« Home « Kết quả tìm kiếm

ẤP THỦ TRUNG, HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX


Tóm tắt Xem thử

- ẤP THỦ TRUNG, HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX.
- Đào Tố Uyên * Ấp Thủ Trung là một trong những ấp được thành lập vào năm 1829 cùng với 60 lý, ấp, trại giáp khác để hình thành nên huyện Kim Sơn do Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đứng ra tổ chức và thực hiện.
- Ấp Thủ Trung xưa kia thuộc tổng Hướng Đạo, phủ Yên Khánh, trấn Ninh Bình 1 , nay là thôn Thủ Trung, xã Kim Chính, huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.
- Trước khi đến đây khai khẩn, đất Thủ Trung nói riêng và huyện Kim Sơn nói chung còn là vùng bãi biển ven bồi rộng bát ngát..
- Mặc dầu vậy, có dân là có làng, 9 ngàn mẫu dư mà Nguyễn Công Trứ thấy có thể khai khẩn được chẳng bao lâu đã trở thành một huyện, trong đó có ấp Thủ Trung..
- Quá trình khẩn hoang thành lập ấp Thủ Trung.
- Ngoài hạn ấy thì làm lấy mà ăn, ba năm thành ruộng đều chiếu lệ tư điền mà đánh thuế” 4.
- Sau khi sớ tâu của Nguyễn Công Trứ được vua Minh Mạng phê chuẩn, nhiều người đứng ra chiêu dân lập ấp để phá thảo khai hoang.
- Theo tài liệu địa phương thì hai người đứng ra chiêu dân khai hoang lập ấp Thủ Trung là Dương Công Nhuận và Vũ Quốc Khuê quê ở Đông Tĩnh và xã Hà Dương huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Nam Định 5 .
- Trong Thủ Trung ký lục do cụ Dương Công Nhuận viết vào năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) có ghi lại: “Khi được Nhà nước chuẩn y, cụ Nguyễn Công Trứ cùng với quan tuần phủ Lê Văn Túc phối hợp tiến hành.
- ngày 29 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 10 về xã Thổ Mặt (Yên Khánh) lĩnh giấy tờ, đồ bản (đã xem thực địa).
- Từ đó đặt tên làng là ấp Thủ Trung” 6 .
- Vừa thời Minh Mệnh thập niên Hai cứng cử dân lên một tờ Mười phần xin mộ số ba.
- Dựng lên một ấp tên là Thủ Trung” 8.
- Ngày mồng 1 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 10 bắt đầu động thổ khởi công.
- Đến đầu tháng 11 năm ấy hai cụ Dương Công Nhuận và Vũ Quốc Khuê đứng ra khai số đinh đã mộ được và số ruộng đất đã khai khẩn được để xin Nhà nước cấp trâu bò, cày bừa.
- Theo cuốn Thủ Trung ký lục thì từ năm Kỷ Sửu (Minh Mệnh thứ 10) đến năm Giáp Ngọ (Minh Mệnh thứ 15), ấp Thủ Trung có tất cả 57 đinh từ các nơi khác đến.
- Sau khi lập ấp, năm Minh Mệnh thứ dân ấp làm lễ tế cáo thần, chọn đất, định hướng phân châm.
- Cuối tháng Chạp, ngôi miếu của ấp hoàn thành.
- Chân nhang thành hoàng từ miếu Đông Tĩnh được rước về miếu Thủ Trung để tế tự 10 .
- Miếu làm xong, ấp Thủ Trung cũng được chia thành 4 giáp: Đông Thanh, Tây Binh, Nam An và Bắc Định để bốn mùa hưởng tế.
- Đứng đầu là Ấp trưởng Dương Công Nhuận, bên cạnh đó còn có viên Dịch mục do cụ Vũ Quốc Khuê đảm nhận.
- Bản hương ước của ấp Thủ Trung gồm 212 điều với 17 đại mục đã nêu lên một cách đầy đủ, hệ thống và chặt chẽ những quy định bắt buộc mọi người phải thực hiện.
- Như vậy về cơ bản, tổ chức làng xã ở cựu quán lại được tái lập trên đất Thủ Trung và dần dần được bổ sung như một làng xã cổ truyền một cách hoàn chỉnh..
- Tình hình ruộng đất ở ấp Thủ Trung từ sau khi lập ấp cho đến giữa thế kỷ XIX.
- Qua những tư liệu văn tự ở địa phương giúp chúng ta hiểu được phần nào kết quả của công cuộc khẩn hoang cũng như tình hình phân phối ruộng đất ở đây sau khai hoang.
- Theo tờ khai của Ấp trưởng Dương Công Nhuận và Dịch mục Vũ Quốc Khuê thì đến tháng 11 năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) ấp Thủ Trung thuộc tổng Hướng Đạo huyện Kim Sơn phủ Yên Khánh có 31 đinh.
- Còn về ruộng đất, theo cuốn Công tư điền thổ thuế ngạch viết năm Minh Mệnh thứ 15 thì toàn bộ ruộng đất của ấp Thủ Trung lúc đó có 360 mẫu, phù sa thành ruộng 2 mẫu.
- Trong đó tư điền là 250 mẫu, được phân hạng như sau:.
- Trong 250 mẫu ruộng đất đã cày cấy được trừ 28 mẫu 9 sào là các loại ruộng làng quản lí..
- Phần ruộng đất còn lại được chia theo chế độ “Tư điền quân cấp” 13 mà trong sổ sách gọi là tư điền 14 .
- Bình quân cho một đinh của ấp Thủ Trung khoảng trên 7 mẫu.
- So với mức bình quân của toàn huyện Kim Sơn lúc đó (10 mẫu/1đinh), ấp Trì Chính 10 mẫu/1 đinh, các ấp, trại của tổng Chất Thành khoảng 6 - 7 mẫu/1đinh thì ở Thủ Trung thuộc mức trung bình.
- Theo chế độ chung, ruộng đất này được hưởng hết một đời.
- Sau này nếu người được chia ruộng chết, nếu không có con trai hoặc có con trai nhưng chưa đến tuổi thành đinh thì ruộng đất đó phải trả lại cho làng.
- Ở Thủ Trung ruộng mới khai hoang sau 5 năm mới phải nộp thuế và lệ thuế năm đầu tiên là:.
- Như vậy số thóc và tiền phải nộp hết sức nhẹ, đấy là một ưu ái của Nhà nước đối với người khai hoang..
- Từ năm Tự Đức nguyên niên (1848) Nhà nước ban hành chế độ ruộng đất mới ở Kim Sơn: Ruộng đất cấp cho dân đinh chia thành 2 loại: Một nửa là tư điền thế nghiệp và một nửa là tư điền quân cấp.
- Theo cuốn Sơ đồ cấp ruộng tư của ấp Thủ Trung năm Tự Đức thứ 6 thì số người có tên trong sổ là 69 người với số ruộng đất được cấp theo thứ bậc khác nhau 16 .
- Chiêu mộ Dương Công Nhuận: 2 mẫu 5 sào (thổ cư), 8 mẫu 3 sào (ruộng tư)..
- Chiêu mộ Vũ Quốc Khuê: 2 mẫu 5 sào (thổ cư), 7 mẫu ruộng tư..
- Số ruộng đất tư điền thế nghiệp cho các chiêu, nguyên thứ mộ như vậy là tương.
- Từ khi có chính sách mới của Nhà nước đối với chế độ sở hữu ruộng đất ở Kim Sơn, ở ấp Thủ Trung cũng xuất hiện “Biểu điền” tức ruộng biếu cho các chiêu, nguyên, thứ mộ.
- Tờ Biểu từ của dân ấp Thủ Trung hội họp ngày 12 tháng 4 năm Tự Đức thứ 6 17 có ghi rõ: Dân ấp thuận tình dành ra một khu tư thổ tại xứ ngoại đê, Bắc giáp sông Ân, Nam giáp tư điền, Đông giáp Đồng Đắc, Tây giáp Kiến Thái.
- Phần biếu ông nguyên mộ Ấp trưởng Dương Công Nhuận là 5 mẫu, ông Quản mộ Vũ Quốc Khuê 4 mẫu, ông nguyên mộ Dương Hoạch 2 mẫu 5 sào, ông Trần Thuỳ 2 mẫu 5 sào..
- Chiếu theo đó nhận làm ruộng quản nghiệp, để biểu dương công lao của tiền nhân lại truyền cho con cháu mãi mãi về sau.
- Như vậy loại ruộng biếu thực chất là ruộng thế nghiệp và do đó tỷ lệ ruộng tư điền thế nghiệp so với tư điền quân cấp chắc chắn là cao hơn..
- Tình hình phân phối ruộng đất ở ấp Thủ Trung theo quy định của Nhà nước vào năm 1852 còn được duy trì một thời gian tương đối lâu ở nửa sau thế kỷ XIX..
- Đất ở, vườn ao ở Thủ Trung chiếm một tỷ lệ lớn so với đất mạ và đất công khác.
- Trên sổ sách mỗi chiêu mộ ở Thủ Trung được 2 mẫu 5 sào đất ở nhưng khi đi khảo sát trên thực địa, chúng tôi thấy mỗi chiêu mộ ở một giong (1 giong có 1 chiều = 2 đạc = 120 m và một chiều 4,5 đạc = 270 m, diện tích = 32400 m 2 tương đương với 9 mẫu Bắc Bộ).
- Thổ cư thường đặt ở chỗ đất cao, cùng với tư điền thế nghiệp được phân bố ở Bắc sông Ân, là nơi được khai thác trước nên cày cấy có phần thuận lợi, năng suất cao mà thuế lại nhẹ nên quyền lợi của người khai hoang được đảm bảo..
- Quy hoạch làng ấp sau khai hoang.
- Đất Kim Sơn nói chung và đất Thủ Trung nói riêng là đất bồi ven biển nên khi nước triều xuống là ruộng, khi nước triều lên bị ngập tràn.
- Nằm trong quy hoạch chung của huyện, ở hai phía Đông và Tây của ấp Thủ Trung giáp với ấp Kiến Thái và ấp Đồng Đắc là hai con mương chảy từ Bắc xuống Nam theo chiều dài của ấp.
- Sau đây là bản phác hoạ quy hoạch của ấp Thủ Trung..
- Công điền Tư điền.
- Ru ộng thần từ Th ổ ở, vườn ao Khu tư điền Tư thổ trồng dâu.
- Khu tư điền được bố trí ở gần khu dân cư, thuận tiện cho việc cày cấy.
- Cư dân trong ấp được bố trí theo chiều ngang của ấp thành những giong được xem là các xóm.
- Mỗi giong có một chiều là 4,5 đạc theo chiều ngang của ấp và một chiều là 2 đạc.
- Cách bố trí làng ấp sau khai hoang là sự thể hiện một cách nhìn khoa học và tài tình của Nguyễn Công Trứ..
- Sau khi ấp Thủ Trung thành lập, đời sống văn hoá, tôn giáo và tín ngưỡng của nhân dân cũng được tái lập trên vùng đất mới..
- Cư dân đến khai hoang lập ấp đầu tiên đều là những người cùng quê, cho nên chỉ 5 năm sau, khi làng đã ổn định thì đền thờ thành hoàng của làng cũng được dựng lên.
- Bên cạnh việc thờ thành hoàng, sau khi các chiêu mộ mất dân ấp Thủ Trung còn phối thờ hai cụ chiêu mộ trong miếu của làng.
- Điều này thể hiện lòng tôn kính đối với những người đã có công đầu trong khai hoang lập làng mới.
- Ngoài việc thờ thành hoàng và các chiêu mộ, miếu Thủ Trung còn thờ nhà Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ - là người Tổng chỉ huy công cuộc khẩn hoang lập nên huyện Kim Sơn..
- Ở ấp Thủ Trung, Nho giáo cũng giữ vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
- Theo gia phả của họ Vũ 18 ở Thủ Trung thì cụ chiêu mộ Vũ Quốc Khuê vốn là một nhà nho, đến Thủ Trung cụ vẫn làm nghề dạy học.
- Cho đến nay, họ Vũ ở Thủ Trung đã trải qua 6 đời, thì đời nào cũng có người làm nghề dạy học..
- Ở ấp Thủ Trung ngay từ khi khẩn hoang lập ấp đã có sự tham gia của một số giáo dân.
- Cũng theo gia phả của họ Vũ ở Thủ Trung thì khi đến đây, cụ chiêu mộ Vũ Quốc Khuê không theo công giáo nhưng cụ bà thì lại theo công giáo và dòng họ này, 3 đời sau vẫn có người bên họ ngoại theo công giáo.
- Từ việc nghiên cứu ấp Thủ Trung (Huyện Kim Sơn - tỉnh Ninh Bình) ở nửa đầu thế kỷ XIX đã gợi mở cho chúng tôi một số suy nghĩ sau:.
- Thứ nhất: Những người đến đất Thủ Trung đầu tiên mà sau này được ấp suy tôn là Chiêu mộ là những người quê ở xã Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Nam Định liền một dải với bờ biển huyện Kim Sơn.
- Họ đã cùng với anh em, bạn bè và những người cùng quê hương đã nhanh chóng hoà hợp trong một đơn vị khai hoang để rồi lại tái lập.
- Thứ hai: Ruộng đất khẩn hoang được trong những năm đầu ở Thủ Trung là ruộng “Tư điền quân cấp”.
- Sự phân phối ruộng đất sau khai hoang có chú ý phân biệt rõ ràng giữa những người đến trước và đến sau theo thứ bậc: Chiêu mộ, nguyên môn, thứ mộ và sau cùng là tân mộ, thể hiện công lao và đóng góp của người đến trước và đến sau..
- Thứ ba: Ấp Thủ Trung được lập nên thì những quan hệ của làng xã cổ truyền lại được tái lập.
- Mối quan hệ hợp tác, liên kết, sinh tử có nhau giữa con người với con người trong những năm khai hoang gian khổ chính là sức mạnh, là động lực to lớn không những giúp họ chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt mà còn là cơ sở để xây dựng nên một đời sống văn hoá, tư tưởng đa dạng và phong phú..
- Thứ tư: Ấp Thủ Trung được xây dựng trên cơ sở trật tự kinh tế chứa đựng những yếu tố mới, đó là chế độ sở hữu nhỏ về ruộng đất và nền kinh tế tiểu nông được phục hồi, thủ công, thương nghiệp có điều kiện phát triển, đã thúc đẩy sự giao lưu giữa.
- Thứ năm: Ấp Thủ Trung cũng như các lý, ấp, trại, giáp khác của huyện Kim Sơn đều cùng một loại làng theo quy hoạch chung, nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu cần thiết cho sự phát triển nông nghiệp của một làng ven biển vừa có thể phát triển tiếp tục theo địa hình tiến rất nhanh ra biển của huyện Kim Sơn..
- Ấp Thủ Trung trải nhiều phen sóng gió nhưng vẫn đứng vững và sau này ngày càng được mở rộng thêm cả về diện tích và dân số bởi vì nó đã được xác lập bởi những con người kiên định trong bản đồ của huyện Kim Sơn..
- 1 Sách Đại Nam nhất thống chí chép: Năm Minh Mệnh thứ 10 đổi Đạo Ninh Bình thành Trấn Ninh Bình, đặt Tr ấn thủ, Hiệp trấn và Tham hiệp, năm ấy đặt thêm huyện Kim Sơn - Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam nh ất thống chí t ập 3.
- 2 Kim Sơn tân huyện sự tích - Ca dao dân gian, sưu tầm tại địa phương..
- 3 Dương Công Nhuận - Năm Minh Mệnh thứ 15 - Th ủ Trung ký lục - B ản chữ Hán, viết tay do cụ Vũ Thiện S ủng - trưởng tộc họ Vũ thôn Thủ Trung giữ..
- 5 Dương Công Nhuận - Th ủ Trung ký lục .
- 6 Dương Công Nhuận - Th ủ Trung ký lục .
- 7 Dương Công Nhuận - Thủ Trung ký lục.
- 8 Bài ca v ề lịch sử thôn Thủ Trung - Ca dao dân gian, sưu tầm tại địa phương..
- 9 Bài ca v ề lịch sử thôn Thủ Trung - Ca dao dân gian, sưu tầm tại địa phương..
- 10 Dương Công Nhuận - Năm Minh Mệnh thứ 15 - Th ủ Trung ký lục - B ản chữ Hán, viết tay do cụ Vũ Thiện S ủng - trưởng tộc họ Vũ thôn Thủ Trung giữ..
- 11 Vũ Quốc Khuê, Dương Công Nhuận: Năm Minh Mệnh thứ 15 - Hương Trung tương ước - B ản chữ Hán viết tay do c ụ Sủng - trưởng tộc họ Vũ thôn Thủ Trung giữ..
- 12 Dương Công Nhuận, Vũ Quốc Khuê: B ản khai về số đinh mộ được ở ấp Thủ Trung, tháng 11 năm Minh Mệnh th ứ 10 (1829.
- Bản chữ Hán chép tay do cụ Vũ Thiện Sủng thôn Thủ Trung giữ..
- 13 Dương Công Nhuận: Công tư điền thổ thuế ngạch năm Minh Mệnh thứ 15- B ản chữ Hán chép tay do cụ Vũ Thi ện Sủng thôn Thủ Trung giữ..
- 14 Dương Công Nhuận: Công tư điền thổ thuế ngạch năm Minh Mệnh thứ 15 - B ản chữ Hán chép tay do cụ Vũ Thi ện Sủng thôn Thủ Trung giữ..
- 15 Dương Công Nhuận: Năm Minh Mệnh thứ 15 - Thu ế lệ .
- B ản chữ Hán chép tay do cụ Vũ Thiện Sủng thôn Thủ Trung gi ữ..
- 16 Sơ đồ cấp ruộng tư của ấp Thủ Trung - T ự Đức năm thứ 6.
- Bản chữ Hán do cụ Vũ Thiện Sủng thôn Thủ Trung giữ.