« Home « Kết quả tìm kiếm

Ảnh hưởng của sự suy giảm nguồn nước dưới đất đến sản xuất nông nghiệp tại vùng ven biển thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng


Tóm tắt Xem thử

- DOI:10.22144/ctu.jvn.2018.090 ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ SUY GIẢM NGUỒN NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN.
- SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI VÙNG VEN BIỂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG.
- Khai thác nước dưới đất, Nước dưới đất, suy giảm nước dưới đất, thị xã Vĩnh Châu Keywords:.
- Nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng sự suy giảm nguồn tài nguyên nước dưới đất đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp tại vùng ven biển thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn tài nguyên nước dưới đất tại Vĩnh Châu đang có dấu hiệu suy giảm, từ đó, gây ảnh hưởng đến việc khai thác và sử dụng nguồn nước đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, cụ thể gây khó khăn trong việc bơm nước tưới cho cây trồng như làm tăng thời gian bơm nước (làm tăng chi phí điện/xăng, dầu), nâng cấp thiết bị bơm (bằng cách mua thêm các thiết bị bơm nước mới).
- Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy rằng sự suy giảm nguồn nước dưới đất còn là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng về số lượng giếng khoan (khoan thêm giếng sâu hơn để đảm bảo đủ nguồn nước tưới cho hiện tại và tương lai) do giếng khoan trước đó áp lực nước bơm lên rất yếu hoặc bơm không lên nước.
- Kết quả của nghiên cứu có ý nghĩa rất lớn trong việc hỗ trợ ra quyết định trong công tác quy hoạch, quản lý và cấp phép khai thác của ngành đặc biệt là các tỉnh ven biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long..
- Ảnh hưởng của sự suy giảm nguồn nước dưới đất đến sản xuất nông nghiệp tại vùng ven biển thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
- Nước dưới đất (NDĐ) là một trong những tài nguyên thiên nhiên quan trọng của hầu hết các quốc gia trên thế giới đặc biệt là trong bối cảnh nguồn tài nguyên nước mặt đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề suy thoái cả về số lượng lẫn chất lượng và biến động theo thời gian (Nguyễn Ngọc Anh, 2010), trong khi chất lượng NDĐ thường có tính ổn định cao hơn và ít bị nhiễm bẩn hơn so với nước mặt (Zektser and Everett, 2004).
- Tại Việt Nam, đặc biệt là ở các vùng ven biển do tình trạng xâm nhập mặn ngày càng gia tăng, nguồn NDĐ được khai thác phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp (Huỳnh Vương Thu Minh và ctv., 2014).
- Kết quả của rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc khai thác quá mức nguồn NDĐ là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc suy giảm và sụt lún bề mặt đất (Dự án nghiên cứu Rise and Fall: Chiến lược thích ứng với sụt lún và đô thị hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam nhằm ứng phó với tình trạng xâm nhập mặn gia tăng.
- http://rf.ctu.edu.vn/) nhất là ở các vùng ven biển (Erban et al., 2014) và làm tăng chí phí khai thác nguồn tài nguyên này (Pavelic et al., 2015)..
- Thị xã Vĩnh Châu nằm ở khu vực ven biển của tỉnh Sóc Trăng (Hình 1), hoạt động sinh kế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản (Sở.
- Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng, 2010)..
- Nguồn nước cung cấp cho thị xã Vĩnh Châu (bao gồm sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và kinh doanh) chủ yếu là nước mưa và nước dưới đất (Đồng Thống Nhất, 2016), tuy vậy, ở Vĩnh Châu, nguồn NDĐ được khai thác cả trong mùa mưa và mùa khô (Sở Tài Nguyên và Môi Trường Sóc Trăng, 2010a).
- Số lượng và mật độ công trình khai thác NDĐ ở Vĩnh Châu là khá cao (lần lượt là 12.247 công trình và 26 giếng/km 2 ) (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng, 2010b).
- Tuy nhiên, dưới tác động của biến đổi khí hậu, nắng nóng, xâm nhập mặn và khô hạn kéo dài dẫn đến nhu cầu khai thác và sử dụng NDĐ ngày càng tăng..
- Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về NDĐ ở Sóc Trăng nói chung và ở Vĩnh Châu nói riêng nhưng hầu hết tất cả các nghiên cứu đều chỉ tập trung vào việc đánh giá công tác quản lý nguồn NDĐ tại địa phương mà chưa đi sâu vào việc đánh giá ảnh hưởng của sự suy giảm nguồn NDĐ đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
- sự suy giảm NDĐ này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến đời sống người dân địa phương.
- Chính vì vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng sự suy giảm nguồn tài nguyên NDĐ đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp tại vùng ven biển thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, từ đó làm cơ sở giúp nhà quản lý có các giải pháp quản lý phù hợp thích ứng trước trình trạng xâm nhập mặn gia tăng..
- Để tìm hiểu và nắm được thông tin tổng quan về nguồn tài nguyên nước dưới đất (TNNDĐ) cũng như hiện trạng, trữ lượng, chất lượng và các văn bản pháp lý đang được sử dụng để quản lý nguồn TNNDĐ tại vùng nghiên cứu, nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập số liệu thông qua hệ thống mạng điện tử (www.google.com.vn) được tìm kiếm với các từ khóa “Nước dưới đất”, “Hiện trạng khai thác nước dưới đất”, “Trữ lượng nước dưới đất”,.
- “Chất lượng NDĐ”, “Sóc Trăng” và “Vĩnh Châu”..
- sotnmt) và cổng thông tin điện tử thị xã Vĩnh Châu (www.soctrang.gov.vn/wps/portal/vinhchau)..
- Tài liệu hoàn chỉnh nhất (cho đến 06/2016) về kết quả thực hiện dự án “Quy hoạch khai thác sử dụng và bảo vệ TNNDĐ tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020” là căn cứ quan trọng thực hiện nghiên cứu (đây là tài liệu bao gồm nhiều thông tin tổng hợp và chính thống về TNNDĐ tại tỉnh Sóc Trăng) được cung cấp trực tiếp bởi Sở TN và MT tỉnh Sóc Trăng..
- Nghiên cứu tập trung trên 02 nhóm đối tượng chính: (i) Nước dưới đất (bao gồm trữ lượng và chất.
- cán bộ quản lý cấp tỉnh, huyện và xã và hộ gia đình với các câu hỏi được soạn sẵn với nhiều lựa chọn (cấu trúc) và câu hỏi mở (bán cấu trúc) nhằm thu thập các thông tin liên quan đến hiện trạng khai thác cũng như sử dụng nguồn NDĐ.
- các hoạt động có liên quan đến việc sử dụng nguồn NDĐ như: sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản ở địa phương..
- Số liệu thứ cấp (thông tin về hiện trạng trữ lượng, chất lượng NDĐ) được thu thập từ Sở TN và MT tỉnh Sóc Trăng, Phòng TN và MT thị xã Vĩnh Châu, Phòng Kinh tế thị xã Vĩnh Châu, Trung tâm Quan trắc và Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Sóc Trăng..
- Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc điều tra 100 hộ gia đình thường trú tại thị xã Vĩnh Châu..
- Công tác điều tra các hộ gia đình được thực hiện trên tất cả các đơn vị hành chính của thị xã (gồm 10 xã/phường).
- Đối tượng được chọn điều tra ngẫu nhiên, vùng lựa chọn phỏng vấn dựa vào kết quả khảo sát loại hình canh tác của địa phương khi thực hiện phỏng vấn cán bộ quản lý và dựa vào bản đồ sử dụng đất đai trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu năm 2013 (có cập nhật nhanh đến hiện trạng năm 2016 dựa vào kiến thức của cán bộ Phòng TN và MT thị xã Vĩnh Châu và khảo sát thực tế của nhóm nghiên cứu được thực hiện vào 04/2017).
- Trồng trọt Xã Vĩnh Hải 10.
- Xã Vĩnh Hiệp 10.
- Nuôi trồng thủy sản kết hợp trồng trọt Xã Vĩnh Tân 10.
- 3 KẾT QUẢ THẢO LUẬN.
- 3.1 Hiện trạng về nguồn tài nguyên NDĐ tại Vĩnh Châu.
- 3.1.1 Hiện trạng về khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên NDĐ.
- Do vị trí nằm sát biển Đông nên toàn bộ hệ thống kênh/rạch của thị xã Vĩnh Châu đều bị nhiễm mặn trong những tháng mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4 hàng năm).
- Theo kết quả phỏng vấn cán bộ địa phương, hiện tại, thị xã Vĩnh Châu có 2 cơ sở cấp nước tập trung: 01 thuộc Công ty Cấp nước công trình đô thị (có 2 trạm đặt tại thị xã) và 01 trạm thuộc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi Trường trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Sóc Trăng (gồm 10 trạm nhánh, trong đó, 01 trạm đặt tại thị xã, 09 trạm còn lại được phân bố đều ở mỗi xã/phường khác nhau).
- Các trạm này khai thác trực tiếp từ nguồn NDĐ (máy bơm được đặt tại vị trí trạm mỗi trạm) với tổng lưu lượng khai thác khoảng 6.000 m 3 /ngày - 7.000 m 3 /ngày.
- trong đời sống sinh hoạt của cộng đồng người dân tại Vĩnh Châu..
- Hiện trạng về trữ lượng và chất lượng nguồn tài nguyên nước dưới đất.
- Dựa kết quả phỏng vấn cán bộ chuyên trách và dựa trên cơ sở kết quả từ báo cáo quy hoạch khai thác sử dụng và bảo vệ TNNDĐ tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020 được cung cấp bởi Sở TN và MT tỉnh Sóc Trăng, nguồn NDĐ ở Vĩnh Châu được khai thác chủ yếu ở 3 tầng: Pleistocene dưới (qp 1 ) và Pleistocene giữa trên (qp 2-3 ) và một lượng rất ít ở tầng qh (lượng này rất nhỏ, không đáng kể).
- Tổng lưu lượng khai thác sử dụng nguồn NDĐ toàn tỉnh Sóc Trăng là 182.710m 3 /ngày, trong đó, lượng khai thác thấp nhất là thành phố Sóc Trăng 2.904,7 m 3 /ngày và cao nhất là thị xã Vĩnh Châu 36.489,6 m 3 /ngày.
- Mật độ khai thác sử dụng nguồn NDĐ của toàn tỉnh là 55,17 m 3 /ngày/km 2 , Vĩnh Châu là vùng có mật độ cao nhất 77,08 m 3 /ngày/km 2 (Hình 2).
- Mặt khác, theo kết quả phỏng vấn cấu trúc và bán cấu trúc cán bộ chuyên trách về quản lý và khai thác nguồn TNNDĐ (ở cấp tỉnh và cấp địa phương), nguồn TNNDĐ ở Vĩnh Châu đang có dấu hiệu suy giảm nghiêm trọng về trữ lượng, kết quả phỏng vấn này khá phù hợp với nhiều kết quả nghiên cứu về trữ lượng nước dưới đất tại Sóc Trăng mà cụ thể là thị xã Vĩnh Châu.
- hầu hết các ý kiến đều cho rằng, hiện nay, nhiều nơi trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu đã xảy ra tình trạng nhiều hộ gia đình không có nước sinh hoạt.
- Mặt khác, theo kết quả phỏng vấn hộ gia đình, 90% hộ cho rằng nguồn TNNDĐ tại địa phương đang suy giảm, 10% còn lại cho rằng là bình thường, trong số 90%, có 40% hộ cho rằng nguồn NDĐ đang suy giảm rất nhiều và 60% cho rằng suy giảm (không lượng hóa được lượng suy giảm là ít hay nhiều).
- của các hộ gia đình, kết quả khảo sát cho thấy độ sâu giếng khoan của các hộ gia đình đã tăng lên rất nhiều.
- Từ các vấn đề nêu trên có thể thấy rằng, nguồn TNNDĐ tại Vĩnh Châu đang có dấu hiệu suy giảm nghiêm trọng về trữ lượng và theo dự báo của các chuyên gia thì rất có thể người dân vùng thị xã Vĩnh Châu đang đứng trước nguy cơ thiếu nước ngọt sử dụng trong tương lai (Hình 3)..
- Hình 3: Đánh giá của người dân về mức độ suy giảm NDĐ tại Vĩnh Châu Về chất lượng.
- Ngoài việc được sử dụng cho các hoạt động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp và thủy sản, nguồn NDĐ ở Vĩnh Châu còn được dùng cho sinh hoạt hàng ngày của hộ gia đình như tắm giặt, rửa bát, vệ sinh nhà cửa.
- Kết quả khảo sát 100 hộ gia đình về chất lượng NDĐ được thể hiện ở Hình 4.
- Kết quả khảo sát này là phù hợp với kết quả trong “Báo cáo quy hoạch khai thác sử dụng và bảo vệ TNNDĐ tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020” của Sở TN và MT Sóc Trăng.
- Theo kết quả phân tích từ báo cáo, chất lượng nước ở tầng Pleistocene giữa trên (qp2-3) (tầng nước khai thác nhiều nhất ở Vĩnh Châu) nằm trong giới hạn cho phép trong Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt QCVN 02:2009/BYT ngày với pH = 7 - 8,5 hàm lượng sắt tổng Fe 2.
- Bên cạnh đó, các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực NDĐ đều cho rằng chất lượng NDĐ ở Vĩnh Châu còn khá tốt.
- chất lượng nước ở mức độ tương đối (hơi bị nhiễm phèn, mặn và có mùi vào mùa khô) nhưng vẫn sử dụng được.
- Nguyên nhân là do các giếng này đa số là đã được khoan lâu ngày, khai thác không hiệu quả nhưng không được trám, lắp đúng kỹ thuật.
- Hình 4: Đánh giá của người dân về chất lượng NDĐ tại thị xã Vĩnh Châu.
- 3.2 Ảnh hưởng của sự suy giảm nguồn nước dưới đất đến sản xuất nông nghiệp.
- Hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Châu chủ yếu là trồng lúa (nước mưa là nguồn nước chính,.
- Tuy vậy, nguồn NDĐ ở Vĩnh Châu vẫn được khai thác phục vụ sản xuất nông nghiệp cho cả mùa mưa.
- Do vậy, áp lực khai thác nguồn NDĐ để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Châu là rất lớn (nhất cây hành tím).
- Kết phỏng vấn các hộ gia đình về nhu cầu sử dụng nguồn nước tưới cho cây màu (nghiên cứu chỉ xét cho cây hành tím) trung bình là 2 lần tưới/ngày (thường được tưới vào buổi sáng và buổi chiều).
- Công suất máy bơm sử dụng là 5 m 3 /giờ.
- Kết quả tính toán lượng NDĐ được khai thác để tưới cho cây hành khoảng 1.000.000 m 3 /ngày.
- Điều đó cho thấy, nguồn NDĐ ở Vĩnh Châu đang chịu áp lực khai thác rất lớn..
- Sự suy giảm nguồn NDĐ sẽ gây ảnh hưởng rất lớn việc đảm bảo nguồn nước tưới cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân địa phương.
- Kết quả khảo sát hộ gia đình về các ảnh hưởngcủa sự suy giảm này đến các hoạt động sản xuất (trồng màu) cho thấy biểu hiện đầu tiên của sự suy giảm mực nước dưới đất là làm giảm áp lực nước, lượng nước.
- đầu ra tại các giếng khoan rất yếu, kéo theo một chuỗi ảnh hưởng các hoạt động có liên quan đến việc sử dụng nguồn NDĐ như: (i) thiếu nước tưới cho cây trồng, làm cây bị héo hoặc chết ở giai đoạn sinh trưởng.
- Theo kết quả khảo sát, năng suất thu hoạch vụ mùa của các hộ gia đình (trong những năm gần đây) giảm trung bình từ ¼ đến ½ so với năng suất thu hoạch các vụ trước đó.
- Kết quả khảo sát cho thấy rằng hầu hết các hộ gia đình đều đã đầu tư mua thêm thiết bị hỗ trợ khai thác nước “ống tiêm [1] ”cùng với hình thức “bơm chuyền [2.
- Hình 5: Ảnh hưởng của sự suy giảm nguồn TNNDĐ Sự suy giảm nguồn NDĐ còn là nguyên nhân.
- Kết quả phỏng vấn cấu trúc và bán cấu trúc với các.
- hộ gia đình cho thấy rằng đa số người dân Vĩnh Châu đều có xu hướng sẽ khoan thêm giếng sâu hơn để khai thác sao cho đảm bảo nguồn nước tưới cho.
- Kết quả khảo sát cho thấy, có 83% hộ dân chọn biện pháp sẽ khoan thêm giếng, 11% hộ giữ nguyên hình thức cũ, 6% hộ dân chọn phương án ngừng sử dụng giếng khoan và.
- chuyển sang sử dụng nguồn nước cấp (cả cho sinh hoạt và trồng trọt) (Hình 6), trường hợp này, khi kiểm tra lại kết quả khảo sát, phần lớn các hộ có diện tích đất trồng trọt rất ít (khoảng 1.000 m 2 - 2.000 m 2.
- phỏng vấn cán bộ quản lý về công tác cấp phép khoan giếng ở địa phương, cán bộ đã chia sẻ rằng, mặc dù chính quyền thị xã Vĩnh Châu rất quan tâm đến vấn đề này, Ủy ban Nhân dân thị xã Vĩnh Châu đã chỉ đạo và phối hợp với các đơn vị quản lý tổ chức các buổi họp dân để truyên truyền cho cả người dân và các cá nhân hành nghề khoan giếng hiểu về tầm quan trọng của việc sự dụng tiết kiệm, hợp lý nguồn NDĐ, đặc biệt là trong bối cảnh xâm nhập mặn gia tăng cũng như tuyên truyền về các quy định trong cấp phép khai thác và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tài nguyên Nước (theo Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 3/4/2017) nhưng vẫn còn một số cá nhân đặc biệt là chủ giàn khoan (cá nhân hành nghề khoan NDĐ) mà theo từ địa phương gọi là “khoan lén”, khoan không khai báo, chính vì vậy mà gây khó khăn trong công tác quản lý của phương..
- Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy rằng, sự suy giảm nguồn NDĐ sẽ làm thay đổi cơ cấu mùa vụ cây trồng (lịch thời vụ), làm tăng nguy cơ chuyển đổi diện tích đất canh tác (giảm diện tích đất trồng trọt), từ đó làm thay đổi về nhóm sử dụng đất tại địa phương.
- 3.3 Ảnh hưởng sự suy giảm nước dưới đất đến nuôi trồng thủy sản.
- Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại vùng nghiên cứu chủ yếu là nuôi tôm sú hoặc tôm thẻ, đa phần người dân sử dụng nước sông/kênh/rạch (nước mặn/lợ) phục vụ cho việc canh tác này.
- Thông thường, các hộ sử dụng loại máy bơm với ống bơm ϕ 60, công suất máy bơm 1,5 - 2 HP, tương.
- Cụ thể, với ao nuôi có diện tích 1.000 m 2 , mỗi lần bổ sung nước cần trung bình 30 m 3 nước (khoảng 2 ngày sẽ thêm nước 1 lần), lượng nước mỗi lần bổ sung tương đương với 30 ngày sử dụng nước của 1 hộ gia đình..
- Bên cạnh việc pha thêm NDĐ để làm giảm nồng độ mặn trong ao, thông qua nguồn tin được cung cấp từ người dân địa phương cho biết rằng mô hình nuôi cá nước ngọt (cá lóc, cá chạch, thác lác) đang phát triển khá mạnh và nguồn nước ngọt được sử dụng cho loại hình nuôi trồng thủy sản này cũng được khai thác từ nguồn NDĐ.
- Dựa vào kết quả phỏng vấn và thống kê từ cán bộ thuộc Phòng TN và MT thị xã Vĩnh Châu (tính đến thời điểm hoàn thành báo cáo cuối năm 2016), toàn thị xã có 144 ao nuôi cá nước ngọt, rải rác ở các phường/xã: Phường 1, Vĩnh Phước, Khánh Hòa, xã Vĩnh Tân, xã Hòa Đông, xã Vĩnh Hiệp, xã Vĩnh Hải, trong đó, tập trung nhiều nhất ở xã Hòa Đông với 60 ao nuôi.
- Cũng theo đánh giá của cán bộ, hình thức khai thác NDĐ này có nguy cơ gây cạn kiệt TNNDĐ.
- Kết quả khảo sát người dân sống gần khu vực có các ao nuôi cá nước ngọt (của nhóm nghiên cứu) và các ao tôm nước lợ cho thấy vào thời điểm các ao nuôi tiến hành thay nước (hoặc ngay cả khi bổ sung nước vào ao) bằng các máy bơm có công suất lớn hoạt động (đường kính ống khoan từ ϕ 114 - ϕ 140), giếng khoan của hộ dân ở vùng lân cận (trong bán kính từ 1 - 2 km) bị thiếu nước, có nghĩa là lượng nước bơm lên rất ít hoặc có giếng bơm không lên nước.
- Lượng nước cho một ao nuôi cá lóc nước ngọt theo hình thức công nghiệp có diện tích ao nuôi 1.000 m 2 cần trong ao là 2.000 m 3 , tương đương với lượng nước sử dụng cho một hộ gia đình trong 200 ngày.
- đặc biệt nước trong ao nuôi cá công nghiệp bị ô nhiễm rất nhanh, trung bình mỗi tháng sẽ có 2 đợt thay nước, nếu nuôi trong vòng 5 tháng (chu kỳ nuôi cá khoảng 5 tháng) sẽ có 10 lần thay nước, do đó lượng nước sử dụng có thể lên đến 20.000 m 3 .
- Nguồn TNNDĐ tại thị xã Vĩnh Châu đang có dấu hiệu suy giảm về trữ lượng đặc biệt là vào mùa khô.
- Sự suy giảm này đã gây ra các khó khăn và ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân địa phương.
- Chất lượng nước dưới đất vẫn còn khá tốt có thể đáp ứng được mục đích sinh hoạt..
- Báo cáo tham luận Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng.
- Hiện trạng khai thác, sử dụng nước dưới đất ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng, 2010a..
- Báo cáo công tác điều tra hiện trạng Nước dưới đất.
- Dự án: Quy hoạch Khai thác, Sử dụng và Bảo vệ Tài nguyên Nước dưới đất tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020..
- Sở Tài nguyên và Môi Trường tỉnh Sóc Trăng, 2010b.
- Quản lý Tài nguyên nước và các lưu vực tỉnh Sóc Trăng.
- Chuyên đề 43: "Hiện trạng khai thác và quản lý Nước Dưới Đất tỉnh Sóc Trăng".