch nên ảnh hưởng không lớn đến sự phát triển của ấu trùng..
- Hình 2: Sự biến động của hàm lượng nitrite trong thời gian thí nghiệm 3.2 Chỉ số biến thái (LSI) của ấu trùng cua.
- Kết quả cho thấy sự biến thái của ấu trùng ở các nghiệm thức ở các thời gian thu mẫu khác nhau, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Sau 15 ngày ương, LSI của các nghiệm thức dao động từ hầu hết ấu trùng ở giai đoạn zoae 5 và chỉ xuất hiện 7% megalop ở nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày và 13% megalop ở nghiệm thức cho ăn 4 lần/ngày).
- Đến 21 ngày ương, LSI ở các nghiệm thức đều là 6 (tất cả ấu trùng cua ở các nghiệm thức.
- Kết quả cho thấy, thời gian biến thái của ấu trùng trong nghiên cứu này chậm hơn so với các nghiên cứu trước đây và điều này có thể do nhiệt độ tương đối thấp o C).
- Theo Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải (2016), ương ấu trùng cua biển với các loại Artemia khác nhau với nhiệt độ dao động từ 28 - 29 o C, sau 21 ngày ương, LSI dao động từ và tương ứng với tỷ lệ chuyển cua 1 là 67 – 90%..
- Bảng 2: Chỉ số biến thái của ấu trùng trong thời gian ương Ngày sau khi ương.
- Nghiệm thức (Số lần cho ăn/ngày).
- Các giá trị trên cùng một hàng mang mẫu tự (a, b và c) khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 3.3 Chiều dài của ấu trùng cua trong thời.
- Bảng 3 cho thấy, chiều dài ấu trùng cua của các nghiệm thức theo thời gian ương khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Sau 24 ngày ương, trung bình chiều dài ấu trùng cua ở các nghiệm thức.
- Kết quả đã thể hiện, khi cho ấu trùng cua ăn với số lần khác nhau (4, 6, và 8 lần/ngày), không ảnh hưởng đến chiều dài của ấu trùng cua.
- Kết quả nhiên cứu này tương đồng với các nghiên cứu trước, Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải (2016) cho rằng, khi cho ấu trùng cua ăn các loại 0,0.
- Artemia khác nhau không ảnh hưởng đến tăng trưởng về chiều dài nhưng sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống.
- nhân tạo, chiều dài của ấu trùng cua tương đương nhau, nhưng tỷ lệ sống khác nhau có ý nghĩa thống kê (Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt, 2017b)..
- Bảng 3: Chiều dài (mm) của ấu trùng cua biển ở các lần thu mẫu.
- Các giá trị trên cùng một hàng mang mẫu tự (a, b và c) khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 3.4 Tỷ lệ sống.
- Hình 3 cho thấy, tỷ lệ sống trung bình của ấu trùng ở giai đoạn ương từ zoae 1 đến zoae 4 của các nghiệm thức cho ăn với số lần khác nhau dao động từ khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Giai đoạn ương từ zoae 4 đến cua 1, trung bình tỷ lệ sống dao động từ 5,6-6,6% và từ giai đoạn zoae 1 đến cua 1 dao động từ 2,6-3,0%, giữa các nghiệm thức cũng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- (2014), ương ấu trùng cua biển với các độ kiềm khác nhau thì tỷ lệ sống của cua đạt cao nhất 5,42%.
- Theo Trần Nọc Hải và Lê Quốc Việt (2017b), khi thay thế Artemia bằng thức ăn nhân tạo trong ương ấu trùng cua biển thì tỷ lệ sống đạt từ 2,5 – 7,8%.
- Tỷ lệ sống.
- trong ương ấu trùng cua biển của nghiên cứu này tương đối thấp hơn so với nghiên cứu trước đây, nguyên nhân có thể do trong thời gian triển khai thí nghiệm nhiệt độ có sự biến động lớn giữa ban ngày và đêm.
- nên trong môi trường nước xuất hiện nhóm Zoothamniium ký sinh trên trùng và điều này đã gây ảnh hưởng đến quá trình lột xác và tỷ lệ sống của ấu trùng.
- Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này đã đánh giá được số lần cho ấu trùng cua ăn (lần/ngày) không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống cuả ấu trùng.
- Kết quả nghiên cứu này tương đồng với nghiên cứu của Vutthichai and Norhasmariza (2016), ương ấu trùng ghẹ với số lần cho ăn khác nhau (2, 4 và 6 lần/ngày), tỷ lệ sống của ghẹ đạt và khác nhau không có ý nghĩa giữa các nghiệm thức có số lần cho ăn khác nhau..
- Hình 3: Tỷ lệ sống của ấu trùng cua theo từng giai đoạn.
- Zoae 1 - Zoae 4 Zoae 4 - Cua 1 Zoae 1 - Cua1 Giai đoạn ấu trùng.
- Cho ăn 4 lần/ngày.
- Cho ăn 6 lần/ngày Cho ăn 8 lần/ngày.
- Số lần cho ăn khác nhau không ảnh hưởng đến tăng trưởng về chiều dài và chỉ số biến thái của ấu trùng cua biển..
- Khi ương ấu trùng và cho ăn với số lần khác nhau (4, 6 và 8 lần/ngày) thì tỷ lệ sống của cua dao động từ 2,6-3,0% và khác biệt không ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Đánh giá khả năng thay thế Artemia Vĩnh Châu bằng Artemia Thái Lan trong ương ấu trùng cua biển (Sylla paramamasain).
- Phân tích khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm sú (Penaeus monodon) kết hợp với cua biển ở huyện Năm Căn Tỉnh Cà Mau.
- Ương ấu trùng cua biển (scylla.
- paramamosain) theo hai giai đoạn zoea1 - zoea5 và zoea5 - cua 1 với các mật độ khác nhau và chế độ cho ăn khác nhau - Tạp chí khoa học Trường Đại Học Cần Thơ.
- Thực nghiệm ương ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain) san thưa ở các giai đoạn khác nhau.
- Ðánh giá khả năng thay thế Artemia bằng thức ăn nhân tạo trong ương ấu trùng cua biển (Sylla.
- Hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của các trại sản xuất giống cua biển ở Đồng bằng Sông Cửu Long..
- Khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain) ở Đồng bằng sông Cửu Long..
- paramamosain) theo hai giai đoạn zoea1 - zoea5 và zoea5 – cua 1 với các mật độ khác nhau và chế độ cho ăn khác nhau - Tạp chí khoa học Trường Đại Học Cần Thơ