« Home « Kết quả tìm kiếm

Bảo hiến và vai trò của bảo hiến trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Bảo hiến và vai trò của bảo hiến trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật;.
- Abstract: Tổng quan những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiến: khái niệm bảo hiến, cơ sở thiết lập cơ chế bảo hiến, vai trò của bảo hiến đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Phân tích kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới và tổng kết thực trạng bảo vệ hiến pháp ở Việt Nam.Từ đó nêu một số nguyên tắc và giải pháp cơ bản trong việc xây dựng cơ chế bảo hiến ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động bảo hiến nhằm bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền.
- Keywords: Bảo hiến, Nhà nước pháp quyền, Vai trò Nhà nước.
- Hiến pháp là văn bản có có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật và trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia.
- Hiến pháp và sự phát triển của hiến pháp trên thế giới là một hiện tượng chính trị - xã hội trong thời kỳ cách mạng tư sản, khẳng định sự xuất hiện chế độ tư bản và sự rút lui khỏi vũ đài chính trị của giai cấp phong kiến.
- Với tư cách là một văn bản khẳng định việc tổ chức quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, văn bản ghi nhận và thiết lập những cơ chế bảo vệ các quyền cơ bản của con người, sự xuất hiện của hiến pháp đã trở thành bước ngoặt quan trọng trong tiến trình dân chủ của mỗi quốc gia, là “một biểu tượng của nền văn minh và dân chủ của một dân tộc” [5, tr.
- Với vị trí và tầm quan trọng đặc biệt đó, hiến pháp đòi hỏi phải được mọi cơ quan.
- Bảo hiến, do vậy, đã trở thành một phần quan trọng và là một yêu cầu không thể thiếu trong tổ chức của đa số các nhà nước đương đại, nhất là khi những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền ngày càng được thừa nhận rộng rãi trên thế giới.
- Mặc dù vậy, không có một mô hình bảo hiến chung cho mọi quốc gia trên thế giới.
- Ở các quốc gia, cơ chế bảo hiến được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó, phổ biến là mô hình toà án thường thực hiện chức năng bảo hiến, mô hình toà án hiến pháp hoặc các mô hình bảo hiến hỗn hợp..
- Ở nước ta, Hiến pháp do Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất – ban hành theo trình tự, thủ tục đặc biệt (việc thông qua hoặc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành).
- Kể từ bản hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) được ban hành, cho đến nay, nước ta đã trải qua hơn 60 năm lịch sử lập hiến với 7 lần tiến hành hoạt động lập hiến (ban hành mới các bản Hiến pháp năm và sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp trong các năm và 2001).
- Hiến pháp nước ta là văn bản pháp lý đặc biệt thể hiện một cách tập trung nhất ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực của đời sống nhà nước và đời sống xã hội.
- Việc nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp tức là chấp hành ý chí của nhân dân .
- trái Hiến pháp tức là trái với ý chí của nhân dân, không tuân theo ý chí của nhân dân [17].
- Bởi vậy, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong hệ thống pháp luật, bảo đảm để các chủ thể trong xã hội đều tôn trọng và thực hiện các quy định của hiến pháp luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
- Đó cũng chính là đòi hỏi có tính tất yếu, có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta..
- Việc bảo đảm tính tối cao của hiến pháp, bảo đảm để tất cả các chủ thể trong xã hội đều tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh hiến pháp là vấn đề đã được đặt ra và tổ chức thực hiện ở nước ta ngay từ khi có bản hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946 và vẫn được tiến hành theo những cách thức khác nhau cho đến hiện nay.
- Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam, xét trên cả hai phương diện pháp luật và thực tiễn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn và đang tồn tại những bất cập chủ yếu như: cơ sở pháp lý cho việc xác lập một cơ chế bảo hiến đồng bộ và hoàn chỉnh còn chưa đầy đủ và thiếu cụ thể.
- cơ cấu tổ chức.
- nội dung của các hoạt động bảo hiến còn hạn hẹp, chưa toàn diện v.v.
- Chúng ta chưa có một cơ chế nào để giám sát chính hoạt động của Quốc hội và giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành cũng như việc giải quyết và hậu quả pháp lý trong trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu trái với hiến pháp.
- Nhiều thẩm quyền quan trọng trong việc giám sát và bảo vệ hiến pháp như thẩm quyền huỷ bỏ, đình chỉ văn bản trái hiến pháp trong thực tiễn hầu như không được áp dụng, nhất là trong hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương.
- Hình thức kiến nghị thông qua hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội chưa thực sự đem lại hiệu quả.
- Những hạn chế này làm cho hiến pháp Việt Nam không có hiệu lực áp dụng trực tiếp.
- Các cơ quan, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật thường không viện dẫn quy định của hiến pháp để giải quyết một vụ việc cụ thể..
- Người dân khi đi kiện cũng không thể viện dẫn một điều khoản của hiến pháp để chứng minh quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm.
- Trong thực tiễn, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ cũng hầu như chưa bao giờ bãi bỏ hay đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật nào vì lý do văn bản đó trái với hiến pháp… Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với việc xác lập và thực hiện có hiệu quả cơ chế giám sát và bảo vệ hiến pháp ở nước ta..
- Không những thế, ý nghĩa và sự cần thiết của việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo hiến đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta cũng đã được khẳng định trong các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta.
- Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X, trong đường lối tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã xác định rõ: “xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
- quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”.
- “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” [3, tr..
- Nhận thức rõ tầm quan trọng và những tư tưởng mang ý nghĩa chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về vấn đề này, đồng thời, xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Bảo hiến và vai trò của bảo hiến đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành luật học..
- Tình hình nghiên cứu.
- Vấn đề bảo đảm thực thi các quy định hiến pháp đã được đặt ra ngay từ khi bản hiến pháp đầu tiên của nước ta được ban hành.
- Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, bảo hiến với ý.
- nghĩa là một cơ chế được tổ chức và vận hành một cách chặt chẽ nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm hiến pháp, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong hệ thống pháp luật cũng như ý nghĩa của bảo hiến đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam thì mới được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây, đặc biệt là từ khi việc xây dựng Nhà nước pháp quyền được khẳng định trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước.
- Đã có một số hội thảo, cuộc toạ đàm và các cuốn sách đề cập đến vấn đề này, chẳng hạn: Hội thảo khoa học về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam do Ban công tác lập pháp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phối hợp với Ban quản lý và điều hành Dự án SIDA (Thuỵ Điển) tổ chức.
- cuốn Cơ chế bảo hiến do Đặng Văn Chiến (chủ biên), nhà xuất bản Tư pháp năm 2005.
- Ngoài ra, còn có một số bài báo đăng trên các tạp chí của các tác giả: Nguyễn Đức Lam, Cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở các nước (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7/2001), Thẩm quyền của cơ quan bảo hiến ở các nước (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9/2001), Cơ chế giám sát bảo hiến: góc nhìn tham khảo (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10/2003).
- Nguyễn Minh Đoan, Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2002).
- Vũ Hồng Anh, Giám sát Hiến pháp (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12/2003).
- Bùi Ngọc Sơn, Cơ sở của chế độ bảo hiến (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12/2003).
- Thái Vĩnh Thắng, Mô hình cơ quan bảo hiến của các nước trên thế giới (Tạp chí Luật học số 5/2004).
- Lê Tuấn Sơn, Tào Thị Quyên, Toà án Hiến pháp với việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người (Đặc san Nghề luật (Học viện Tư pháp) số 8/2004)….
- Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam còn ít nhiều được đề cập đến trong một số công trình khoa học nghiên cứu về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội v.v….
- Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng cơ chế bảo hiến ở Việt Nam, đặc biệt là ý nghĩa của vấn đề này trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay cũng như những phương hướng cụ thể nhằm thiết lập một cơ chế giám sát hiến pháp đủ hiệu lực và hiệu quả, vừa tiếp thu kinh nghiệm của thế giới, vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể ở nước ta..
- Điều đó càng thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài..
- Mục đích nghiên cứu.
- Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, Luận văn đi sâu nghiên cứu một số vấn đề có tính lý luận về bảo hiến (khái niệm bảo hiến, cơ sở thiết lập cơ chế bảo hiến, vai trò của bảo hiến đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam).
- khái quát một số kinh nghiệm bảo hiến của các quốc gia trên thế giới và tổng kết thực trạng bảo vệ hiến pháp ở Việt Nam;.
- từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản trong việc xây dựng cơ chế bảo hiến, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động bảo hiến nhằm bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền..
- Đối tượng nghiên cứu.
- Về khái niệm bảo hiến, cơ sở thiết lập cơ chế bảo hiến, vai trò của bảo hiến đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- về các mô hình bảo hiến phổ biến trên thế giới, tình hình bảo hiến ở Việt Nam và các phương hướng xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở nước ta trong thời gian tới..
- Phạm vi nghiên cứu.
- Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiến, bảo hiến và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.
- thực trạng bảo vệ hiến pháp ở Việt Nam.
- một số nguyên tắc và giải pháp cơ bản trong việc xây dựng cơ chế bảo hiến ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay..
- Luận văn trình bày một cách cụ thể, rõ ràng những vấn đề cơ bản về bảo hiến, làm sáng tỏ khái niệm bảo hiến dưới góc độ khoa học cũng như thực tiễn và luận giải tính tất yếu cũng như ý nghĩa của bảo hiến đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam..
- Trên cơ sở lý thuyết về bảo hiến, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, xuất phát từ thực tiễn bảo vệ hiến pháp ở Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là tình hình giám sát, kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật đã ban hành và việc bảo đảm tính hợp hiến trong quy trình lập pháp của Quốc hội hiện nay, Luận văn đề xuất một số giải pháp để xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam..
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho cơ quan có thẩm quyền trong việc hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, tổ chức, hoạt động của quốc hội, toà án nói riêng hoặc làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, tổ chức, cá nhân quan tâm đến vấn đề này..
- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, trong hiến pháp và pháp luật của Nhà nước..
- Các phương pháp cụ thể bao gồm: phương pháp tổng kết, đánh giá thực tiễn các quy định của pháp luật.
- Chương 1: Bảo hiến – yêu cầu tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
- Chương 2: Kinh nghiệm bảo hiến của một số quốc gia trên thế giới và hoạt động bảo.
- hiến ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 3: Phương hướng hoàn thiện cơ chế bảo hiến trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Văn kiện của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật.
- Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- Tổng tập văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2005), Nxb Tư pháp, Hà Nội..
- Sách, đề tài, công trình nghiên cứu khoa học.
- Đặng Văn Chiến (chủ biên) (2005), Cơ chế bảo hiến, Nxb Tư pháp, Hà Nội..
- Nguyễn Đăng Dung (2002), Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội..
- Nguyễn Đăng Dung (2004), Hình thức của các nhà nước đương đại, Nxb Thế giới, Hà Nội..
- Nguyễn Đình Lô ̣c Sự ra đời và phát triển của hiến pháp trong lịch sử”, Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Giáo dục, Hà Nội..
- Bùi Ngọc Sơn (2005), Góp phần nghiên cứu hiến pháp và nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội..
- Vũ Hồng Anh (2003), “Giám sát hiến pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (12) (www.vpqh.gov.vn/tap-chi-an-pham/nghiencuu-lapphap)..
- Lê Cảm (2001), “Nhà nước pháp quyền – các nguyên tắc cơ bản”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (8) (www.vpqh.gov.vn/tap-chi-an-pham/nghiencuu-lapphap)..
- Ngô Huy Cương (2002), “Xét xử hình sự theo tố tụng tranh tụng – kinh nghiệm nước ngoài và định hướng ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, chuyên san Kinh tế - Luật (3), tr.27..
- Nguyễn Đăng Dung (2001), “Pháp luật không chỉ là công cụ của Nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (11) (www.vpqh.gov.vn/tap-chi-an-pham/nghiencuu- lapphap)..
- Nguyễn Sĩ Dũng (2006), “Pháp quyền hay pháp trị”, Tạp chí Tia sáng (tiasang.com.vn) (8) ngày .
- Nguyễn Minh Đoan (2002), “Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (5) (www.vpqh.gov.vn/tap-chi-an- pham/nghiencuu-lapphap)..
- Trần Ngọc Đường (2004), “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật - nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (7), tr.
- Phùng Văn Hùng (2005), “Cơ chế bảo hiến - một vài kinh nghiệm của thế giới”, Kỷ yếu Hội thảo về cơ chế bảo hiến do Ban công tác lập pháp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổ chức, Thành phố Vinh, tháng 3/2005, tr.
- Tường Duy Kiến (2005), “Thể chế chính trị - pháp quyền một số quốc gia”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (9) (www.vpqh.gov.vn/tap-chi-an-pham/nghiencuu- lapphap)..
- Nguyễn Đức Lam (2001), “Cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở các nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (7) (www.vpqh.gov.vn/tap-chi-an-pham/nghiencuu-lapphap)..
- Nguyễn Đức Lam (2003), “Cơ chế giám sát bảo hiến: Góc nhìn tham khảo”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (10), tr .36-37..
- Tào Thị Quyên (2005), “Cơ sở của chế độ giám sát tư pháp hiến pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (10) (www.vpqh.gov.vn/tap-chi-an-pham/nghiencuu-lapphap)..
- Hoàng Thị Kim Quế (2002), “Một số đặc điểm cơ bản của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (4), tr.
- Lê Tuấn Sơn, Tào Thị Quyên (2004), “Toà án Hiến pháp với việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người”, Đặc san Nghề luật (Học viện Tư pháp) (8), tr.45..
- Bùi Ngọc Sơn (2005), “Hậu quả phán quyết của cơ quan tài phán hiến pháp”, Kỷ.
- yếu Hội thảo về cơ chế bảo hiến do Ban công tác lập pháp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổ chức, Thành phố Vinh, tháng 3/2005, tr.
- Lê Minh Tâm, “Mấy vấn đề chung về bảo hiến và cơ chế bảo hiến”, Kỷ yếu Hội thảo về cơ chế bảo hiến do Ban công tác lập pháp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổ chức, Thành phố Vinh, tháng 3/2005, tr.
- Đào Trí Úc, “Bước đầu tìm hiểu vấn đề tài phán Hiến pháp (constitutional review) ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo về cơ chế bảo hiến do Ban công tác lập pháp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổ chức, Thành phố Vinh, tháng 3/2005, tr.45-46.