« Home « Kết quả tìm kiếm

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam Ensuring human rights for women in the context of HIV/AIDS in Vietnam


Tóm tắt Xem thử

- Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam.
- Ensuring human rights for women in the context of HIV/AIDS in Vietnam NXB H.
- Luận văn ThS ngành: Pháp luật về quyền con người;.
- Keywords: Quyền con người.
- Phụ nữ.
- Pháp luật Việt Nam.
- Khác với các bệnh dịch khác, HIV có khả năng lây nhiễm và hiện tại chưa có vắc xin phòng bệnh và chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, mặt khác nguồn gốc lây nhiễm HIV là do tiêm chích ma túy, do quan hệ tình dục và do mẹ truyền sang con khi mang thai.
- Chính vì những lý do dịch tễ học nêu trên mà dẫn đến tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV..
- Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện tại Mỹ vào năm 1980, sau đó lây lan nhanh chóng và được coi là một đại dịch mang tính toàn cầu.
- Theo thống kê của UNAIDS và WHO cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS, ước tính khoảng 16 triệu trẻ em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình và mới có khoảng gần một nửa những người sống với HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của bản thân [57].
- Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với HIV trên toàn thế giới có 17,5 triệu là phụ nữ [44,6]..
- Trong suốt những năm đầu thập kỷ 1980 sự kỳ thị, phân biệt đối xử với những người có HIV/AIDS và người thân của họ diễn ra khá phổ biến trên thế giới.
- Các biện pháp như giam giữ, cách ly người nhiễm HIV/AIDS khỏi cộng đồng với mục đích ngăn ngừa sự lây lan của đại dịch đã tỏ ra không hiệu quả, bởi số lượng người nhiễm HIV ngày càng tăng trên thế giới, mặt khác làm tăng sự kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội đối với người nhiễm HIV/AIDS và như vậy là vi phạm nghiêm trọng các quyền con người của những người nhiễm HIV/AIDS..
- Cũng giống như những căn bệnh khác, người nhiễm HIV có nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, được chăm sóc y tế, được đảm bảo an ninh cá nhân, giáo dục, lao động …để sống một cuộc sống có nhân phẩm, nhưng những nhu cầu thiết yếu này luôn bị vi phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội..
- Cùng với sự phát triển của y học thì con người nhận thức rõ hơn về cơ chế lây truyền HIV/AIDS và sự đấu tranh bền bỉ của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực quyền con người đã tạo sự chuyển biến lớn trong cách đối xử với những người có HIV/AIDS.
- Dần dần, quan điểm cho rằng việc chống kỳ thị, phân biệt đối xử, thừa nhận và bảo đảm các quyền, tự do cơ bản của người có HIV/AIDS là một yếu tố cốt yếu để phòng ngừa sự lây lan của đại dịch mặt khác, góp phần bảo đảm quyền con người của những người nhiễm HIV/AIDS.
- biệt đối xử đã đẩy những người có HIV/AIDS vào “bóng tối” từ đó làm tăng nguy cơ với cộng đồng do họ tìm cách che dấu tình trạng của bản thân, thậm trí có người còn tìm cách trả thù cộng đồng..
- Trong bối cảnh HIV/AIDS, phụ nữ là đối tượng phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, do phụ nữ là đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV và phải chịu những hậu quả nghiêm trọng về mọi mặt do tình trạng nhiễm HIV của bản thân như bị phân biệt đối xử, không được đảm bảo các nhu cầu về học tập, làm việc, chăm sóc sức khỏe, an ninh cá nhân … điều này là đi ngược lại với những giá trị về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người như:.
- Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền”, Điều 2 tiếp tục ghi nhận: “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay địa vị khác”..
- Vì vậy, phụ nữ nhiễm HIV được hưởng đầy đủ các quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và trách nhiệm của nhà nước, của các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền đó, được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và bảo đảm thực thi trên thực tế..
- Kinh nghiệm quốc tế trong quá trình phòng, chống lây nhiễm HIV đã chỉ ra rằng, việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn sự lây lan của đại dịch..
- Mặc dù vậy, trên thực tế quyền con người của những phụ nữ nhiễm HIV/AIDS vẫn bị vi phạm nghiêm trọng bởi nhiều chủ thể trong xã hội.
- Đòi hỏi các quốc gia phải có những biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm hơn nữa quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương này..
- Việt Nam, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc, thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, do đó hệ thống pháp luật quốc gia không ngừng được hoàn thiện để ghi nhận và thực thi các quyền con người đã được thừa nhận, trong đó có quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS..
- Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS dưới góc độ quyền con người còn chưa phổ biến.
- Do vậy tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình, với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, tìm hiểu thực trạng ở Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ và qua đó đề xuất các biện pháp về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ để hạn chế nguy cơ lây nhiễm HIV và giảm thiểu tác hại của HIV/AIDS đến đời sống của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS..
- Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng HIV/AIDS thường được tiếp cận dưới góc độ là một vấn đề y học, vấn đề xã hội nhằm các mục tiêu y tế công..
- Một cách tiếp cận mới là phòng chống HIV/AIDS dựa trên quyền con người, theo đó Chương trình hỗn hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS và Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đã thông qua “Hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người” năm 2001 nhằm hỗ trợ các quốc gia xác lập một cách ứng xử với HIV/AIDS mang tính tích cực và dựa trên quyền, điều mà sẽ tạo hiệu quả trong việc giảm thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại dịch trong khi vẫn đảm bảo được sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người..
- Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, các tài liệu nghiên cứu về quyền con người của người nhiễm HIV/AIDS còn chưa phổ biến, đặc biệt là quyền của phụ nữ.
- Các bài nghiên cứu chủ yếu mới dừng lại ở việc đưa ra thực trạng cũng như những khó khăn mà phụ nữ gặp phải trước đại dịch HIV/AIDS như bài “Phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam trước đại dịch HIV/AIDS” hay bài “Phụ nữ và HIV/AIDS – đương đầu với khủng hoảng” của tác giả Trần Tiến Đức đăng trên tạp chí Lao động và xã hội số 271 năm 2005 hay cuốn “Sức khỏe sinh sản và tình dục đối với phụ nữ sống chung với HIV/AIDS” do tác giả Lê Anh Tuấn chủ biên.
- Các bài viết này mới chỉ phân tích ở khía cạnh các vấn đề xã hội mà phụ nữ có HIV/AIDS gặp phải chứ chưa phân tích vấn đề phụ nữ có HIV/AIDS dưới góc độ quyền con người.
- Hay các bài viết về phòng ngừa lây nhiễm HIV đối với phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam như bài “Ngăn ngừa nhiễm HIV ở phụ nữ và trẻ em gái trên thế giới”của tác giả Nguyễn Trần Hiển trên tạp chí Lao động xã hội số 271 năm 2005, bài “Vấn đề nhiễm HIV/AIDS trong các gia đình” của tác giả Khuất Thu Hồng đăng trên tạp chí Lao động xã hội số 289 năm 2006.
- “Quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS” của tác giả Hoàng Mai Hương và Chu Thị Thúy Hằng đăng trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 3 năm 2006 đã đề cập đến quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, tuy nhiên bài viết chưa đi sâu phân tích các quyền cụ thể và cơ sở của việc bảo đảm các quyền này và cũng chưa đề cập đến các giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS..
- Gần đây Viện nghiên cứu quyền con người đã phát hành ấn phẩm “HIV/AIDS và quyền con người” trong đó một phần cuốn sách đã phân tích cơ sở pháp luật, chính trị, đạo đức của việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS và đảm bảo quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong bối cảnh HIV/AIDS trong đó có đối tượng là phụ nữ.
- Tuy nhiên, cuốn sách chưa đi sâu phân tích toàn diện các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam..
- Với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các cam kết quốc tế, các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người và quy định của pháp luật Việt Nam để thấy được các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS được ghi nhận và bảo đảm thực thi, vì vậy tài liệu này là một tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả hoàn thành luận văn này..
- Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một cách tổng quát các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được ghi nhận trong các công ước quốc tế về quyền con người và trong các quy định của pháp luật Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp mang tính pháp lý để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người của phụ nữ và đưa ra các giải pháp thực tiễn để thực thi có hiệu quả hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS..
- Nghiên cứu khái quát về HIV/AIDS và các tác động xã hội của HIV/AIDS..
- Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.
- Phân tích các bảo đảm về chính trị, về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật đối với phụ nữ có HIV/AIDS..
- Phân tích rõ cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.s.
- Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp pháp luật và biện pháp thực tiễn về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS..
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ..
- Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, phân tích những bảo đảm về chính trị, bảo đảm về pháp luật và bảo đảm về kinh tế trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ..
- Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, qua đó đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế đồng thời đánh giá thực trạng của việc đảm bảo các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp pháp lý cũng như những giải pháp thực tiễn để bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS..
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức cơ bản về cơ sở bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật và kinh tế.
- đồng thời làm rõ các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đưa ra những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế trong việc bảo đảm thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.
- Trên cơ sở phân tích những hạn chế của pháp luật Việt Nam, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.
- Trên cơ sở đánh giá hiệu quả của các hoạt động thực tiễn, luận văn đưa ra một số giải pháp thực tiễn nhằm thực thi tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS..
- Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và phần nào có ý nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật về quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS để tìm hiểu, vận dụng để xây dựng quy định và thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS..
- Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS: Chương này tác giả trình bày khái quát về HIV/AIDS.
- Nội dung của sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS theo quy định của pháp luật quốc tế và đưa ra những bảo đảm đối với phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS đó là những bảo đảm về chính trị, bảo đảm bằng pháp luật và bảo đảm về kinh tế..
- Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
- Chương này tác giả đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam và thực trạng bảo đảm thực tế các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS và đưa ra các giải pháp pháp lý và giải pháp thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS..
- Nguyễn Thị Vân Anh, Công Đức Duy, Nguyễn Văn Toàn (1995), HIV/AIDS mối ràng buộc toàn cầu, NXB Thế giới, Hà Nội..
- Chung Á, Phạm Văn Linh, Đào Duy Quát, Ngô Văn Thạo (20070, Đổi mới công tác thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam, NXB Thế Giới, Hà Nội..
- Báo cáo thực hiện Cam kết chính trị về HIV/AIDS giai đoạn .
- Bình luận chung số 4 “Bình đẳng nam nữ trong việc hưởng thụ các quyền dân sự và chính trị”.
- Bình luận chung số 16 “Quyền bình đẳng nam nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa” (Điều 3).
- Bình luận chung số 20 “Không phân biệt đối xử về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa” (Điều 2 (2)).
- Các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người, 1996..
- Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 608/QĐ-TTg ngày của Thủ tường Chính phủ..
- Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (Bản dự thảo lần 5)..
- Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, 1979..
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966.
- Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, 1966.
- Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội..
- Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội..
- Cao Đức Thái (2007), HIV/AIDS và quyền con người, NXB Hà Nội, Hà Nội..
- Trần Tiến Đức (2005), “Phụ nữ và HIV/AIDS – Đương đầu với khủng hoảng”, Lao động và xã hội .
- Chu Thị Thúy Hằng, Hoàng Mai Hương (2006), “Quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS”, Khoa học về Phụ nữ, (3), tr.12-17..
- Nguyễn Trần Hiển (2004), “Các chiến lược phòng, chống HIV/AIDS trên thế giới”, Giáo dục, (97), tr.
- Nguyễn Trần Hiển (2004), “Sự cần thiết của truyền thông thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV/AIDS”, Giáo dục, (99), tr.
- Nguyễn Trần Hiển (2005), “Ngăn ngừa nhiễm HIV ở phụ nữ và trẻ em gái trên thế giới”, Lao động và xã hội, (271), tr11-12..
- Phạm Mạnh Hùng (2004), “Giảm thiểu tác hại liên quan đến HIV/AIDS: Một biện pháp can thiệp cần được ưu tiên trong phòng chống HIV/AIDS”, Tư tưởng văn hóa, (9), tr.51-54..
- Khuyến nghị chung số 9 “Số liệu thống kê về thực trạng của phụ nữ”.
- Khuyến nghị chung số 12 “Bạo hành đối với phụ nữ”.
- Khuyến nghị chung số 15 “Chống phân biệt đối xử với phụ nữ trong các chiến lược quốc gia về ngăn chặn và kiểm soát hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (AIDS)”.
- Khuyến nghị chung số 19 “Bạo lực chống lại phụ nữ”.
- Khuyến nghị chung số 24 “Phụ nữ và sức khỏe”..
- Hà Thị Khiết (2005), “Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong việc thực hiện chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam”, Lao động xã hội.
- Liên hợp quốc tại Việt Nam (2010), “Lây nhiễm HIV từ nam giới sang phụ nữ trong quan hệ bạn tình ở Việt Nam”, Tài liệu thảo luận..
- Luật phòng chống HIV/AIDS năm 2006 49.
- Nguyễn Huy Lộc, Vũ Đăng Minh, Phạm Ngọc Quynh, Trần Hương Thảo, Lê Thị Thanh Xuân (2006), Kế hoạch hành động phòng chống HIV/AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm giai đoạn NXB Thanh Niên, Hà Nội..
- Nghị định số 69/2011/NĐ-CP ngày của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính về y tế dự phòng, môi trường y tế và phòng chống HIV/AIDS..
- Đỗ Thị Thanh Nhàn (2005), “Dự án tiếp thị xã hội bao cao su với hoạt động phòng chống HIV/AIDS”, Lao động và xã hội, (271), tr.8-9..
- Đỗ Thị Thanh Nhàn (2005), “Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam với công tác phòng chống HIV/AIDS”, Lao động xã hội, (277), tr.12, 16-17..
- Tổ chức Lao động quốc tế tại Việt Nam (2004), “Giảm thiểu kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS tại nơi làm việc ở Việt Nam”..
- Trần Tuấn (2004), “Phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam trước đại dịch HIV/AIDS”, Lao động và xã hội, (252), tr