« Home « Kết quả tìm kiếm

ẢNH HƯỞNG CỦA TẢO CHAETOCEROS VÀ NANNOCHLOROPSIS LẮNG ĐẾN TỶ LỆ SỐNG VÀ SINH TRƯỞNG CỦA NGHÊU (MERETRIX LYRATA)


Tóm tắt Xem thử

- ẢNH HƯỞNG CỦA TẢO CHAETOCEROS VÀ NANNOCHLOROPSIS LẮNG ĐẾN TỶ LỆ SỐNG VÀ SINH TRƯỞNG CỦA NGHÊU (MERETRIX LYRATA) Ngô Thị Thu Thảo 1 và Lý Bích Thủy 1.
- Tảo lắng, sinh trưởng, tỷ lệ sống, nghêu Meretrix lyrata Keywords:.
- Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần là: (1) Tảo ly tâm, (2) Tảo ly tâm + CPSH + glucose, (3) Tảo lắng, (4) Tảo lắng + CPSH + glucose.
- Tốc độ tăng trưởng khối lượng của nghêu đạt cao nhất khi cho ăn tảo ly tâm (1,02±0,18.
- tiếp theo là tảo ly tâm có bổ sung CPSH và glucose (0,89±0,1.
- thấp nhất khi cho ăn tảo lắng (0,63±0,25.
- Tỉ lệ sống của nghêu đạt cao nhất khi cho ăn tảo ly tâm và thấp nhất khi cho ăn tảo lắng (6,33±4,51.
- Mặc dù nghêu cho ăn tảo lắng bổ sung CPSH và glucose đạt tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng khối lượng thấp nhưng có thể là cơ sở bước đầu cho việc nghiên cứu cải thiện và phát triển các khẩu phần tảo trong sản xuất giống động vật thân mềm hai vỏ..
- Hiện nay trên thế giới có trên 40 loài tảo khác nhau đã được phân lập và gây nuôi, nhiều loài tảo được sử dụng trong sản xuất giống và ương ấu trùng động vật hai mảnh vỏ như Chaetoceros gracilis, Tetraselmis suecica, Isochrysis galbana, Nannochloropsis sp (Sorgeloos and Lavens,.
- Ở Việt Nam trong sản xuất giống và ương nuôi các đối tượng động vật thân mềm thì tảo tươi thường được sử dụng làm thức ăn (Nguyễn Đình Hùng et al., 2004.
- Tảo lắng bằng Al 2 (SO 4 ) 3.
- đã được sử dụng để nuôi cá chép từ những năm 1970 (Sanbank &.
- Hiệu suất lắng tảo biển đạt cao khi sử dụng FeCl 3 (Sukenik et al., 1988).
- Phèn nhôm và vôi có thể sử dụng để cô đặc tảo Chaetoceros calcitrans, Skeletonema costatum và Tetraselmis chuii (Millamena et al., 1990).
- Gần đây, Knuckey et al (2006) cho Hàu (Crassostrea gigas) ăn tảo Chaetoceros muelleri lắng bằng NaOH kết hợp với Magnafloc LT25 liều lượng 0,5 mg/L đạt tốc độ tăng trưởng gần 600% sau 25 ngày nuôi.
- Mặc dù cho ăn tảo lắng, hàu sinh trưởng thấp hơn so với cho ăn tảo Chaetoceros muelleri tươi nhưng cũng cho thấy triển vọng của việc sử dụng tảo lắng để ương nuôi ấu trùng hoặc con giống động vật thân mềm ăn lọc.
- Việc lựa chọn phương pháp lắng tảo phù hợp và khả năng sử dụng tảo sau khi lắng trên các đối tượng thân mềm 2 mảnh vỏ ăn lọc là cần thiết đối với thực tế sản xuất giống hiện nay..
- Thức ăn sử dụng cho thí nghiệm này là tảo Chaetoceros sp và Nannochloropsis oculata.
- Nghêu được cho ăn 1 lần/ngày với khẩu phần kết hợp hai loài tảo theo tỷ lệ 1:1 về số tế bào và duy trì mật độ cho ăn từ 5000-7000 tế bào/ml..
- Thí nghiệm được thực hiện trong 90 ngày, gồm 4 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần là: 1).
- Tảo ly tâm.
- Tảo ly tâm bổ sung chế phẩm sinh học và glucose.
- Tảo lắng;.
- Tảo lắng bổ sung chế phẩm sinh học và glucose.
- Glucose sử dụng trong thí nghiệm là dạng công nghiệp, tan hoàn toàn trong nước..
- Nghêu được nuôi trong môi trường ngập nước liên tục, bể nuôi có gắn sục khí bình thường và sục khí kéo nước để duy trì sự xáo trộn tảo trong bể giúp cho tảo không bị chìm xuống đáy và quá trình lọc của nghêu đạt hiệu quả hơn.
- Độ mặn được duy trì ở 20‰ trong quá trình thí nghiệm và nước trong bể nuôi được định kỳ thay mới hàng tuần..
- 2.2 Tỷ lệ sống.
- Tỷ lệ sống của nghêu được xác định sau mỗi 2 tuần thí nghiệm:.
- Tỷ lệ sống.
- Tốc độ tăng trưởng khối lượng tương đối (%/ngày) được xác định theo công thức:.
- W 2 là khối lượng cuối (g).
- Số lượng 3 con nghêu được thu ở tất cả các bể nuôi của từng nghiệm thức lúc bắt đầu và kết thúc thí nghiệm để xác định chỉ số độ béo theo công thức:.
- L là chiều dài của nghêu (mm)..
- Sử dụng chương trình SPSS 11.5 với phân tích ANOVA một nhân tố để so sánh độ sai biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức ở mức p<0,05..
- T rong quá trình thí nghiệm nhiệt độ trung bình giữa các nghiệm thức tương đối ổn định, biến động nhiệt độ giữa sáng và chiều khoảng 2 o C (Hình 1).
- Ngưỡng nhiệt độ của nghêu là 15-32 o C, khoảng nhiệt độ thích hợp là 25-30 o C (Nguyễn Đình Hùng và ctv., 2004)..
- Hình 1: Biến động nhiệt độ ( o C) trong quá trình thí nghiệm.
- pH giữa các nghiệm thức tương đối ổn định, giá trị pH cao nhất là 8,5 ở tất cả các nghiệm thức và thấp nhất là 7,2 ở nghiệm thức cho ăn tảo lắng đơn thuần.
- Giá trị pH cao ở tất cả các nghiệm thức vào ngày 1 và 77 do thay đổi nguồn nước ót sử dụng cho thí nghiệm..
- B iến động độ kiềm giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt và trung bình từ 78-78,6 mg CaCO 3 /L.
- Ở tất cả các nghiệm thức độ kiềm đều biến động có tính chu kỳ sau mỗi 7 ngày, đây.
- là kết quả của việc định kỳ thay nước mới cho các bể thí nghiệm (Hình 2)..
- Hình 2: Biến động độ kiềm trong quá trình thí nghiệm.
- Hàm lượng TAN ở nghiệm thức 1 và 3 tương đương nhau (0,38 mg/L) và cao hơn những nghiệm thức có bổ sung chế phẩm sinh học và glucose mg/L).
- Hàm lượng TAN trong các nghiệm thức dao động trong giới hạn cho phép và sự chênh lệch giữa các nghiệm thức không đáng kể (Hình 3)..
- Hình 3: Biến động TAN (mg/L) trong quá trình thí nghiệm.
- Trung bình hàm lượng NO 2 - đạt giá trị cao nhất khi cho ăn tảo ly tâm mg/L) và thấp nhất khi cho ăn tảo lắng + CPSH + glucose mg/L).
- Kết quả cho thấy khi sử dụng Al 2 (SO 4 ) 3 và FeCl 3 để lắng tảo và sử dụng làm thức cho nghêu đã làm giảm đáng kể hàm lượng đạm NO 2 - trong môi trường nuôi (Hình 4).
- Từ ngày 49 đến khi kết thúc thí nghiệm, hàm lượng NO 2 - luôn duy trì cao hơn ở các nghiệm thức cho ăn tảo ly tâm so với các nghiệm thức cho ăn tảo lắng.
- Điều này có thể do tỷ lệ sống của nghêu cho ăn tảo ly tâm cao hơn, hoặc cũng có thể do nghêu.
- đã tiêu hóa tảo ly tâm hiệu quả hơn và sản phẩm bài tiết của nghêu đã góp phần làm tăng hàm lượng NO 2 - trong các bể thí nghiệm..
- Trung bình các yếu tố thủy hóa trong các nghiệm thức không khác biệt nhau (Bảng 1) ngoại trừ hàm lượng NO 2 - trong các nghiệm thức sử dụng tảo lắng làm thức ăn cho nghêu đều thấp hơn so với các nghiệm thức sử dụng tảo ly tâm (p<0,05).
- Hàm lượng TAN ở các nghiệm thức bổ sung glucose và CPSH thấp hơn nhưng không khác biệt so với các nghiệm thức sử dụng tảo đơn.
- Hình 4: Biến động NO 2 - (mg/L) trong quá trình thí nghiệm.
- 3.2 Tỉ lệ sống của nghêu.
- Sau 90 ngày nuôi tỷ lệ sống của nghêu đạt thấp (Bảng 2), tỷ lệ sống cao nhất khi cho ăn tảo ly tâm và thấp nhất khi cho ăn tảo lắng (6,33±4,51.
- Từ ngày 28 trở về cuối thí nghiệm tỷ lệ sống của nghêu cho ăn tảo ly tâm duy trì cao hơn và khác biệt có ý nghĩa so với 2 nghiệm thức cho ăn tảo lắng (p<0,05)..
- Kết quả tỷ lệ sống của nghêu thấp hơn rất nhiều so với nghiên cứu của Ngô Thị Thu Thảo và ctv.
- (2012), khi cho nghêu ăn tảo Chlorella tươi có bổ sung CPSH, sau 90 ngày nuôi số nghêu còn sống là 98,3%.
- C ác tế bào tảo sau khi lắng thường dính lại với nhau thành chùm và chìm xuống đáy do đó hiệu quả lọc tảo của nghêu không cao.
- Buelna et al., (1990) nhận định các chất lắng tảo như phèn nhôm và FeCl 3 có thể gây độc đối với động vật thủy sản khi ăn tảo lắng bằng các loại hóa chất này.
- Thêm vào đó, nghêu có tập tính sống vùi trong nền đáy, tỷ lệ tiêu hóa và hiệu quả đồng hóa thức ăn của nghêu trong cát hay bùn cao hơn so với các nền đáy khác.
- Trong thí nghiệm này nghêu được nuôi trong điều kiện không có nền đáy do đó có thể quá trình hỗ trợ tiết enzyme tiêu hóa thức ăn và hấp thu dinh dưỡng bị hạn chế.
- Đây cũng có thể là một trong những nguyên nhân làm tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của nghêu đạt thấp ở tất cả các nghiệm thức..
- Bảng 2: Tỉ lệ sống của nghêu.
- 3.3 Khối lượng và tốc độ tăng tưởng khối lượng của nghêu.
- Khối lượng nghêu cho ăn tảo ly tâm đạt khối.
- nghiệm thức cho ăn tảo lắng (0,11 đến 0,12g)..
- Khối lượng trung bình của nghêu khi cho ăn tảo ly tâm vượt trội hơn so với cho ăn bằng tảo lắng bắt đầu từ ngày 35 đến khi kết thúc thí nghiệm..
- Tốc độ tăng trưởng về khối lượng của nghêu đạt cao hơn khi cho ăn bằng tảo ly tâm nhưng không khác biệt (p>0,05) so với khi cho ăn bằng tảo lắng (Bảng 3).
- Tốc độ tăng trưởng khối lượng của nghêu đạt cao nhất ở nghiệm thức tảo ly tâm (1,02 %/ngày) và thấp nhất ở nghiệm thức tảo.
- Hình 5: Khối lượng của nghêu trong quá trình thí nghiệm (g).
- Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng khối lượng tương đối (%/ngày) của nghêu.
- 3.4 Chiều dài và tốc độ tăng trưởng chiều dài của nghêu.
- Chiều dài của nghêu khi cho ăn tảo ly tâm (8,32 mm), tảo ly tâm bổ sung CPSH và glucose (8,03 mm) cao hơn so với cho ăn tảo lắng (7,36 mm và 7,71 mm).
- Trung bình chiều dài của nghêu cho ăn tảo lắng có bổ sung CPSH và glucose cao hơn tảo lắng đơn thuần nhưng vẫn thấp hơn cho ăn tảo ly tâm (Hình 6)..
- Tốc độ tăng trưởng chiều dài của nghêu cao nhất ở nghiệm thức cho ăn tảo ly tâm (0,38%/ngày) và thấp nhất khi cho ăn tảo lắng (0,25%/ngày).
- Tốc độ tăng trưởng chiều dài của nghêu ở tất cả các nghiệm thức tăng nhanh vào 28 ngày đầu thí nghiệm sau đó giảm dần (Bảng 4)..
- Hình 6: Chiều dài của nghêu trong quá trình thí nghiệm (mm).
- Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng chiều dài tương đối (%/ngày) của nghêu.
- 3.5 Chỉ số độ béo của nghêu.
- Chỉ số độ béo của nghêu ở các nghiệm thức sử dụng tảo ly tâm cao hơn so với các nghiệm thức sử dụng tảo lắng (p<0,05).
- Chỉ số độ béo cao nhất khi cho ăn tảo ly tâm có bổ sung CPSH và.
- glucose và thấp nhất khi cho ăn tảo lắng (0,66±0,03.
- Tuy có bổ sung thêm glucose và chế phẩm sinh học nhưng độ béo của nghêu chưa được cải thiện đáng kể (Bảng 5)..
- của nghêu lúc ban đầu và sau 90 ngày thí nghiệm.
- Chiều dài (mm .
- Chiều dài (mm a a a a.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng hóa chất lắng tảo và khẩu phần tảo lắng sử dụng trong các trại ương cần được cải thiện hơn nữa hoặc thử nghiệm nhiều phương pháp lắng khác nhau nhằm nâng cao tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của nghêu giống.
- Các loại hóa chất có chứa các nguyên tố ít gây độc đối với hoạt động trao đổi chất của động vật thân mềm 2 mảnh vỏ cần được thử nghiệm, đồng thời tỷ lệ thay thế tảo lắng trong khẩu phần của nghêu giống cũng cần được nghiên cứu nhằm nâng cao giá trị sử dụng trong thực tiễn..
- Các yếu tố nhiệt độ, pH, độ kiềm, TAN của thí nghiệm ít biến động và nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của nghêu.
- Riêng hàm lượng NO 2 - ở các nghiệm thức tảo lắng đạt thấp hơn các nghiệm thức tảo ly tâm (p<0,05)..
- Sau 90 ngày thí nghiệm, tỉ lệ sống của nghêu cho ăn tảo ly tâm .
- tảo ly tâm bổ sung chế phẩm sinh học và glucose (21,33.
- 4,93%) khác biệt có ý nghĩa so với cho ăn tảo lắng hoặc tảo lắng bổ sung chế phẩm sinh học và glucose .
- Các chỉ tiêu về tăng trưởng và chỉ số độ béo của ngêu ở nghiệm thức cho ăn tảo li tâm cao hơn so với cho ăn tảo lắng..
- Cần nghiên cứu thêm về các loại hóa chất sử dụng và qui trình lắng tảo nhằm ổn định hàm lượng dinh dưỡng, hạn chế khả năng tảo chìm xuống đáy để nghêu có thể lọc và hấp thu được tốt hơn..
- Nghiên cứu thay thế tảo lắng với các tỷ lệ nhất định trong khẩu phần ăn của động vật thân mềm ăn lọc..
- Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm sinh học đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của nghêu (Meretrix lyrata) giai đoạn giống