« Home « Kết quả tìm kiếm

Bản chất của ngôn ngữ chuyên ngành


Tóm tắt Xem thử

- Bản chất của ngôn ngữ chuyên ngành.
- Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh - Mỹ, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam.
- Bài báo đề cập bản chất của ngôn ngữ chuyên ngành, một vấn đề được dư luận giảng dạy và nghiên cứu khoa học quan tâm, vì ngôn ngữ chuyên ngành là một môn học tương đối mới, so với các môn học mang tính truyền thống như thực hành tiếng, ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, v.v….
- Ngôn ngữ chuyên ngành là một phong cách ngôn ngữ, một ngữ vực.
- Phong cách ngôn ngữ chuyên ngành là phong cách ngôn ngữ khoa học, với một số đặc điểm khác biệt so với, ví dụ, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
- Để làm rõ đặc điểm nổi bật nhất của phong cách ngôn ngữ khoa học, bài báo trình bày một số cấu trúc lập luận với những đặc điểm khu biệt trong ngôn ngữ khoa học.
- Bìa báo rút ra một số kết luận mang tính ứng dụng trong giảng dạy ngôn ngữ chuyên ngành..
- Vấn đề bản chất của ngôn ngữ chuyên ngành là gì thoạt nhìn tưởng một vấn đề đơn giản.
- Nhưng hình như trong giới nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng, khi đề cập khái niệm này, họ thường tìm cách lảng tránh, kiểu như lấy chuyện sông thay cho chuyện biển, lấy chuyện biển thay cho chuyện mưa lũ thượng nguồn… Sự lấy cái nọ để bàn về cái kia, mà.
- Trong bài báo này, chúng tôi muốn nhìn nhận ngôn ngữ chuyên ngành như chính bản thân nó, chứ không phải như nó được cảm nhận, được “xử lý” để trở thành nhu cầu nơi người học.
- ngôn ngữ của tác phẩm ấy đã tạo nên hình tượng văn học như thế nào, chứ không bàn về những cảm nhận chủ quan của người đọc/người nghe.
- Ngôn ngữ chuyên ngành vừa là một phong cách ngôn ngữ, vừa là một ngữ vực.
- Về mặt thuật ngữ, trước khi đưa ra các kiến giải cụ thể của chúng tôi về ngôn ngữ chuyên ngành.
- là gì nhìn từ góc độ ngôn ngữ-phong cách học, chúng tôi muốn làm rõ nghĩa của một số thuật ngữ: như phong cách, ngữ vực, phong cách chức năng..
- Phong cách.
- Theo Nguyễn Thái Hoà khi ngôn ngữ học chưa phát triển, văn ngữ bất phân, phong cách vừa có nghĩa đặc trưng của ngôn ngữ thuộc một loại nhất định, vừa là cảm nhận màu sắc sáng tạo nghệ thuật (Nguyễn Thái Hoà .
- Sự phát triển của các trào lưu ngôn ngữ học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dẫn tới sự tách văn học ra khỏi ngôn ngữ học.
- ngôn ngữ học đã tiếp cận phong cách ở nhiều hướng khác nhau..
- Khi chúng ta quan sát hoạt động ngôn ngữ ở các ngữ cảnh khác nhau, chúng ta phát hiện có các khác biệt trong lựa chọn kiểu loại ngôn ngữ cho phù hợp với kiểu loại ngữ cảnh trong đó nó được sử dụng”.
- Một cách dễ hiểu hơn, Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học ứng dụng (Richard et al, 1991) định nghĩa thuật ngữ.
- Cuốn Dẫn luận ngôn ngữ (Fromkin et al phân biệt phong cách và ngữ vực như sau:.
- “Trong khi phong cách (style) là các biến thể ngôn ngữ bị quy định chủ yếu bởi cách xử lý ngôn ngữ của người nói đối với người nghe/người đọc, đối với chủ đề hoặc đối với mục đích của giao tiếp, ngữ vực (register) là thuật ngữ được dùng cho một biến thể ngôn ngữ bị quy định bởi chủ đề.
- chủ đề đang bàn, và có thể cả các cấu trúc cú pháp, như trong ngôn ngữ luật”.
- Kết luận tôi muốn đi đến ở đây là: ngôn ngữ chuyên ngành vừa là một phong cách ngôn ngữ (language style), vừa là một ngữ vực (register)..
- Thuật ngữ phong cách chức năng là thuật ngữ của trường phái xã hội - ngôn ngữ học Xô Viết ra đời vào thập niên 50 của thế kỷ trước.
- Trường phái này, căn cứ vào các chức năng xã hội của ngôn ngữ, đưa ra các tiêu chí phân tích ngôn ngữ theo các phong cách chức năng khác nhau: phong cách sinh hoạt, phong cách khoa học, phong cách nghệ thuật, phong cách chính luận, phong cách báo chí, v.v.
- Như vậy, hoàn toàn có thể coi ngôn ngữ chuyên ngành đơn giản là một phong cách ngôn ngữ, phong cách ngôn ngữ kinh tế, ngôn ngữ tài chính, ngôn ngữ luật, ngôn ngữ các khoa học xã hội, ngôn ngữ các khoa học tự nhiên, v.v… gọi chung là phong cách ngôn ngữ khoa học.
- Ngôn ngữ chuyên ngành là phong cách ngôn ngữ khoa học.
- Trình bày về chủ đề ngôn ngữ chuyên ngành là phong cách ngôn ngữ khoa học, tôi muốn liên hệ ngôn ngữ chuyên ngành với tư cách một phong cách ngôn ngữ khoa học với phong cách ngôn.
- Qua cách so sánh này, chúng ta có thể thấy cả hai loại phong cách ngôn ngữ dường như rõ ràng hơn.
- Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật Phong cách ngôn ngữ khoa học 1.
- Hình tượng ấy được xây dựng nên, được gợi ra trong liên tưởng và tưởng tượng của người đọc/người nghe bằng những phương thức tổ chức tín hiệu ngôn ngữ mang tính đặc thù nghệ thuật, để biến, từ “đầu vào” là ngôn ngữ,.
- Trong ngôn ngữ nghệ thuật, vì thế xuất hiện các thủ pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân cách hóa, v.v… Hình tượng nghệ thuật vừa là phương tiện, vừa là mục đích của sang tác….
- Tính truyền cảm: Theo nhiều nhà phong cách học, khác với ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày mang tính trực cảm và ngôn ngữ khoa học mang tính lý trí, ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ truyền cảm.
- Ngôn ngữ nghệ thuật, bởi thế, mang sức mạnh cảm hóa, mang ma lực của ngôn từ để lôi kéo, thuyết phục, làm rung động lòng người..
- Điều này làm cho ngôn ngữ nghệ thuật khác hẳn với ngôn ngữ khoa học (xem mục 3, cột bên)..
- Tính trừu tượng Ngôn ngữ khoa học là phương tiện giao tiếp của các nhà khoa học (tự nhiên và xã hội), nên nó đương nhiên mang tính trừu tượng.
- Khi học ngôn ngữ kinh tế ở Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Anh - Mỹ, sinh viên tiếp cận với các quy luật cung cầu, các quy luật về giá, các quy luật về lạm phát, v.v… Những quy luật này không hiển hiện trong cảm tính người đọc/người nghe, mà đòi hỏi người đọc/ người nghe phải sử dụng tư duy trừu tượng để nhận thức..
- Tính lập luận (hay còn gọi là tính lý trí).
- Diễn ngôn khoa học là loại diễn ngôn được hình thành trên cơ sở một hệ thống các lập luận (tôi sẽ trình bày thêm về luận điểm này trong phần dưới của mục này).
- Bằng những lý lẽ, lập luận của mình, nhà khoa học nói chuyện với lý trí của người đọc/người nghe.
- Khác với ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm màu sắc cá nhân, ngôn ngữ khoa học hoạt động theo các quy ước trong hệ thống khoa học, vì thế nó phải đạt tới được tính thống nhất về khái niệm, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trong phạm vi quốc tế.
- Như đã trình bày trong bản so sánh trên, ngôn ngữ khoa học mang các đặc thù phong cách như: tính trừu tượng, tính lập luận (hay còn gọi là tính lý trí), tính khách quan (hay còn gọi là tính phi cá thể hóa), khác với ngôn ngữ nghệ thuật mang tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hóa.
- Ngôn ngữ khoa học, ngược lại, đưa ta vào một thế giới chất xám, một con đường đầy sỏi đá, đôi khi núi non hiểm trở, đòi hỏi ta phải thông thạo địa hình, nếu không sẽ lạc đường, và cảm thấy bế tắc.
- Trong một số nghiên cứu khoa học chúng tôi đã triển khai, các điều tra trên sinh viên chuyên ngữ về độ khó của ngôn ngữ.
- chuyên ngành ở các hệ đào tạo khác nhau (chính quy, chuyên ngành II, tại chức) đều cho một kết quả chung về ý kiến của người học rằng ngôn ngữ chuyên ngành là loại ngôn ngữ khó..
- Trong ba đặc điểm của ngôn ngữ khoa học, các đặc điểm về tính trừu tượng và tính lập luận (hay còn gọi là tính lý trí) là các đặc điểm có quan hệ nhân quả, cái nọ là nguyên hân của cái kia, hay ít ra cái thứ hai (tính lập luận) là nguyên nhân của cái thứ nhất (tính trừu tượng)..
- Tôi sẽ trình bày cụ thể thêm về các loại lập luận trong phần tiếp theo..
- Lập luận trong ngôn ngữ khoa học (scientific discourse).
- Trong ngôn ngữ khoa học, mục đích của lập luận, như trên đã trình bày, là nhằm thuyết phục người đọc/người nghe về một vấn đề nào đó, một hiện thực, một hiện tượng.
- Cũng cần lưu ý rằng, lập luận là cái nằm trong thông điệp được chứa đựng trong văn bản khoa học.
- Lập luận là yếu tố nội văn bản..
- Giống như, trong tiếp nhận ngôn ngữ nghệ thuật, cảm xúc, ấn tượng của người đọc, người nghe là cảm xúc, ấn tượng riêng của từng người.
- Trong ngôn ngữ khoa học, để đi đến sự thuyết phục (lý trí), cũng cần các yếu tố khác ngoài nội dung lập luận, chúng ta không thể bắt người tiếp nhận thông điệp [5]..
- Lập luận và thuy ết phục..
- Từ hình 1 trên có thể thấy lập luận nằm trong hành động thuyết phục.
- Chúng ta đã xem xét khái niệm lập luận trong ngôn ngữ thông thường bằng định nghĩa từ điển trên kia.
- Trong ngôn ngữ khoa học, lập luận là gì? Một cách dễ hiểu, lập luận là một biểu hiện của tư duy lôgíc..
- Các yếu tố cơ bản của lập luận trong tư duy lôgíc bao gồm các tiền đề (premises) (các nhận định mà trên đó lập luận dựa vào), kết luận (conclusion), (tuyên bố hoặc nhận định được minh chứng), và diễn giải (reasoning), (chuỗi tư duy nối các tiền đề với kết luận.
- Lập luận.
- tôi sẽ trình bày về các loại lập luận thường thấy (các loại, chứ không phải các phương pháp) trong ngôn ngữ khoa học….
- Các phạm trù của lập luận.
- Trong phần trình bày dưới đây, tôi lướt qua về một số loại lập luận thường gặp trong diễn ngôn khoa học..
- Lập luận định nghĩa (definition Arguments).
- Dạng thức cơ bản của loại lập luận này như sau: X is/is not Y..
- Quan sát các bộ giáo trình ngôn ngữ chuyên ngành đang được sử dụng trong giảng dạy ở Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Anh - Mỹ (English for Economics, English for Finance and Banking), người ta có thể thấy tầm quan trọng của các định nghĩa thuật ngữ, bắt đầu, ví dụ, ngay từ trong Chapter 1 của bộ giáo trình, cho đến cuối bộ giáo trình.
- Để xây dựng một lập luận định nghĩa (X is/is not Y) liên quan đến các vấn đề trừu tượng hơn, người gửi thông điệp (người viết/người nói) thường bắt đầu bằng việc tìm ra các vấn đề cần xác định hoặc các vấn đề, các hiện tượng đang gây tranh cãi.
- Vấn đề này làm cho quá trình thuyết phục trở nên phức tạp hơn, nằm ngoài quá trình lập luận trong văn bản khoa học, như đã trình bày trong hình 1..
- Trong chương trình giảng dạy của Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Anh - Mỹ, việc sắp tới sẽ có thêm bộ môn “Tư duy phê phán” là một điều thật đáng mừng.
- Nó sẽ giúp cho việc giảng dạy ngôn ngữ chuyên ngành ở khoa ngày càng có chất lượng hơn, sẽ giúp tăng cường chất lượng nghiên cứu của học viên Cao học - Thạc sỹ..
- Lập luận nhân quả (Causal Arguments).
- Dạng thức cơ bản của loại lập luận này như sau: X causes/does not cause Y..
- Nói một cách nôm na, loại lập luận này cho người đọc/người nghe thấy một sự kiện/ hiện tượng này đã/sẽ/đang làm cho một sự kiện/hiện tượng khác xảy ra như thế nào.
- giá thị trường là gì? đã được định nghĩa trong các lập luận định nghĩa (như đã nêu trong giáo trình).
- Đây là một ví dụ về lập luận nhân quả, trong đó cái nọ là nguyên nhân của cái kia, cái nọ làm cho cái kia xảy ra.
- Các nhà nghiên cứu thường đưa ra ba cách thành lập các lập luận nhân quả.
- Cách thứ ba: Lập luận theo các trường hợp tương tự hay theo tiền lệ.
- Lập luận so sánh (Resemblance Arguments).
- Dạng thức cơ bản của loại lập luận này như sau: X is/is not like Y..
- Trong một chừng mực nào đó, lập luận so sánh không khác nhiều lắm với loại lập luận định nghĩa (X is/is not Y).
- Theo các nhà nghiên cứu, có hai loại lập luận so sánh.
- Loại lập luận so sánh thứ nhất: lập luận theo sự tương tự (analogy).
- (1) lập luận sử dụng sự tương tự hạn chế (underdeveloped analogies), nghĩa là Y, cái được đem ra so sánh có một số mặt riêng của nó, và (2) lập luận sử dụng sự tương tự mở rộng, nghĩa là.
- Loại lập luận so sánh thứ hai: lập luận theo tiền lệ (precedent).
- Chỉ có điều trong các lập luận bằng tiền lệ, cái Y luôn luôn là một sự kiện trong quá khứ (một tiền lệ đã xảy ra), được dùng để so sánh, giúp cho người đọc/người nghe có được nhận thức về cái X.
- Lập luận đánh giá (Evaluation Arguments).
- Dạng thức cơ bản của loại lập luận này như sau: X is/is not a good Y..
- Chiến lược chung cho các lập luận đánh giá là thiết lập các tiêu chí.
- Người ta căn cứ vào cái Y (là các tiêu chí) và sau đó lập luận rằng cái X đáp ứng hay không đáp ứng cái Y.
- Trong các lập luận đánh giá, vấn đề cốt lõi là các tiêu chí, không có các tiêu chí, không có lập luận đánh giá.
- Một ví dụ dễ hiểu: các giảng viên trong Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Anh - Mỹ thường xuyên có nhiệm vụ nhận xét, đánh giá các nghiên cứu khoa học các cấp, các nghiên cứu khoa học sinh viên hay các luận văn Thạc sỹ..
- Lập luận đề nghị (Proposal Argument).
- Dạng thức cơ bản của loại lập luận này như sau: We should/should not do X..
- Nhận định của lập luận đề nghị là đặt ra một chương trình hành động phải tiến hành.
- Trên đây là năm loại lập luận chính, thường thấy trong diễn ngôn khoa học.
- Sau khi giới thiệu cho sinh viên các tư liệu học tiếng thuộc các phong cách ngôn ngữ như phong cách khẩu ngữ thông thường (conversational style), người học ngoại ngữ cần được tiếp cận, nghiên cứu ngôn ngữ ở các phong cách đa dạng khác nhau, trong đó có phong cách ngôn ngữ khoa học..
- Mỗi ngữ vực đều được đánh dấu bằng một hệ thống thuật ngữ và cấu trúc lập luận đặc thù (chuyển tải nhờ các cấu trúc ngữ pháp đặc thù, Brown &Yule, 1992).
- Việc giảng dạy ngôn ngữ chuyên ngành hiện nay, trên quy mô toàn trường, còn là một lĩnh vực chưa được quan tâm thích đáng, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tiếng.
- Cần chú ý đầu tư cho việc giảng dạy ngôn ngữ chuyên ngành (ngôn ngữ lôgíc, ngôn ngữ khoa học) nhiều hơn nữa..
- [3] Nguyễn Xuân Thơm, Các yếu tố ngôn ngữ trong đàm phán thương mại quốc tế, Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 2001.